Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN đề tài ĐÁNH GIÁ cơ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP về đầu tư QUY ĐỊNH tại HIỆP ĐỊNH EVIPA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.16 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠẠ̣I HỌC
LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT QUỐC TẾ


TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀÀ̀I: ĐÁÁ́NH GIÁÁ́ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
ĐẦU TƯ QUY ĐỊNH TẠẠ̣I HIỆP ĐỊNH EVIPA
MÔN: PHÁÁ́P LUẬT ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN PHƯỢNG AN
LỚP: QUỐC TẾ 44.2

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2021

1


DANH SÁÁ́CH SINH VIÊN VÀÀ̀ PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT

HỌ VÀÀ̀ TÊN

1

Nguyễn Lâm Nhi
(nhóm trưởng)

2

Nguyễn
Khiêm


3

4

5

6

Nguyễn
Trần Ái Linh

Nguyễn Yến Nhi
Phạm
Như Quỳnh
Phạm Trần
Phương
Quỳnh

7

Trần Thị Diễm
Quỳnh

8

Đặng Ngọc Thà


2



MỤẠ̣C LỤẠ̣C
DANH MỤẠ̣C TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU..............................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ THỰC TIỄN GIỮA VIỆT NAM – EU VÀÀ̀
HIỆP ĐỊNH BẢO HỘẠ̣ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – EU (EVIPA)................................................................7
1.1 Định nghĩa tranh chấp đầu tư và hiệp định bảo hộ đầu tư...................................................................7
1.2. Tình hình thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU..........................................................................8
1.3. Một số vụ việc tranh chấp thực tế giữa Việt Nam và EU................................................................... 9
1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến tranh chấp.......................................................................................... 11
1.5. Nội dung khởi kiện, các lĩnh vực có thể diễn ra tranh chấp chủ yếu................................................12
1.6. Sự cấp thiết của việc ra đời hiệp định...............................................................................................12
1.7. Bối cảnh ra đời EVIPA..................................................................................................................... 13
1.8. Các mốc thời gian chính...................................................................................................................16
CHƯƠNG 2: NỢẠ̣I DUNG CHÍNH CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA EVIPA...........16
2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp...................................................................................................16
2.1.1. Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa chính phủ – chính phủ:...................................... 16
2.1.2. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngồi và Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư....16
2.2. Các cơ quan giải quyết tranh chấp....................................................................................................17
2.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal).......................................................... 17
2.2.2. Hội đồng xét xử sơ thẩm (instance tribunal)..........................................................................18
2.2.3. Hội đồng xét xử phúc thẩm (appeal tribunal)........................................................................19
2.3. Trình tự giải quyết tranh chấp...........................................................................................................19
2.3.1. Trình tự giải quyết tranh chấp của phương thức hồ giải và tham vấn.................................19
2.3.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua phương thức trọng tài............................. 20
2.3.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp theo phương thức toà án.......................................... 20
CHƯƠNG 3: ĐÁÁ́NH GIÁÁ́ MẶT LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP.........21
3.1. Đối với EU........................................................................................................................................21
3.2. Đối với Việt Nam..............................................................................................................................23
3.2.1. Những điểm đặc biệt cần lưu ý của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA....................23

3.2.2. So sánh giữa tranh chấp đầu tư EVIPA và truyền thống........................................................25
3.3.3. Đánh giá tác động của cơ chế đối với Việt Nam....................................................................26
CHƯƠNG 4: CƠ HỘẠ̣I VÀÀ̀ THÁÁ́CH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM...................................................26
CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRƯỚC KHI THỰC THI HIỆP ĐỊNH. .28

TỔNG KẾT.................................................................................................................................................31

3


DANH MỤẠ̣C TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
EVIPA (IPA)

EVFTA
EP
EU
ISDS

UNCITRAL

IIAs
FTA

UNCTAD

CPTPP

ICSID



4


LỜI NÓI ĐẦU
Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS) nên được thiết
kế như thế nào trong các hiệp định đầu tư đang trở thành đề tài gây tranh luận tại các diễn đàn
đa phương trong khn khổ các nhóm cơng tác của Liên Hợp Quốc hoặc Ngân hàng Thế giới.
Mặc dù còn những quan ngại và quan điểm trái chiều, song ISDS vẫn đang tồn tại và phát triển.
Gần đây nhất, Việt Nam cam kết về cơ chế này trong Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam Liên minh châu Âu (EVIPA).
Hiệp định bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam - EU (EVIPA) là sự thỏa thuận giữa Việt Nam
và 27 nước thành viên EU. Đây là một trong hai Hiệp định được tách ra từ Hiệp định thương
mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA). Theo quy định, Hiệp định EVIPA cần phải
được Quốc hội Việt Nam, EP và Nghị viện các nước thành viên EU phê duyệt. Cho đến hiện
nay Hiệp định EVIPA vẫn chưa có hiệu lực. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư
tại Hiệp định đã được Quốc hội Việt Nam tham gia biểu quyết với số phiếu tán thành cao
95,45% bằng việc thông qua Nghị quyết 103/2020/QH14 giữa một bên là nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và một bên là Liên minh châu Âu và các nước thành viên Liên minh
Châu Âu. Hiệp định vẫn đang tiếp tục chờ các Nghị viện quốc gia thành viên EU xem xét, phê
chuẩn EVIPA trong thời gian tới.
Trong khn khổ bài viết này, nhóm chúng tơi sẽ phân tích, làm rõ các vấn đề trong cơ
chế giải quyết giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngồi và Chính phủ nước tiếp nhận
đầu tư được quy đinh tại Hiệp định EVIPA, từ đó đưa ra một số khuyến nghị, đề xuất giải pháp
để thực thi hiệu quả các cam kết về ISDS.

