Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

LUẬN VĂN: Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.03 KB, 58 trang )











LUẬN VĂN:

Kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam










Đặt vấn đề.

Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể nói, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã được xác lập và phát huy hiệu quả.
Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ phận kinh tế


Nhà nước (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu để
Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì nữa KTNN là lực lượng đảm
bảo cho mục tiêu XHCN ở nước ta.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của KTNN có những biểu
hiện suy giảm. Trong khi các thành phần kinh tế khác có những biểu hiện phát triển
vượt bậc, đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ cải cách tiến hành
chậm, nhiều cơ chế chính sách còn vướng mắc chưa được tháo bỏ triệt để, tàn dư
của chế độ quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, vấn đề nợ đọng, lao động dôi dư
chưa được giải quyết thoả đáng, còn những tranh cãi về mặt lí luận, nhiều ý kiến
khác nhau chưa được tổng kết thực tiễn kết luận.

Phát triển KTNN là đòi hỏi sống còn với nền kinh tế và định hướng XHCN ở
Việt Nam. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã nhấn mạnh sự cần thiết “
tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân” ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất
bản chính trị quốc gia 2001, Tr 189); Nghị quyết Hội nghị lần thức 3, Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX (gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 3) đã đề ra các
giải pháp cơ bản về vấn đề này theo hướng tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Để có thể thành công còn
rất nhiều những khó khăn cần giải quyết. Đây là một vấn đề nghiên cứu rộng và thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước.

Xuất phát từ những thực tiễn trên, tác giả của đề án đã chọn đề tài “Kinh tế
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” làm nội
dung nghiên cứu với hy vọng tìm hiểu sâu hơn về KTNN và đưa ra các kiến giải của



nhiều nhà kinh tế giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về vấn đề này, đồng thời

trong khả năng có thể đưa một vài tham luận của cá nhân đóng góp vào các giải
pháp phát triển KTNN hiện nay.

Đề án tập trung giải quyết những vấn đề sau :

- Làm rõ khái niệm KTNN, cơ sở lý luận, sự cần thiết của vai trò chủ đạo của
KTNN.

- Mô tả thực trạng của KTNN, thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước, những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân.

- Đưa ra và phân tích các giải pháp, đóng góp ý kiến nhằm phát triển KTNN.




Phần thứ nhất: Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.

I. Khái quát lí luận về thời kì quá độ, Sự tồn tại khách quan nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kì quá độ.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc
trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh
thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những nguyên tắc cơ bản của
xã hội XHCN được thực hiện.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử bởi vì CNXH – giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra đời trong
lòng xã hội cũ. Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa

đòi hỏi một thời kỳ lâu dài.

Khái niệm quá độ lên chủ nghĩa xã hội được vận dụng trong mọi lĩnh vực
của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, tập quán trong xã hội. Trong đó,
về kinh tế trong thời kỳ quá độ, theo Lê-nin, là nền kinh tế nhiều thành phần, bên
cạnh các thành phần kinh tế XHCN, còn có những thành phần kinh tế khác như tư
bản nhà nước, tư bản tư nhân, cá thể v.v; về chính trị, đó là sự lãnh đạo của Nhà
nước chuyên chính vô sản.

- Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ là một tất yếu
khách quan. V.I . Lê-nin chỉ ra: danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh
tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ
phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay không? Bất cứ ai
cũng thừa nhận là có. Thực vậy, đối với mỗi hình thái kinh tế xã hội có nhiều
phương thức sản xuất biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong thời kì quá độ,
chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế
khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội
trong một thể thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần có kiểu tổ chức sản xuất kinh



doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Điều này phản ánh
đúng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Trên thực tế, cách mạng vô sản đã thành công ở những nước
tư bản trung bình và những nước kém phát triển (trong đó có Việt Nam). Để xây
dựng xã hội XHCN với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, phải có thời
gian tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xây
dựng kiểu xã hội mới. Việc áp dụng những quan hệ sản xuất XHCN, khi sự phát
triển của lực lượng sản xuất chưa theo kịp, nóng vội cải tạo các quan hệ sở hữu như
trước đây ở các nước XHCN là phi lịch sử. Chỉ có phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần mới tạo động lực phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế để phát triển, từ đó mà xây dựng cơ s
ở vật chất cho CNXH.

- Sự lãnh đạo của Nhà nước chuyên chính vô sản sẽ đảm bảo dẫn dắt xã hội
phát triển tiến lên CNXH. Trong hệ thống chuyên chính vô sản bộ phận quan trọng
nhất là Nhà nước. Giai cấp vô sản phải nắm lấy chính quyền, từng bước cải tạo xã
hội, chống các thế lực thù địch dù đã mất đi vị thế chính trị song vẫn còn rất mạnh,
từng bước xây dựng xã hội mới. Xét theo khía cạnh kinh tế, tầm quan trọng của
Nhà nước trong hệ thống chuyên chính vô sản biểu hiện ở vai trò và chức năng kinh
tế của Nhà nước. Trong xã hội tư bản, vai trò của Nhà nước không chỉ dừng lại ở
thuế khoá (nhằm nuôi sống bộ máy cai trị ), với sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã
làm cho nhà nước bắt đầu can thiệp vào quá trình sản xuất. Một mình thị trường
không làm nổi chức năng điều tiết nền kinh tế, cần phải có bàn tay của Nhà nước
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc (Lí thuyết “hai bàn tay”của
P.Samuelson ). Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước xã hội XHCN được Lê-
nin phát triển và áp dụng trong công cuộc xây dựng nhà nước Xô-viết. Lê-nin cho
rằng Nhà nước có chức năng tổ chức quản lí nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt trong hệ
thống chuyên chính vô sản hiện nay Nhà nước có vai trò bà đỡ-vai trò tạo điều kiện
cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Vậy, ta có thể tóm tắt công thức của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của Nhà nước vô sản. Sản xuất hàng hoá là tất
yếu nó không đối lập với tính kế hoạch XHCN, vấn đề là phải áp dụng tính trội của