5


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ THỰC TIỄN GIỮA VIỆT NAM – EU
VÀÀ̀ HIỆP ĐỊNH BẢO HỘẠ̣ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – EU (EVIPA)

1.1 Định nghĩa tranh chấp đầu tư và hiệp định bảo hộ đầu tư
Về tranh chấp đầu tư:
Cho đến hiện nay vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào đưa ra định nghĩa cụ thể về tranh
chấp đầu tư quốc tế. Nhưng trên thực tế, trong quá trình giải quyết các tranh chấp về đầu tư thì
Hội đồng trọng tài của Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đã áp dụng khái niệm
tranh chấp tương tự đồng thời cũng dựa vào cách định nghĩa của Tồ án Thường trực Cơng lý
quốc tế và Tồ án Cơng lý quốc tế để giải quyết các vụ việc. Theo Tồ án Thường trực Cơng lý
quốc tế (tiền thân của Tồ án Cơng lý quốc tế) đưa ra định nghĩa về tranh chấp như sau: “Tranh
chấp là sự bất đồng về mặt pháp lý hay trên thực tế, sự xung đột về mặt quan điểm pháp lý
hoặc lợi ích giữa hai hay nhiều người trở lên. Trong một phán quyết khác của Tồ án Cơng lý
quốc tế thì cho rằng “Tranh chấp được hiểu là một tình huống trong đó hai bên có các quan
điểm đối lập liên quan tới câu hỏi về thực hiện hoặc khơng thực hiện một nghĩa vụ nào đó
trong hiệp ước”. Cùng với đó, Từ điển Luật học Black thì định nghĩa:“Tranh chấp được hiểu
là mâu thuẫn hay bất đồng về các yêu cầu hay quyền lợi giữa các bên; sự đòi hỏi về yêu cầu
hay quyền lợi của một bên bị đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược từ bên kia”. 1
Như vậy ta có thể hiểu, tranh chấp đầu tư quốc tế là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ đầu tư quốc tế, phát sinh từ các Hiệp định có liên
quan tới đầu tư quốc tế, Hiệp định bảo hộ đầu tư hoặc hợp đồng, thoả thuận giữa các bên trong
lĩnh vực đầu tư. Bên cạnh đó, tranh chấp đầu tư quốc tế cịn gọi là tranh chấp giữa các nhà đầu
tư nước ngoài với Chính phủ các nước tiếp nhận đầu tư, tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước
ngoài về những vấn đề liên quan đến việc thực thi các cam kết đầu tư quốc tế, ngồi ra cịn có
tranh chấp giữa các Chính phủ thành viên về việc giải thích và áp dụng các Hiệp định đầu tư
quốc tế song phương và đa phương.
Về cơ chế giải quyết tranh chấp:
Có đa cách giải nghĩa từ “cơ chế”. Theo Từ điển phương Tây “Le Petit Larousse” (1999)
giảng nghĩa từ cơ chế là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau",
hay theo từ điển tiếng Việt cơ chế là "cách thức theo đó một q trình thực hiện". Đồng thời,
giải quyết tranh chấp là việc đưa ra các vấn đề cần xem xét, xử lí giải quyết những mâu thuẫn
giữa các bên.
1


Tham khảo: ThS. Nguyễn Thị Anh Thơ, Khoa Pháp luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội “Cơ
chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên” ,
Page: Nghiên cứu Lập Pháp (Viện nghiên cứu Lập Pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội) ngày 26/02/2020.

6


Vậy nên cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ là cách thức sắp xếp tổ chức các vấn đề cần
xem xét giải quyết và ra quyết định xử lí các tranh chấp mâu thuẫn về các yêu cầu hoặc quyền
lợi giữa các bên. Cơ chế giải quyết tranh mang tính khách quan, chính xác và sự minh bạch cao
đề ra phương thức giải quyết để làm giảm thiểu sự tranh chấp.
Về hiệp định bảo hộ đầu tư:
Trên cơ sở quy định về điều ước quốc tế trong Công ước viên về Luật điều ước quốc tế
1969 và Luật điều ước quốc tế 2016 của Việt Nam, có thể hiểu hiệp định là thỏa thuận bằng
văn bản được ký kết giữa các quốc gia, được pháp luật quốc tế điều chỉnh. Và hiệp định bảo hộ
đầu tư là một trong số đó. Hiệp định bảo hộ đầu tư mang nội dung như một rào chắn nhằm bảo
vệ và giải quyết các vấn đề tranh chấp đầu tư. Nhằm tạo ra và duy trì những điều kiện thuận
lợi, cơng bằng và thỏa đáng giữa hai bên ký kết đồng thời, khuyến khích việc đầu tư nguồn
vốn, công nghệ và sự phát triển của các bên ký kết bởi sự an tâm của hiệp định tạo nên.
Theo đó, Hiệp định Bảo hộ đầu tư mà ta ký với Liên minh Châu Âu mang nhiều nội dung rất
mới, tạo nên chế định phòng ngừa và giải quyết tranh chấp đầu tư mang tính tiên phong và giá
trị hơn bao giờ hết.
1.2. Tình hình thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU
Mối quan hệ giữa Việt Nam và EU khẳng định tinh thần đối tác tin cậy, hữu nghị và
cùng chia sẻ tầm nhìn lâu dài của hai bên trong việc nâng cao quan hệ song phương cũng như
cùng nỗ lực đóng góp cho hịa bình, hợp tác và phát triển ở hai khu vực và trên thế giới. Hiệp
định khung về Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) được ký kết ngày 27 tháng
6 năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 2016 với các cam kết mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực đã thể hiện rõ nét chủ trương, chính sách tăng cường phát triển hợp tác toàn diện và

sâu sắc với EU. Năm 2019, EU có 2.375 dự án (tăng 182 dự án so với năm 2018) từ 27/28 quốc
gia thuộc EU còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 25,49 tỉ USD (tăng 1,19 tỉ
USD) chiếm 7,70% số dự án của cả nước và chiếm 7,03% tổng vốn đầu tư đăng ký của các
nước. Trong đó Hà Lan đứng đầu với 344 dự án và 10,05 tỉ USD, chiếm 39,43% tổng vốn đầu
tư của EU tại Việt Nam (tăng 26 dự án và 692,76 triệu USD vốn đầu tư). Vương quốc Anh
đứng thứ hai với 380 dự án và 3,72 tỉ USD tổng vốn đầu tư, chiếm 14,58% tổng vốn đầu tư
(tăng 29 dự án và 210,10 triệu USD vốn đầu tư). Pháp đứng thứ ba với 563 dự án và 3,60 tỉ
USD tổng vốn đầu tư, chiếm 14,13% tổng vốn đầu tư (tăng 23 dự án nhưng giảm 72,07 triệu
USD vốn đầu tư). Hiện nay, EU là khu vực chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và châu Âu, là đối tác thương mại lớn hàng đầu và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2
của Việt Nam (sau Hoa Kỳ).2

2

Xem: Thời báo kinh tế Sài Gòn (ngày 19/03/2020) Số 12.2020(1.527)

7


1.3. Một số vụ việc tranh chấp thực tế giữa Việt Nam và EU
Tuy nhiên, việc tranh chấp đầu tư là không thể tránh khỏi khi EU là một thị trường với
dung lượng lớn và đa dạng. Một số vụ kiện điển hình về tranh chấp trong đầu tư quốc tế của
Việt Nam với EU phải kể đến:
Vụ kiện Đầu tư quốc tế thứ hai mà Việt Nam thắng kiện vào năm 2015 giữa nhà đầu tư
Pháp (DialAsie) (nguyên đơn) và Chính phủ Việt Nam (bị đơn) trong dự án Bệnh viện Quốc tế
thận và lọc thận tại Tòa án Hà Lan từ năm 2011.
Bệnh viện DialAsie ký hợp đồng thuê tòa nhà của Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại
TP.HCM (Sài Gòn Co.op) với giá 23.000 USD/tháng tọa lạc tại đường Điện Biên Phủ, Quận 3,
Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng sau đó, do khơng thể chi trả được tiền th tồ nhà nên
DialAsie bị Sài Gịn Co.op kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Trong vụ kiện này,

DialAsie đã bị xử thua và phải thanh tốn số tiền hơn 571.000 USD. Bên cạnh đó, theo công
văn của Bộ Y tế quyết định bệnh viện này phải ngừng tiếp nhận bệnh nhân và chuyển các bệnh
nhân đang điều trị tại đây tới trung tâm y tế khác. Tuy nhiên, sau đó Bệnh viện DialAsie cũng
khơng thanh toán được khoản tiền hơn 571.000 USD (khoảng 8 tỷ đồng) này cho Sài Gòn
Co.op nên Sài Gòn Co.op đã đưa đơn khởi kiện Bệnh viện DialAsie ra Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam. DialAsie cho rằng mình bị đối xử khơng cơng bằng nên đã kiện Chính phủ
Việt Nam tới Toà trọng tài Quốc tế vào năm 2011. Sau một thời gian dài xem xét, thụ lý vụ án
Hội đồng trọng tài tại Tòa trọng tài thường trực tại La Haye đã ban hành phán quyết với nội
dung:
Không có bất cứ một cơ quan Nhà nước nào của Chính phủ Việt Nam vi phạm Hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt - Pháp, vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc thực hiện
bất cứ một hành vi sai trái nào; mọi hành động của Sài Gòn Co.op hồn tồn tn theo pháp
luật Việt Nam và khơng thể quy các hoạt động của Sài Gòn Co.op là hành động của Chính phủ
Việt Nam.
Do đó, Hội đồng trọng tài quốc tế La Haye đã bác bỏ toàn bộ nội dung khởi kiện của
DialAsie đối với Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Việt Nam cũng khơng phải bồi thường cho
nguyên đơn bất cứ một chi phí nào theo yêu cầu khởi kiện.
Kể từ khi phát sinh vụ tranh chấp đầu tư quốc tế đầu tiên (năm 2010), số lượng các vụ
tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư nước ngồi đã tăng lên đáng kể. Tính đến tháng
9/2019, theo số liệu thống kê sơ bộ của Bộ Tư pháp, có 10 vụ tranh chấp nhà đầu tư nước ngoài
và nhà nước tại trọng tài quốc tế, 22 vụ nhà đầu tư thông báo ý định khởi kiện trong năm 2019,
19 vụ việc khác đang được giải quyết tại các cơ quan tố tụng Việt Nam và 129 vụ việc khác
đang được giải quyết tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

8


Thơng qua các vụ tranh chấp, ta có thể thấy, đa phần các quốc gia đang phát triển đều
đang “loay hoay” tìm kiếm mơ hình hiệu quả cho việc phịng ngừa và giải quyết tranh chấp,
đặc biệt khi các quốc gia này phải đối phó với những vướng mắc về: tổ chức bộ máy của cơ

quan giải quyết tranh chấp, nguồn nhân lực và tài chính cho việc giải quyết tranh chấp đang
ảnh hưởng lớn đến khả năng tự bảo vệ của họ trong tranh chấp đầu tư quốc tế. Với bối cảnh đó,
một trong những mơ hình mà các quốc gia này, trong đó có Việt Nam theo đuổi đó là ký kết và
gia nhập các hiệp định thương mại tự do, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Những cải
tổ đối với cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong Hiệp định
EVIPA có thể là ví dụ cho những nỗ lực nêu trên. Nắm bắt được sự cấp thiết ấy, cơ chế giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong Hiệp định EVIPA đã có những
điểm tiến bộ nhất hiện nay.
Vụ kiện tiếp theo từng gây ra nhiều tranh cãi và được dư luận hết sức quan tâm đó là
vụ việc tranh chấp giữa nguyên đơn là nhà đầu tư Hà Lan (Trịnh Vĩnh Bình) và bị đơn là
Chính phủ Việt Nam.
Ơng Trịnh Vĩnh Bình - một triệu phú nổi tiếng của Hà Lan vì đã bán sỉ chả giị cho các
siêu thị từng đưa hơn 3 triệu đô la Mỹ về Việt Nam làm ăn và đầu tư trong nước vào cuối năm
1987. Tuy nhiên vào năm 1998, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt giữ ông với cáo buộc hối lộ và vi
phạm quy định về quản lý – bảo vệ đất đai nên ơng Bình đã bị giam 18 tháng và 1 năm 6 tháng
quản chế. Sau đó, ơng bị tịch thu toàn bộ tài sản và lãnh án 11 năm tù vào năm 1999. Trong
thời gian được tại ngoại ông đã trốn thoát khỏi Việt Nam.
Vụ kiện lần đầu này được đưa ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Stockholm xét xử vào
tháng 12 năm 2006 nhưng phía nhà nước Việt Nam đã thương lượng với ông Trịnh Vĩnh Bình
ngồi tịa nhằm ký một thỏa thuận vào năm 2006. Hai bên thỏa thuận với nhau như sau: Phía
Chính phủ Việt Nam đồng ý xóa án cho ơng Bình, đồng thời bồi thường 15 triệu đô la Mỹ và
trả lại toàn bộ tài sản đã tịch thu cho nguyên đơn. Đổi lại thì ơng Bình phải rút đơn kiện khỏi
Tịa án Trọng tài Quốc tế, cũng như không tiết lộ nội dung thỏa thuận trên.
Nhưng đến tháng 1 năm 2015, ơng Bình lại tiếp tục đâm đơn kiện Chính phủ Việt Nam
lần thứ hai, với lý do Chính phủ Việt Nam không thực hiện đúng những cam kết mà trước đó
hai bên đã thỏa thuận. Cùng với đó, ơng cũng địi bồi thường 1,25 tỷ đơ la vì Việt Nam đã vi
phạm luật đầu tư liên quan đến Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương giữa Hà
Lan và Việt Nam. Hơn nữa, bị đơn còn vi phạm nhân quyền vì bắt giữ ơng trái pháp luật (nhốt
người oan sai).
Theo phán quyết của Toà Trọng tài Quốc tế ở Paris đưa ra hồi tháng 4 năm 2019, Chính