mỗi tính về mặt tích cực mà xã hội mong muốn. Sản xuất hàng hoá và tính hàng hoá
với tư cách là kiểu sản xuất tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau
không những nhông mất đi mà còn cần phát triển cùng với tính kế hoạch định

hướng phát triển từ thấp đến cao. Hay có thể gọi là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà chúng ta đang phát triển hiện nay. Trong đó để thực hiện, nhất
thiết phải có vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước. Bởi sự cải biến kinh tế – xã hội
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải gắn vói sự cải biến về chính
trị. Không thể cải biến kinh tế – xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Theo
Mác và Ănghen, sự ra đời của vai trò kinh tế của nhà nước thúc đẩy các điều kiện
kinh tế – xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Đó chính là khởi nguyên
của tư tưởng về vai trò chủ đạo của KTNN.

Xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta nhỏ bé và
lạc hậu việc áp dụng một nền kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình kinh tế chỉ huy
như vừa qua là chưa phù hợp. Để tiến lên CNXH tất yếu phải trải qua thời kì quá độ
với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Chúng ta quá độ thẳng lên chủ
nghĩa xã hội song tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ
nghĩa tư bản để phát triển kinh tế và KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Đó chính là
những nội dung cơ bản mà Việt Nam đã phát triển tư chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng
vào thời kì đổi mới.





II. Quan niệm về KTNN

KTNN là một thuật ngữ bao hàm một nội dung khá rộng, được xác định theo
ý nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu. ở Việt Nam, thuật ngữ KTNN được
sử dụng rộng rãi từ sau Đại hội VIII thay cho thuật ngữ kinh tế quốc doanh. Theo
cách hiểu chung nhất hiện nay, KTNN là thuật ngữ chỉ phần tài sản thuộc sỏ hữu
Nhà nước. Phần tài sản đó bao gồm :


1. Tài nguyên khoáng sản, đất đai, .v.v. là tài sản quốc gia do Nhà nước làm
chủ sở hữu.

2. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do Nhà nước đảm nhiệm và các quỹ dự trữ
quốc gia.

3. Ngân hàng Nhà nước, kho bạc nhà nước, tài chính nhà nước.

4. Các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.

5. Phần vốn Nhà nước đầu tư vào các thành phần kinh tế khác dưới dạng
công ty cổ phần.

Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, KTNN giữ vai
trò chủ đạo.

Về hình thức thể hiện KTNN bao gồm hai hệ thống: hệ thống doanh nghiệp
và hệ thống phi doanh nghiệp. Hệ thống doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp
thực hiện các hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp công ích. Hệ thống phi
doanh nghiệp bao gồm ngân sách Nhà nước, các quỹ quốc gia, tài nguyên thuộc sở
hữu nhà nước, v.v…


III. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.




Vận dụng lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, ta có thể khái quát đặc điểm của
thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của nhà

nước chuyên chính vô sản hay có thể nói đó là nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam hiện nay. Trong hệ thống này đặc biệt nổi lên vai trò kinh tế của Nhà nước.
Mọi người đều biết rằng sự cải biến kinh tế – xã hội trong thời kì quá độ lên CNXH,
tất yếu phải gắn với cải biến về chính trị. hay không thể cải biến kinh tế xã hội nếu
thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhà nước bằng những công cụ, chíng sách kinh
tế vĩ mô điều tiết hạn chế những tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường. Nhà nước
XHCN không đứng ở bên ngoài mà trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất với tư
cách là thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuát của hình thái xã hội
tương lai. Muốn vậy, KTNN phải giữ vai trò chủ đạo. Thực vậy, nếu KTNN không
có ảnh hưởng chi phối được các thành phần kinh tế khác, không làm cho các mối
quan hệ kinh tế diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất XHCN thì việc xây
dựng CNXH chỉ là ảo tưởng.

- Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là
chế độ phù hợp với xu thế xã hội hoá của lực lượng sản xuất.

- Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu xương sống của
nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành
phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định

- Thứ ba, KTNN là lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế:
là lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

- Thứ tư, KTNN có thể tác động các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng
các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua các thể
chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN.





- Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân
sách Nhà nước và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.

- Thứ sáu, KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô
thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng
sống còn nhưng lại ít ai giám đầu tư vì nó đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu
hồi vốn chậm.

Nghị quyết đại hội IX của Đảng ta đã chỉ rõ: KTNN phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then chốt; đi đầu tiến
bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế –
xã hội và chấp hành pháp luật.