phủ Việt Nam phải trả 37.581.596 đơ la tiền bồi thường thiệt hại và gần 7,9 triệu đô la án phí
cho “vua chả giị” Trịnh Vĩnh Bình, nhưng Việt Nam lại từ chối trả những tài sản còn lại ở Việt
9


Nam cho ơng. Mặt khác, ơng Bình cũng xác nhận thơng tin về việc thanh tốn tiền trong một
phỏng vấn với RFA hôm 20/4/2019 rằng: Số tiền phán quyết một phần đó Chính phủ Việt Nam
đã trả. Đồng thời ơng cũng cho biết thêm: Số tiền mà Tòa án đưa ra trong phán quyết chỉ là một
phần rất nhỏ trong tổng số tiền tổn thất mà ơng địi từ phía Chính phủ Việt Nam. Theo những gì
ơng Bình tiết lộ thì ngun đơn vẫn cịn một số tài sản ở Việt Nam nhưng không cho biết cụ thể
những tài sản đó là gì và giá trị của nó là bao nhiêu. Dù vậy, nhưng theo ước tính số tiền thiệt
hại mà ơng phải chịu do những vi phạm của Chính phủ Việt Nam tính theo thời giá hiện tại lên
đến 2,5 tỷ đô la. Trong một bài phỏng vấn mới đây, ơng Bình cho biết ơng đang xúc tiến ít nhất
hai vụ kiện mới đối với Chính phủ Việt Nam nhưng không tiết lộ cụ thể nội dung các vụ kiện
này là gì. Nói về phần tiền đền bù trong phán quyết mới nhất, ơng nói: Phần mà Việt Nam đền
bù là không đủ, chỉ được một phần nên tôi sẽ tiếp tục địi vì đây là những tài sản mà tôi đã đầu
tư nhiều năm ở thị trường Việt Nam. Khi được hỏi về khả năng ông sẽ quay lại Việt Nam đầu
tư trong tương lai hay không, ông Bình cho biết thêm: Thực ra, Việt Nam ngày càng mở cửa về
phương diện luật pháp. Nhưng khi có đụng chạm gì thì trên thực tế các cơ quan thực thi pháp
luật ở Việt Nam không thực hiện đúng như quy định của luật pháp. Đây là một vấn đề đầy nhức
nhối. Ơng vẫn khơng tin tưởng vào mơi trường đầu tư tại Việt Nam, đây chính là cản trở lớn
nhất đối với ông khi đưa ra quyết định đầu tư ở thị trường này.
Mặt khác, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phịng Chính phủ Việt Nam Mai Tiến Dũng trong
một lần phỏng vấn báo chí trong nước sau khi có thơng tin vụ kiện của ơng Bình được đưa ra
Tồ Trọng tài Quốc tế vào năm 2017 đã nói rằng: Quan điểm của Chính phủ, Thủ tướng là tạo
mơi trường kinh doanh bình đẳng, hợp pháp cho các doanh nghiệp nước ngồi vào trong nước
đầu tư. Và Tịa án quốc tế cũng đang xem xét việc tranh chấp trên có vi phạm điều luật hay
khơng. Như báo chí, truyền thơng đều đã biết, vì đây là vấn đề bảo hộ đầu tư nên khi một địa
phương hay một cơ quan nào vi phạm hoặc không thực hiện đúng thỏa thuận, cam kết, điều
luật thì nhà đầu tư nước ngồi đều kiện Chính phủ Việt Nam.

Vấn đề đặt ra là một khi hành lang pháp lý ở Việt Nam chưa ổn thì sẽ có rất nhiều nhà
đầu tư nước ngồi e dè, không muốn đầu tư ở thị trường nước ta. Chính vì vậy mà điều đó
cũng đã phần nào gây trở ngại rất lớn cho nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Do đó, Chính
phủ Việt Nam cần có những giải pháp tối ưu, hiệu quả nhất để khắc phục những hạn chế, yếu
kém nêu trên.
1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến tranh chấp
Trên thực tế, đa số các vụ tranh chấp về bảo hộ đầu tư phát sinh theo hiệp định EVIPA là
do nhà đầu tư cho rằng nước tiếp nhận đầu tư không thực hiện đúng hoặc không thực hiện, thực
hiện không đầy đủ sự bảo hộ như những gì mà họ đã thỏa thuận, cam kết trong Hiệp định hoặc
phát sinh ngoài thỏa thuận. Như vậy, tranh chấp về đầu tư có thể kể đến là tranh chấp giữa
10


nhà đầu tư nước ngồi với Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư; tranh chấp về những vấn đề liên
quan đến việc thực thi các cam kết trong Hiệp định Bảo hộ đầu tư. Mặt khác, cịn có những
tranh chấp giữa các chính phủ thành viên về việc giải thích và áp dụng hiệp định, hay các loại
tranh chấp giữa thương nhân và thương nhân trong thương mại quốc tế nhưng khởi nguồn là
tranh chấp đầu tư quốc tế.
Hiệp định EVIPA được xây dựng với mục đích nhằm khuyến khích các nhà đầu tư cam
kết lâu dài về nguồn vốn, tài chính trên cơ sở sự đối xử cơng bằng, thỏa đáng mà quốc gia tiếp
nhận đầu tư đã cam kết, giải quyết các vụ việc tranh chấp và đảm bảo khoản bồi thường thỏa
đáng cho nhà đầu tư bị thiệt hại. Đồng thời, giúp ngăn chặn những hành vi đối xử bất cơng của
Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (nước chủ nhà) đối với nhà đầu tư nước ngồi và đem lại lợi
ích cho cơng dân và các tập đồn, cơng ty của các nước ký kết thơng qua việc dành cho họ sự
bảo hộ nhất định theo pháp luật quốc tế. Trong một báo cáo nghiên cứu của Hội nghị Liên hiệp
Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCATD) đã chỉ ra rằng việc quy định các cơ chế giải
quyết tranh chấp về đầu tư cũng được xem như là “sự bảo đảm cuối cùng để bảo vệ nhà đầu tư
nước ngoài”.3
1.5. Nội dung khởi kiện, các lĩnh vực có thể diễn ra tranh chấp chủ yếu
Liên quan đến hoạt động đầu tư, khoản đầu tư được bảo hộ như vốn, khoản nợ, hoạt

động kinh doanh, tài sản và quyền tài sản hoặc liên quan đến phạm vi việc thực hiện các nghĩa
vụ theo quy định của hợp đồng, điều ước quốc tế. Các dự án của các nhà đầu tư EU sẽ được thu
hút có chọn lọc, chất lượng, tập trung vào các lĩnh vực như: công nghiệp chế biến, chế tạo, sử
dụng công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ
ngân hàng, tài chính, dự án có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và
cung ứng toàn cầu. Đây là một số lĩnh vực mà EU có tiềm năng và thế mạnh nên cũng được
xem là các lĩnh vực gây nên tranh chấp giữa các bên.
1.6. Sự cấp thiết của việc ra đời hiệp định
Một sự kiện quan trọng, đặt dấu mốc lịch sử mới nhất trong quan hệ hai bên chính là
việc ký kết, phê chuẩn và chính thức có hiệu lực của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam –
EU (EVFTA) từ ngày 01/8/2020 với phạm vi cam kết sâu rộng, tạo thêm nhiều đột phá, mở ra
triển vọng mới cho quan hệ hợp tác Việt Nam và EU, từ đó tách nội dung bảo hộ đầu tư ra
thành một hiệp định riêng là Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU.

3 Tham khảo: Bùi Hồng Hạnh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (2020) “Quan hệ
Việt Nam – Liên minh Châu âu: Từ Hiệp định khung về hợp tác đến Hiệp định Thương mại tự do”,
truy cập ngày 3/6/2021.

11


Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) thể hiện một bước đi lớn để đưa Việt
Nam từ một nước đi sau vươn lên thuộc nhóm nước đi đầu trong khu vực trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.4
Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) được thông qua nhằm khẳng định
mong muốn, lợi ích và quyết tâm của hai bên tiếp tục làm sâu sắc hơn nữa và tạo những đột
phá mới nâng tầm quan hệ đối tác toàn diện sau 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao không
những về mặt thương mại mà còn là pháp luật quốc tế.
Từ trước đến nay, sự bận tâm về các vấn đề liên quan đến tài sản, vấn đề pháp lý khi đầu
tư vào một doanh nghiệp nước ngồi ln là mối trở ngại cản trở các nhà đầu tư mở rộng thị

trường của các nhà đầu tư trong nước. Không chỉ rào cản về ngơn ngữ mà cịn là các tranh chấp
ngồi thỏa thuận, các vấn đề bảo hộ doanh nghiệp, các vấn đề phân biệt đối xử, v.v… luôn
khiến doanh nghiệp Việt Nam chùn bước khi muốn làm chủ thị trường nước ngoài. Hiệp định
EVIPA thực thi, phần nào giúp các nhà đầu tư cảm thấy an toàn về vấn đề bảo hộ tài sản một
cách công bằng và thỏa đáng. Đồng thời nhờ vào hiệp định, các nhà đầu tư sẽ được cam kết bồi
thường tài sản của mình nếu như tài sản bị phá hoại hay không bị “trưng mua quốc hữu hóa”. 5
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, việc thực hiện cam kết theo Hiệp định EVIPA vừa
được phê chuẩn tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, sẽ là động lực thúc đẩy Việt Nam tiếp
tục hồn thiện hệ thống thể chế, chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo
hướng ngày càng thuận lợi, bình đẳng, an tồn, minh bạch và thân thiện hơn đối với nhà đầu tư
thuộc mọi thành phần kinh tế.6
Là một nước đang phát triển nên Việt Nam phải hằng ngày cố gắng phát triển nền kinh
tế đầu tư để vươn lên. Đi cùng với đó chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi sự phụ thuộc hay sự
nhượng bộ đối với các nước lớn khác trên thế giới. Tuy nhiên khi hiệp định EVIPA được phê
duyệt và tiến hành, các vấn đề về giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác đã
có được sự chuyển biến. Nội dung của hiệp định giúp giải quyết các vấn đề về tranh chấp quốc
tế được thực thi một cách minh bạch. EVIPA giúp các nhà đầu tư trong nước tự tin hơn, cố
gắng hơn để hồn thiện doanh nghiệp và khơng bị hạn chế các quyền trong một thế giới các
quốc gia đều cố gắng vươn mình.
1.7. Bối cảnh ra đời EVIPA
Bối cảnh thế giới
4

Lại Thị Vân Anh, Pháp luật quốc tế và thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, Tài liệu kiến
thức, kỹ năng pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế cho công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp, Hà
Nội.
5

Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh (2021), EVIPA: Cân bằng cho cả Việt Nam và EU, Trung tâm WTO và hội nhập,
Hà Nội truy cập ngày 13/6/2021.