Phần thứ hai: Thực trạng phát triển
và đổi mới KTNN

I. Tổng quan sự phát triển của KTNN trong 15 năm đổi mới, phát triển.

Trong 15 năm qua, KTNN đã có những chuyển biến đáng kể: KTNN giữ vai
trò chủ đạo, DNNN giữ những vị trí then chốt nắm trong tay những nguồn lực cơ
bản của xã hội, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.Trong đó nổi bật có những nét đáng chú ý sau:

- Chúng ta đã chuyển đổi thành công từ chế độ quản lý quan liêu bao cấp

sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

- Tiến hành sắp xếp, đổi mới DNNN và đã thu được những kết quả bước đầu
đáng khích lệ.

- Tốc độ tăng trưởng của KTNN khá đều đặn, hàng năm đóng góp từ 40-46%
cho GDP.

Bên cạnh đó, KTNN vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém như : chưa được
củng cố tương xứng vai trò chủ đạo, chưa có những chuyển biến đáng kể trong sắp
xếp và đổi mới DNNN… và còn nhiều vấn đề phức tạp mà bài viết sẽ đề cập cụ thể
trong các phần sau.

1. Thực trạng phát triển.

Trong những năm vừa qua, hoạt động của các DNNN giữ một vị trí quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó là một bộ phận nắm giữ cơ sở vật
chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân; nơi tập trung chủ yếu
giai cấp công nhân và cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lý của đất nước, nơi đưa lại
nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay ở nước ta có khoảng 5280
DNNN với tổng số vốn gần 116 ngàn tỉ đồng. Xét về mặt số lượng chỉ chiếm



khoảng 17% tổng số doanh nghiệp và hàng năm đóng góp từ 40-46% trong tỉ trọng
GDP của cả nước. Các DNNN là lực lượng chủ yếu nắm hầu hết các nguồn lực cơ
bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90%
lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi của Nhà nước
so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhìn chung lực lượng
DNNN đang chiếm giữ một vị trí then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của

đất nước.

Thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1991 đến nay
Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới và sắp xếp lại các DNNN. Đây là một
chủ trương lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn đến, người viết xin đề cập chi tiết trong
những phần sau.

Nhìn chung, hiện nay các DNNN vẫn làm ăn thua lỗ, hiệu quả kinh tế đạt
thấp, tồn tại nhiều bất cập, mức tiết kiệm của DNNN còn hạn chế. Theo báo cáo của
tổng cục quản lí vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp năm 1998 chỉ có 37% số
DNNN làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Theo báo cáo của Bộ trưởng Tài
chính tại Quốc hội thì cuối năm 1999 chỉ có 20% số DNNN kinh doanh có hiệu quả.
Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN giảm dần năm 1996: 11,2%,
1997: 9,7%, 1998: 9,1%, 1999: 9,2%. Con số trên chứng tỏ khả năng sinh lợi của
các DNNN thấp và có xu hướng ngày càng giảm. ở các DNNN tình trạng phổ biến
là ứ đọng hàng hoá, khả năng mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ để sản xuất ra
các mặt hàng có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu hơn rất ít. Sản phẩm giá
thành còn cao, giá xuất xưởng của nhiều loại sản phẩm chủ yếu của ta cao hơn hẳn
giá sản phẩm nhập khẩu.

Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các DNNN sau một thời gian liên tục đạt 13% đến năm 1999đã giảm
xuống còn khoảng 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995: 1 đồng vốn tạo ra
được 3,16 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tạo ra được
2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Nợ nần trong các doanh nghiệp còn rất
cao, năm 1996 tổng số nợ của các DNNN là 174.797 tỉ đồng, năm 1999 đã lên tới



199.060 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả bằng 109% vốn nhà nước trong các doanh

nghiệp và khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp lại rất thấp. Trong khu vực
công nghiệp hoạt động của các DNNN cũng đem lại hiệu quả thấp; Năm 1997
(không kể các ngành khai khoáng là than và dầu khí) tỷ trong xuất khẩu trên tổng
giá trị sản xuất công nghiệp của: DNNN là 17,2%, đầu tư nước ngoài 46,2%, ngoài
quốc donah 46,6%. 5 tháng đầu năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng
14,3% so với cùng kỳ năm 1999, trong đó khu vực DNNN tăng 12,5% (Trung ương
quản lý tăng 11,8%, đại phương quản lý tăng 13,9%); khu vực ngoài quốc doanh
tăng 18,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%. Những số liệu trên đây
cho thấy hiệu quả hoạt động của khu vực quốc doanh thấp hơn nhiều so với khu vực
liên doanh và ngoài quốc doanh.

Từ hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mức đóng góp cho ngân
sách Nhà nước của các DNNN cũng ít hơn các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác. Năm 1998, công nghiệp Nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động
và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn nghành, nhưng chỉ đóng góp 40,7%
thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài với 46,7% vốn, 8,2% lao động đã sản xuất ra 31,8% tổng giá trị sản xuất và
đóng góp 56,8% tổng số nộp ngân sách toàn ngành. Đặc biệt tổng giá trị sản xuất
của khu vực DNNN ngày càng thấp so với tốc độ toàn ngành công nghiệp vốn đã
chậm dần.