6

Phạm Sỹ Chung (2020), Vấn đề bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam,
truy cập ngày 13/6/2021.

12


Năm 2020, đại dịch COVID - 19 đã khiến mức tăng trưởng của nhiều nền kinh tế trên
toàn cầu bị suy giảm mạnh, điều chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ qua. Bối cảnh tình hình
kinh tế chính trị đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó có thể đốn định. Hệ lụy của nó đang
khiến các nhà đầu tư cảm thấy lo sợ, sự đầu tư của các nước hay liên minh lớn đối với các nước
nhỏ đang dần trở nên ít đi. “Xu hướng bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương khó
có thể được đảo ngược trong vòng 5 - 7 năm tới”.7
Vấn đề đầu tư bảo hộ của mỗi quốc gia vẫn còn là một dấu hỏi lớn đối với các nhà đầu
tư thế nên hồn tồn có thể đánh giá đó là một thử thách của các quốc gia đang phát triển.
Trong năm 2021 và những năm tiếp theo được dự báo tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức
đối với nền kinh tế toàn cầu. Tuy vậy, trong 4 tháng đầu năm 2021, nền kinh tế thế giới đã dần
có dấu hiệu khởi sắc mặc dù xu hướng vốn đầu tư trực tiếp tồn cầu vẫn yếu. Tồn cầu hóa
chuyển dần sang khu vực hóa thương mại đầu tư với sự ra đời của nhiều sáng kiến ở cấp độ
khu vực, sẽ có sự kết hợp giữa bảo hộ và khu vực hóa các chuỗi giá trị, thay đổi theo từng lĩnh
vực khác nhau. Hậu quả của đại dịch COVID - 19 vẫn đang kéo dài khiến các vấn đề đầu tư trở
nên khó khăn, nguồn vốn và thị trường khan hiếm hơn bao giờ hết. Các vấn đề về bảo hộ đầu
tư vẫn còn đang đứng trước bờ vực khó khăn, chưa thể tìm ra lối mở cho các nhà đầu tư hay
các quốc gia của từng khu vực.
Bối cảnh Liên minh châu Âu
Năm 2020 chính là một năm đầu biến động đối với Liên minh châu Âu.
Ngày 30/9/2020 liên minh châu Âu công bố “Hiệp ước mới về di cư” nhằm cố gắng giải
quyết hậu quả kéo dài của khủng hỏa di cư xảy ra 05 năm trước đó, đồng thời hạn chế vấn đề
“người tị nạn”. Tiếp đến vào tháng 11, ngay trước Hội nghị thượng đỉnh, Thổ Nhĩ Kỳ và Hy

Lạp thông qua phương pháp trung gian cũng đã đạt được thỏa thuận giảm leo thang và tránh
xung đột trên biển và trên không, phần nào hóa giải căng thẳng liên quan Đơng Địa Trung Hải.
Đặc biệt, ngày 01/12 tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao trực tuyến ASEAN - EU, từ mối gắn
kết đối tác cả hai khu vực đã nâng tầm lên thành đối tác chiến lược chứng tỏ sự phát triển toàn
diện và trên mọi mặt.
Tuy đạt được nhiều cố gắng đáng khích lệ, nhưng EU năm 2020 cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức như việc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland rời khỏi EU (Brexit), nợ
công và nợ doanh nghiệp, đầu tư, sản xuất đình trệ, rạn nứt nội khối gia tăng..., song có lẽ vấn
đề lớn nhất là dịch bệnh COVID - 19. Đại dịch bệnh với nhiều lần tái bùng phát đã làm tăng
trưởng kinh tế của EU sụt giảm nghiêm trọng, rơi vào suy thoái kinh tế chưa từng có và chậm
phục hồi khiến “lục địa già” không ngừng chao đảo.
7

Tô Trung Thành (2020), “Xu hướng bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương khó có thể được đảo ngược
trong vịng 5 - 7 năm tới, Kinh tế thế giới năm 2020 và những xu hướng mới”, Thời báo tài chính Việt Nam online.

13


Có thể nói, EU đang bước vào 2021 với nhiều thách thức và cơ hội ẩn. Với mục tiêu
chung là khắc phục hậu quả của đại dịch, phục hồi kinh tế - xã hội, xây dựng sức mạnh độc lập
về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện tiếp tục chống lại sự nóng lên tồn cầu, 2021 được
xem như bản lề đối với các nước thành viên của khu vực EU.
Hầu hết nền kinh te cac nuoc thành viên EU đều lâm vào tình trạng bi khung hoang boi
nhieu khoan chua the giai ngan kip thoi, do đó chinh phu chua dam chi thang cho viec đau tu
vao cac thi truong cac nuoc đang phat trien trong khi vấn đề bảo hộ đang còn là một thách thức
lớn. Dẫn đến tình trạng cac nha đau tu lan Chinh phu van chua the thong nhat voi nhau ve các
van đe bảo hộ đầu tư boi đo la mot van đe can nhieu thoi gian va ngan sach. Vì vậy mà các vấn
đề về bảo hộ đầu tư hay giải quyết tranh chấp hiện vẫn còn đang đứng trước bờ vực khó khăn,
chưa thể tìm ra lối mở cho các nhà đầu tư hay các quốc gia của từng khu vực.