Theo số liệu của Bộ tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm
2000 ước tính đạt 41,2% dự toán cả năm và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó thu từ khu vực KTNN chiếm 20,8% tổng số thu, đạt 40,2% và giảm 9,0%,
thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28,7% đạt 46,9% và tăng
68,7%.

2. Thực trạng đổi mới và sắp xếp lại DNNN.

Ngay từ đại hội VI, Đảng ta đã đề xuất chủ trương thực hiện đổi mới sắp xếp

lại DNNN như là một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất



nước, đáp ứng yêu cầu thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN. Từ đó đến nay qua các
thời kì chủ trương này lại được bổ xung và phát triển.

2.1. Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.

Cải cách DNNN là quá trình tất yếu, khách quan. Nó xuất phát từ những yêu
cầu cấp thiết đặt ra ở trong nước cũng như trên thế giới.

Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh
mẽ. Đây là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đây là
một cơ hội giúp chúng ta phát triển, đồng thời nó cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mặt
tiêu cực như sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều này đặt ra
cho chúng ta những yêu cầu và thách thức phải đổi mới để hội nhập. Muốn vậy
phải cải cách nền kinh tế, tăng cường nội lực, để phát triển đón nhận những thời cơ
mà thời đại đem lại. Mà một trong những việc phải làm đầu tiên là cải cách hệ
thống DNNN làm cho nó thích nghi một cách toàn vện với cơ chế mới, tạo đòn bẩy
cho sự tăng trưởng. Điều này khẳng định tính tiên phong của thành phần kinh tế
XHCN.

Thời đại ngày nay ghi nhận những phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật
và công nghệ mà những ứng dụng của chúng đem lại những biến đổi lớn lao trong
đời sống xã hội. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế trí thức. Việt Nam cũng
chuyển mình đón nhận những thành tựu do khoa học kĩ thuật đem lại. Hệ thống các
DNNN phải đi đầu cải tiến, đổi mới sản xuất, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại,
là tấm gương tiêu biểu trong sự nghiệp phát triển kinh tế.


Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, việc áp dụng quá lâu cơ chế quản lý
quan liêu bao cấp đã gây ra sự khủng hoảng trong đời sống kinh tế – xã hội. Suốt
mộ thời gian dài Nhà nước là người đứng ra quyết định tất cả các vấn đề về sản
xuất cũng như tiêu thụ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ thụ động sản xuất
theo kế hoạch đề ra, chúng chỉ như những phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc
dân. Lối quản lý này làm sơ cứng nền kinh tế, mất đi động lực phát triển, phí phạm



tài nguyên và các vấn đề lợi ích khác không được giải quyết thoả đáng. Đại hội
Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế, chuyển đổi cơ chế quan liêu bao cấp
sang thực hiện cơ chế thị trường. Cùng với nó là quá trình cải tổ sâu sắc trong hệ
thống DNNN đáp ứng đòi hỏi của cơ chế mới thời kỳ mới.

Cơ chế quản lý không phù hợp, cùng với những nguyên nhân khách quan
như chiến tranh cấm vận để lại di chứng rất nặng nề cho nền kinh tế. Đó là tình
trạng yếu kém của hầu hết cácDNNN, sản xuất đình trệ. Hiện tại, các doanh nghiệp
có những khó khăn chủ yếu sau trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, máy móc nhà
xưởng cũ kỹ, năng kực đội ngũ cán bộ không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra,
sử dụng vốn kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng chất gây gánh
nặng cho nền kinh tế. Cải cách DNNN làm cho chúng phát triển là một trong những
yêu cầu cấp bách đặt ra trong hiện tại cũng như tương lai.

Việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải theo hướng tập trung nắm giữ những đầu
mối chính, tạo sự năng động tự chủ của các doanh nghệp. Nhà nước chỉ nắm giữ
những ngành, lĩnh vực chủ chốt làm tăng tính hiệu quả của hoạt động Nhà nước.
Điều này không hề làm giảm sút sức mạnh của KTNN mà còn tạo cho Nhà nước
một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Từ đó mà định hướng XHCN ngày
càng được xác lập


2.2. Phương hướng chung, đường lối chỉ đạo, mục tiêu nguyên tắc

Trên tinh thần Đại hội IX, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp và ra
nghị quyết TW3 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quảDNNN. Nghị quyết nêu rõ :

* Quan điểm chỉ đạo.

- KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN (gồm
DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi



mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công
cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lượng nòng
cốt, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiên vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, là chủ lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc
xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế,
chinh trị, xã hội; trong đó, lấy lãi suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu
chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực
hiện các chính sách xã hội làm kết quả chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh
nghiệp công ích.

- Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào
những nghành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đói
với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trong lớn trong tất
cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN, cho phá sản
DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Qua 3 đợt,
DNNN đã giảm từ 12 300 doanh nghiệp còn 5 571 ( giảm 55% về số lượng, chủ yếu

là doanh nghiệp nhỏ và do địa phương quản lý ). Cơ cấu DNNN bắt đầu được điều
chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành
và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh
tranh. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm từ 50% năm 1994 xuống còn
26% năm 1999 ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng tăng tương ứng, từ 10% lên
20% ; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỉ đồng.
Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, Nhà nước đã giải quyết trợ cấp thôi
việc một lần cho 72 vạn lao động.

Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các tổng công ty nhà nước ( TCTNN )
nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nước vào các ngành then chốt mà Nhà nước cần
chi phối… Thời gian qua, đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty.
Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập 17 tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các
bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý 77 tổng công
ty 90. Các TCTNN có 1 534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm
27,5% tổng số doanh nghiệp cả nước, 61% về lao động ( riêng 17 tổng công ty 91



có 491 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN,
35% lao động ). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọngđể Nhà nước điều tiết
quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm các cân đối lớn
của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy
động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công nghệ,tăng nhanh năng suất lao động,
hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh ( năm 1999, riêng 17 tổng công ty 91 đã bổ sung
thêm nguồn vốn 15 850 tỷ đồng, chiếm 22,5% tổng số vốn, doanh thu tăng 12%, lợi
nhuận tăng 23%, nộp ngân sách tăng 29% ).

Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ

100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển. Tính đến hết tháng 11/2001, cả nước đã có 771 doanh nghiệp được cổ
phần hoá và chuyển đổi sở hữu (trong đó có 698 doanh nghiệp được cổ phần hoá,
41 doanh nghiệp được giao và 32 doanh nghiệp được bán), bằng 13% số doanh
nghiệp hiện có, với số vốn gần 3.000tỷ đồng, bằng hơn 2% tổng vốn nhà nước trong
DNNN. Sau khi cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp đã huy động
được thêm hơn 2.000 tỷ đồng của các cá nhân pháp nhân, đồng thời thông qua bán
cổ phiếu, Nhà nước đã thu thêm hơn 1150 tỷ đồng để đầu tư và giải quyết chính
sách cho người lao động. Bên cạnh đó, phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau
khi chuyển đổi không mất đi mà lại tăng thêm từ 10 – 15% so với giá trị trên sổ
sách. Cùng với quá trình cổ phần hoá, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số
DNNN đầu tư một phần vốn thành lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 18-5-2000,
DNNN đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nước
là 868,8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy :
267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hoà vốn.

Năm là, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có
quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nước, bảo đảm việc
làm và thu nhập của người lao động. Theo báo cáo chưa đầy đủ, đến ngày
31/1/2001, số DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê theo Nghị
định 103/1999/NĐ-CP là 105 doanh nghiệp. Hình thức doanh nghiệp sau khi



chuyển đổi chủ yếu là công ty cổ phần, cổ đông chủ yếu là số lao động làm việc tại
doanh nghiệp, ngoài ra cũng có một số trường hợp bán cho người ngoài doanh
nghiệp. Phần lớn các địa phương và doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao và bán
(chuyển đổi sở hữu), chiếm tương ứng 37% và 47,5%; thực hiện thuê và khoán kinh
doanh (chuyển đổi phương tức quản lý) chỉ chiếm tương ứng 2% và 15,2%. Đánh
giá một cách tổng quát, sau khi chuyển đổi, nhiều doanh nghiệp đã ổn định tổ chức,

vốn kinh doanh có xu thế tăng, doanh thu và lợi nhuận tăng, thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ với Nhà nước, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Cụ thể, so với trước khi
chuyển đổi, vốn kinh doanh tăng 67,3 %; doanh thu tăng 42,5%; nộp ngân sách Nhà
nước tăng 44,5%; số lao động tăng 12,8%; thu nhập bình quân của người lao động
tăng 38,7% ( từ 280.000 lên 388.000 đồng/người/tháng)… Từ đó cho thấy việc
thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình trạng
giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của Nhà nước; khắc phục được
tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của DNNN được phát
huy, xoá được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả năng huy động nguồn vốn
trong dân.

Trong các nội dung trên, cổ phần hoá các DNNN và đổi mới cơ chế chính
sách là hai xu thế chủ đạo của tiến trình này người viết xin đề cập chi tiết trong
những phần sau.

*Về mặt thành tựu, có thể khái quát mặt được của DNNN sau quá trình sắp
xếp đổi mới như sau :

- Hầu hết các DNNN đều có những chuyển biến tích cực: cơ cấu và quy mô
bước đầu được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn; thích ứng được với cơ chế thị
trường; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn được bảo toàn và tăng
thêm; vốn tích luỹ, tự bổ sung từ chỗ không đáng kể đã tăng lên 27% tổng vốn sản
suất kinh doanh; hiệu quả hoạt động từng bước tăng lên.

- DNNN đã góp phần rất quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được các ngành và lĩnh vực then chốt; thực



sự là nòng cốt tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách Nhà

nước; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô; là
lượng chính trong việc bảo đảm các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã
hội.

- Số DNNN giảm mạnh nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN vẫn duy
trì mức khá cao, bình quân tăng 11%/năm trong 10 năm (1991 –1999). Năm 2000
các DNNN đóng góp 39 % GDP.

II. Vấn đề đặt ra.

Như vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta đã hiểu phần nào về thực
trạng của các DNNN, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại và vướng mắc cần giải
quyết. Trong phạm vi bài viết chỉ xin đưa ra những vấn đề cơ bản nhất:

Thứ nhất, về mặt nhận thức quan điểm, chưa có sự thống nhất cao trong nhận
thức về vai trò, vị trí của KTNN và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến
khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. Từ đó dẫn đến cơ chế
chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ.

Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN còn
thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của
DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của một
bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, năm 1998 số DNNN
thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh nghiệp kinh doanh
không có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại 40% doanh nghiệp kinh
doanh chưa hiệu quả khi lỗ khi lãi. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn nhà nước
của DNNN không cao và có xu hướng giảm dần (Năm 1996 là 11,2 %, năm 1997 là
9,3%, năm 1998 là 9,1%, năm 1999 là 9,2%). Không ít doanh nghiệp xây dựng dư
án, kế hoạch không phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính




khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít doanh nghiệp chưa tốt, còn có tình trạng ăn
vào vốn, mất vốn.

Thứ ba, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là
cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu của Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thì trừ một số doanh nghiệp có trình độ khoa
học và công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực ( sản xuất thiết
bị đo điện, sản xuất điện tử, sản xuất sợi dệt …) còn lại máy móc thiết bị, dây
chuyền sản xuất của các doanh nghiệp của ta lạc hậu so với thế giới và khu vực từ
10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi); trình độ cơ khí tự động hoá
dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình
trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép, phân bón, xi măng,
kính xây dựng…có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đường
thô cao hơn 70% - 80%. Đến tháng 10/2000 cả nước mới có 236 doanhy nghiệp
được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000, trong đó chỉ có 97 DNNN.

Thứ tư, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề
và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5771 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng
116 000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng; số doanh nghiệp
có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN tập trung vào những ngành những
lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN nhất thiết phải chi phối.

Thứ năm, lao dộng thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng là
khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu
của bộ Lao động Thương binh - Xã hội, hiện nay, số lao độnh không có việc làm
thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp
lên tới 40%. Đây là một thực trạng bức xúc mà người viết xin đề cậpcụ thể trong

những phần sau.

Thứ sáu, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu kém chưa đáp ứng
yêu cầu của cơ chế thị trường; nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại,
chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trước cơ chế thị trường.




Thứ bảy, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều tồn tại
vướng mắc cần tháo gỡ.

- Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn
nhều điểm chưa phù hợp với loại hình DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh
doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng
mức để DNNN tự chủ tự tạo trách nhiệm, năng độnh trong sản xuất kinh doanh, tích
tụ vốn đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng và phát triển được đồng bộ thị
trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt vốn trong toàn xã hội, đáp ứng nhu
cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng
vẫn còn nhiều bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng
nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh , tạo điều kiện cho tích luỹ vốn. Chế độ
kế toán chưa tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân
phối thu nhập chưa tạo động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao
động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa
gắnchặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không
còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi chẳng hạn như : Quỹ
dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ lợi nhuận để lại cho doanh
nghiệp), tiền thu sử dụng vốn…

- Về đầu tư , việc phân cấp giao quyền quyết định cho doanh nghiệp chưa rõ

ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không hiệu
quả và chưa có cơ chế kiểm soát đầu tư.

- Về quản lý Nhà nước, chưa phân định rõ các loại quyền như :quyền quản
lý của Nhà nước đối với DNNN; quyền của cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ sở
hữu ; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp với doanh nghiệp ; quyền sử dụng vốn
và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ; còn quá nhiều văn bản pháp qui
chồng chéo, thiếu khả thi ; cơ chế phá sản của doanh nghiệp còn chưa được thực
hiện theo luật phá sản doanh nghiệp (Đại diện ngân hàng sợ mất vốn; đại diện công



nhân viên chức sơ không giải quyết được chế độ với công nhân; lãnh đạo doanh
nghiệp sợ mất quyền lợi và truy cứu trách nhiệm).

* Những khó khăn gặp phải trong quá trình cải cách doanh nghiệp.

Cải cách doanh nghiệp là một chủ trương lớn hiện nay nó có tính chất quyết
định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Song hiện nay tiến trình này vẫn chưa
phát huy hiệu quả. Vấn đề là do đâu? Bài viết xin đề cập đến những vướng mắc còn
tồn tại trong quá trình này với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp.

+ Đầu tiên, xin đề cập tới việc thành lập các tổng công ty 90, 91 . Qua thực
trạng hoạt động cho thấy ở không ít tổng công ty hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp thành viên còn rời rạc, chưa tạo lập được thực thể kinh tế thống
nhất bằng cơ chế tổ chức và điều hành. Mặc dù có nhiều lợi thế, song một số tổng
công ty chưa thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo đảm cân đối kịp thời nhu
cầu về một số mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và đời sống. Một số tổng công ty tổ
chức bộ máy cán bộ quá công kềnh, chưa có chính sách phù hợp, cơ chế quyết định
nhân sự hiện hành chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý

của tổng giám đốc. Tổng giám đốc không có quyền bổ nhiệm giám đốc thành viên,
giám đốc có quyền tuyển dụng lao động không hạn chế, nhưng không có quyền sa
thải; tổng giám đốc, giám đốc, hội đồng quản trị không được chủ động bố trí bộ
máy doanh nghiệp. Việc quy định chức năng và nhiệm vụ của tổng giám đốc và của
hội đồng quản trị chưa rõ ràng; mối quan hệ của nhiều công ty với các đơn vị thành
viên vẫn là hành chính, chưa dựa trên quan hệ tài chính, trách nhiệm và quyền lợi;
quan hệ giữa các đơn vị thành viên với nhau còn mang tính ghép nối cơ học. Một
số tổng công ty vin vào độc quyền để bắt nghẹt người tiêu dùng. Nhiều tổng công ty
chưa làm tốt chức năng thị trường, phó mặc cho các đơn vị thành viên.

+ Thứ hai, quá trình cổ phần hoá hiện nay còn nhiều vướng mắc. Trước hết,
vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá, phưong pháp xác định chưa
thể hiện rõ xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn bỏ sót yếu tố cấu thành quan
trọng là quyền sử dụng đất. Việc đánh giá còn mang tính cảm quan, thoả hiệp giữa



hội đồng doanh nghiệp và doanh nghiệp được định giá. Thủ tục còn rườm rà, phức
tạp. Khi tiến hành cổ phần hoá, vẫn chưa tách bạch được người đại diện chủ sở hữu
và người quản lý trực tiếp phần vốn tại doanh nghiệp cổ phần hoá, nên xảy ra tình
trạng doanh nghiệp vừa là người mua vừa là người bán, vừa tham gia định giá, vừa
tổ chức bán cổ phần của Nhà nước… dẫn đến tình trạng chỉ bán nội bộ, hoặc cố tình
không bán ra ngoài để giảm giá hoặc trì hoãn thực hiện cổ phần hoá. Chưa có cơ
chế xử lý những công nợ dây dưa và tài sản không cần dùng ở các doanh nghiệp cổ
phần hoá nên đã làm chậm tiến trình gây tổn thất cho Nhà nước. Một vấn đề nữa là
chính sách đối với người lao động chưa bình đẳng khi thực hiện khống chế tỷ lệ giá
trị ưu đãi trên vốn Nhà nước nên gây thiệt thòi cho người lao động có ít vốn nhà
nước . NGoài ra, việc giải quyết chính sách lao độnh mất việc, thôi việc còn mang
nặng tính bao cấp, dồn hết gánh nặng cho ngân sách nhà nước. CHủ trương là tạo
điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp thông qua mua cổ phiếu nhưng

đa số hội đồng quản trị không có thành viên nào là đại diện của người lao động.

+ Thứ ba là vấn đề xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DNNN. Theo kết quả
kiểm kê đến ngày 1/1/2000, tổng số nợ tồn đọng ở các DNNN lên tới 31.935 tỷ
đồng. Trong đó, nợ phải thu quá hạn là 21.218 tỷ đồng và nợ quá hạn là 10.717 tỷ
đồng. Với tình trạng trên, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào tình trạng “lãi
không đủ trả nợ”. Đó là chưa kể đến tổng giá trị tài sản không cần dùng, chờ thanh
lý ở các DNNN hiện lên tới 3285 tỷ đồng, và trên 300 tỷ đồng nợ khó đòi và tài sản
không cần dùng, chờ thanh lý đã được loại trừ khi thực hiẹn chuyên đổi sở hữu hơn
700 doanh nghiệp và bộ phận DNNN chưa được xử lý triệt để đang giao cho các
công ty cổ phần giữ hộ. Tình trạng trên khiến cho một khối lượng không nhỏ của
cải vật chất của xã hội không được khai thác, sử dụng là nguy cơ tiềm ẩn cho nền
kinh tế.

+ Cuối cùng là vấn đề lao động dôi dư trong sắp xếp DNNN. Theo số liệu của
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 100.000 lao
động dôi dư từ quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, nhưng không thể bố trí được
việc làm, cũng như vẫn chưa được hưởng theo chế độ quy định hiện hành. Hiện nay
số lao động trong các DNNN là 1,7 triệu người xấp xỉ bằng con số của năm 1991



(trong khi số lượng DNNN đã giảm hơn một nửa). Theo lộ trình sắp xếp DNNN từ
nay đến năm 2003, số lao động bố trí được việc làm là khoảng 150.000 người. Đó là
chưa kể số lao động dư thừa còn khoảng 200.000 ở các doanh nghiệp vẫn giữ 100%
vốn Nhà nước. Đây là một gánh nặng cho sự phát triển cả trong hiện tại lẫn tương
lai.

III. Nguyên nhân.


Để phân tích nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN hiện nay
chúng ta phải nhìn nhận toàn diện. Về đại thể có thể chia làm hai nhóm nguyên
nhân:

1. Nguyên nhân khách quan - Sự kìm hãm của những di sản lịch sử.

Các DNNN của nước ta hiện nay, trừ phần nhỏ được thành lập mới trong giai
đoạn cải cách, đa phần là doanh nghiệp cũ dế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng
như công nghệ kỹ thuật lạc hậu không có nguồn thay thế. Theo thống kê của bộ
công nghiệp thì thiết bị của DNNN hiện nay có 26% của Liên Xô (cũ), 24% của các
nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là của các nước
khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%; nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất
giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách Nhà nước
những năm trước; lao động vừa thiếu ( thiếu lao động lành nghề) vừa thừa ( lao
động không đáp ứng yêu cầu của công việc) song chưa có cơ chế giải quyết; cơ cấu
DNNN không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành
nghề v.v. Gánh nặng lịch sử đó không phải chúng ta có thể khắc phục trong ngày
một ngày hai. Để thoát ra khỏi tình thế quẫn bách đó, chúng ta cũng không thể dùng
giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều
con người trong cậy vào đây. Chúng ta chỉ có thể gỡ rối dần dần, vừa cải tổ vừa giữ
ổn định kinh tế và xã hội. Chính vì thế hiệu quả của hệ thống DNNN chưa thể cải
thiện nhanh.

2. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm :




- Về mặt quan điểm nhận thức, chưa có sự thống nhất trong nhận thức về
những chủ trương đường lối của Đảng dẫn đến khi thực hiện hiệu quả còn thấp, đặc

biệt là tình trạng trên thông nhưng dưới không thông. Nhiều vấn đề chưa rõ, còn
nhiều ý kiến khác nhau đang gây tranh cãi.

- Liên quan đến mức độ chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý DNNN. Những
cải tổ cơ chế quản lý DNNN từ năm 1981 đến nay có thể coi là một bước cách
mạng trong mô hình tổ chức kinh tế-xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản
chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân
sang vai trò một pháp nhân có quyền tổ chức sản xuất và kinh doanh hàng hoá độc
lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở mốt số điểm như cơ chế thực thi sở
hữu Nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản
hành chính trước kia( như duyệt dự án đầu tư mới , bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm
tra theo chức năng của cơ quan chủ quản v.v.) đồng thời lại buộc phải thừa nhần
quyền tư chủ khá rộng rãi của doanh ghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm
vừa lo, còn cơ quan quản lý Nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp quá nhiều vào
công việc của doang nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ví dụ điển hình cho
tình trạng này là vụ việc của Công ty dệt Nam Định. Một phần hoạt động sai
nguyên tắc tài chính của dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không hiệu quả. Song
cả 26 dự án náy đều được Bộ Công nghiệp ký duyệt; các cơ quan quản lý Nhà nước
có chức năng kiểm tra thanh tra vừa phân tán, vừa chồng chéo (do các văn bản pháp
quy mới cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàn lọc) nhưng đồng thời lại
không có một cơ quan Nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự còn mất của tài sản
Nhà nước , cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng
ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng
nữa, đều đại diện cho một lợi ích độc lập , đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu Nhà
nước không kiểm soát tốt (mà điều này khó làm được nếu không có những tiêu
chuẩn tốt về kế toán, thống kê, kiểm toán) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận
thành chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và công nhân. Ngoài ra
còn có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách
nhiệm của những người liên quan. Chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính




không rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó đòi trở
thành phổ biến, doanh nghiệp không thể phá sản vì chủ nợ không đệ đơn v.v. là hậu
quả của chính tình trạng thể chế hoá sở hữu Nhà nước chưa tìm được hình thức hợp
lý.

- Liên quan đến những thách thức chung của nền kinh tế nước ta. Tình
trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là kém hiêu quả và sức cạnh
tranh thấp . Tại sao? Bởi vì tiềm năng tư đổi nới công nghệ của nước ta rất thấp.
Phần GDP giành cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi dùng cho những lĩnh vực
lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến lược chuyển giao công nghệ chưa được nhận thức
đúng để vạch ra và thực hiện một cách kiên quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể
hiện khá nhiều sai lầm (như xi măng lò đứng, nhà máy sản xuất đường, sản xuất
gạch tuy nen v.v) Nền kinh tế chưa hình thành, các ngành mũi nhọn đủ sức nâng các
doanh nghiệp nói riêng, và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra các
giám đốc DNNN.cũng như mọi người dân Việt Nam khác còn rất bỡ ngỡ với cung
cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liết do vậy nhiều khi còn bị lường gạt,
Ngoài ra tệ nạm tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trong nền kinh tế cũng là
những căn nguyên làm giảm thiệu quả DNNN.

- Ngoài ra còn một nhóm các nguyên nhân cũng ảnh hưởng rất lớn tới tiến
trình cải cách doanh nghiệp. Thứ nhất, chưa có người chủ thực sự tư liệu sản xuất.
Chính phủ ở xa, giám đốc trên danh nghĩa được nhà nước bổ nhiệm thay mặt Chính
phủ để điều hành quản lý sản xuất kinh doanh song chưa thực sự là ông chủ, còn
công nhân thực chất vẫn không phải là chủ. Thực chất không có ai chăm lo bảo tồn
và phát triển nguồn vốn không có ai chịu trách nhiệm khi mất mát thua lỗ. Hai là,
Nhà nước ít vốn song đầu tư còn dàn trải, chủ yếu đủ để giữ cho các doanh nghiệp
tồn tại chứ không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong thị trường sôi động. Ba là,
tình trạng phân phối trong các doanh nghiệp không phù hợp với kết quả sản xuất

kinh doanh, không khuyến khích được sản xuất, chưa khơi dậy được lòng tin trong
quần chúng , để họ tự giác gắn bó và cùng chịu trách nhiệm. Bốn là, cán bộ quản lý
chưa thực sự có đủ tiêu chuẩn trí tuệ tâm huyết với nhà nước chưa thực sự dũng
cảm tự chịu trách nhiệm.

×