Bối cảnh trong nước
Để từ đó, bức tranh hịa bình, hợp tác và hữu nghị lại một lần nữa là điểm sáng trong xu
thế phát triển không chỉ riêng Việt Nam. “Châu Á - Thái Bình Dương vẫn tiếp tục khẳng định
là khu vực phát triển kinh tế năng động, là động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu và có
tầm ảnh hưởng về chính trị ngày càng gia tăng”. 8 Tiếp tục lấy người dân làm trung tâm và mục
đích hướng đến, “Của dân – do dân – vì dân” vẫn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, vững
bước tầm nhìn đến năm 2025 trong “Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2016.
Từ bối cảnh môi trường quốc tế với nhiều biến động, ngồi những nỗ lực duy trì, củng
cố quan hệ song phương đa phương với các nước trong khu vực, ngoài khu vực; tiếp tục trao
đổi, thúc đẩy mối quan hệ, linh hoạt trong ngoại giao; hỗ trợ y tế, khẩu trang cho các quốc gia,
đối tác quan trọng; tranh thủ được sự ủng hộ tài chính trang thị bị y tế từ quốc gia và tổ chức
quốc tế về kiểm sốt dịch bệnh, thì ta cịn để lại một số dấu ấn đặc biệt trong năm 2020 theo
báo cáo của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh
như sau:
Thứ nhất, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế (Chủ tịch ASEAN 2020 và AIPA 41, Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an (HĐBA)/Liên Hợp quốc (LHQ) trong năm đầu của
nhiệm kỳ 2020-2021); điều phối dẫn dắt, ký kết nhiều văn kiện quan trọng tại các hội nghị,
giúp ASEAN vượt qua nhiều thử thách; đồng thời tại HĐBA ta đã thể hiện được hình ảnh một
đất nước trách nhiệm, đề cao luật pháp quốc tế cũng như nỗ lực tìm kiếm giải pháp thỏa đáng
cho các cuộc tranh chấp, xung đột…;

8 Phạm Bình Minh (2020), “Đối ngoại Việt Nam 2020: Bản lĩnh và tâm thế mới”, Báo điện tử chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam, VGP News: | Đối ngoại Việt Nam 2020: Bản lĩnh và tâm thế mới | BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ NƯỚC
CHXHCN VIỆT NAM (baochinhphu.vn), truy cập ngày 03/6/2021.

14


Thứ hai, cơng tác biên giới lãnh thổ có nhiều kết quả tích cực, cụ thể là với Campuchia

và Trung Quốc thông qua thành quả phân giới cắm mốc đến 84% với Campuchia và kỷ niệm
hiệp ước biên giới trên biển. Đặc biệt là kiên quyết giữ vững lập trường, kiên trì bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền biển Đơng của nước nhà trên cơ sở thượng tôn pháp luật, giải quyết
tranh chấp một cách hịa bình;
Thứ ba, cơng tác bảo hộ người Việt Nam và công dân Việt Nam ở nước ngồi khi có dịch xảy
ra được triển khai kịp thời; bên cạnh đó kiều bào khắp nơi vẫn hướng về đất nước dù khó khăn,
đóng góp và ủng hộ đất nước vượt qua các ảnh hưởng do dịch COVID - 19 gây nên; Thứ tư,
các công tác tuyên truyền văn hóa, thơng tin đối ngoại được tun truyền tích cực, nổi bật là
ứng dụng được cơng nghệ số vào đời sống. Từ đó gặt hái được nhiều kết quả
đáng chú ý như UNESCO công nhận công viên địa chất Đắk Lắk là cơng viên địa chất tồn
cầu, Vinh, Sa Đéc là thành phố học tập toàn cầu;
Ngoài những lĩnh vực nêu trên, lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã chứng tỏ được
sự phát triển có tính đột phá, tạo tiềm lực cho cho nền kinh tế tăng nhanh và bền vững thông
qua việc thúc đẩy, ký kết một số Hiệp định, nâng cao mối quan hệ đối tác với các nước nhằm
duy trì tăng trưởng thuộc nhóm cao thế giới.
1.8. Các mốc thời gian chính
Tháng 8 năm 2018: Hồn tất rà sốt pháp lý Hiệp định EVIPA. Ngày 17 tháng 10 năm
2018: Ủy ban châu Âu đã chính thức thơng qua EVFTA va EVIPA.
Ngày 25 tháng 6 năm 2019: Hội đồng châu Âu đã phê duyêt cho phep ky Hiệp định.
Ngày 30 tháng năm 2019: Việt Nam và EU chính thức ký kết EVFTA và EVIPA.
Ngày 08 tháng 6 năm 2020: Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Hiệp định EVFTA và
EVIPA.
Cũng cần nói thêm rằng toàn bộ phần về bảo hộ và giải quyết tranh chấp đầu tư được
tách ra khỏi EVFTA trở thành Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) vẫn chưa được phía EU phê
chuẩn. Mặc dù sự chậm trễ này bắt nguồn từ những mâu thuẫn và thủ tục phức tạp trong nội bộ
EU, Việt Nam cũng nên có sự chuẩn bị phù hợp và tận dụng tối đa lợi thế từ vấn đề này.
CHƯƠNG 2: NỢẠ̣I DUNG CHÍNH CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA EVIPA
2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp
2.1.1. Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa chính phủ – chính phủ:
Bao gồm giải quyết theo phương thức tham vấn và hoà giải được quy định tại Chương 3

Điều 3.3, 3.4 của Hiệp định EVIPA: Các bên sẽ cố gắng hết sức để giải quyết bất đồng một
cách thiện chí bằng cách thơng qua tham vấn nhằm đạt được một giải pháp được cả hai bên
15


chấp nhận. Khi cuộc tham vấn thất bại, các bên tìm ra được một hình thức hịa giải với nhau để
giải quyết tranh chấp.
2.1.2. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngồi và Chính phủ nước tiếp nhận đầu
tư:
a) Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế thông qua các phương thức tham vấn và thương
lượng
Một trong những nội dung của EVIPA là hòa giải như một phương thức giải quyết tranh
chấp. Do đó, một bên tranh chấp có thể u cầu hịa giải bất cứ lúc nào trong quá trình tranh
chấp bằng cách gửi yêu cầu bằng văn bản cho bên đối lập. Bên yêu cầu có thể đề cập đến một
giải pháp thỏa đáng giữa hai bên trong u cầu hoặc nếu khơng có thỏa thuận hịa giải, u cầu
bên cịn lại tiến hành hồ giải.
b) Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế tại toà án hay cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp
nhận đầu tư
Giải quyết tranh chấp của Tòa án đầu tư là một phương thức giải quyết tranh chấp mới
đang được nhiều quốc gia áp dụng như một phương thức thay thế khả thi cho phương thức
trọng tài. Hệ thống Tòa án đầu tư tại EVIPA bao gồm tòa sơ thẩm và tịa phúc thẩm. Tịa sơ
thẩm có 9 thành viên, trong đó 3 người là cơng dân EU, 3 người là công dân Việt Nam và 3
người mang quốc tịch các nước thứ ba khác. Tịa phúc thẩm có 6 thành viên, trong đó có hai
thành viên là cơng dân EU, hai thành viên là công dân Việt Nam và 2 thành viên là công dân
của các nước thứ ba khác. Thành viên của cả hai tòa án sẽ được ủy ban chỉ định nhiệm kỳ 4
năm (được thành lập theo EVIPA và bao gồm các đại diện của EU và Việt Nam để quản lý việc
thực hiện EVIPA) và có thể được bổ nhiệm lại một lần.9
c) Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế bằng trọng tài quốc tế:
Đối với phương thức này EVIPA chỉ quy định về quy tắc ứng xử của trọng tài viên tại
Phụ lục 8, EVIPA quy định rằng nguyên đơn có quyền yêu cầu giải quyết theo Quy tắc phụ (khi

có yêu cầu tòa án đầu tư giải quyết bằng phương thức trọng tài quốc tế) của ICSID hoặc Quy
tắc Trọng tài của UNCITRAL.
2.2. Các cơ quan giải quyết tranh chấp
2.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal):
Theo WTO thì Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO là một loại cơ quan tài phán quốc tế
theo nghĩa là một cơ quan có thẩm quyền đưa ra những quyết định có tính chất ràng buộc về mặt
pháp lý đối với các bên tranh chấp. Tại WTO cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO có 2 cấp bao
gồm Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm giữ vai trò là các thiết chế pháp lý

9

Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn (2020), EVIPA - Bước triển khai quan trọng Chiến lược tổng thể về hội
nhập quốc tế, Báo Nhân dân điện tử, truy cập ngày 13/6/2021.

16


để đánh giá các khía cạnh pháp lý của vụ tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường
trực được tổ chức khá tương đồng với mơ hình cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. 10 Cũng
như WTO theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và
Hội đồng xét xử phúc thẩm. Hội đồng xét xử trong EVIPA có thể được xem như một mơ hình
hỗn hợp giữa tồ án và trọng tài. Các hội đồng xét xử bao gồm các thành viên được bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ, nhưng lại đưa ra phán quyết (awards – thuật ngữ được sử dụng với ý nghĩ gắn
liền với phán quyết của trọng tài theo Công ước ICSID và Công ước New York 1958). Đây
được coi như một sự thay đổi lớn trong hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư.
Mỗi vụ tranh chấp sẽ được xét xử bởi một Hội đồng gồm ba thành viên, trong đó một
thành viên là người mang quốc tịch của quốc gia thành viên EU, một thành viên khác là người
mang quốc tịch Việt Nam và một thành viên còn lại là người mang quốc tịch của quốc gia thứ
ba.
Theo Gaukrodger và Gordon (2012), trọng tài được các bên bổ nhiệm theo các mơ hình

trọng tài vụ việc trước đây sẽ có xu hướng sẽ thiên vị và làm việc vì lợi ích của các bên để
thuận lợi hơn trong cơng việc của chính mình sau này. 11 Việc bổ nhiệm thành viên và mơ hình
hội đồng xét xử thường trực giải quyết được vấn đề quan ngại về tính độc lập của trọng tài sẽ
giúp đảm bảo về chất lượng xét xử, kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng của trọng tài.
Tuy nhiên, một số học giả lại quan ngại về tính linh hoạt của mơ hình hội đồng xét xử
thường trực, hoặc viêc chỉ định trọng tài đối với các bên tranh chấp. Tranh chấp đầu tư quốc tế
có đặc thù đó là tranh chấp giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Do đó, theo Ruth Marie
Mosch và August Reinisch quy định về hội đồng xét xử thường trực hoặc danh sách trọng tài
này sẽ khiến cho các nhà đầu tư khơng có quyền chỉ định trọng tài, từ đó, có thể thấy các FTAs
này thường có xu hướng bảo vệ quyền lợi của các quốc gia. Hơn nữa, tiêu chuẩn của trọng
tài/thành viên hội đồng xét xử đó là phải có năng lực chun mơn trong lĩnh vực cơng pháp
quốc tế và sở hữu các bằng cấp, chứng chỉ chuyên mơn để có thể đảm nhận các vị trí cơng việc
tại các văn phòng tư pháp hoặc để trở thành những luật gia có năng lực chun mơn được cơng
nhận tại quốc gia của họ. Kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế, luật
thương mại quốc tế và thủ tục giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến các thỏa thuận
đầu tư hoặc thương mại quốc tế chỉ là một ưu thế. Vì vậy, đây cũng có thể được coi là một
điểm bất lợi của nhà đầu tư.
2.2.2. Hội đồng xét xử sơ thẩm (instance tribunal)
10

Theo đó, Ban thư ký của WTO sẽ duy trì một danh sách các thành viên của Ban hội thẩm, trong trường hợp thành
lập Ban hội thẩm, cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ lựa chọn hội thẩm viên từ danh sách này.

11

Tham khảo: J. A. VanDuzer, Institut C.D. HOWE, “Investor-state Dispute Settlement in CETA: Is it the Gold
Standard?”, Commentary No. 459

17



Tịa sơ thẩm có chín thành viên, trong đó ba thành viên là công dân EU, ba thành viên là
công dân Việt Nam và ba thành viên là công dân của các nước thứ ba khác. Trong đó các thành
viên của toà sơ thẩm cũng được quy định tại khoản 7 Điều 3.38 Chương III EVIPA “Thành
viên ở cấp Sơ thẩm phải có bằng cấp chun mơn theo u cầu của quốc gia của họ chỉ định để
đảm nhận các vị trí tại các phịng tư pháp hoặc phải là những luật gia được công nhận tại quốc
gia của họ. Họ phải chứng minh mình có chun mơn trong lĩnh vực cơng pháp quốc tế. Cụ
thể, họ cần phải có chuyên môn trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế, luật thương mại quốc tế và
giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hiệp định đầu tư quốc tế hoặc thương mại quốc tế”.
2.2.3. Hội đồng xét xử phúc thẩm (appeal tribunal):
Việc thiếu vắng một cơ chế rà soát tư pháp đối với các quyết định của trọng tài đã trở
thành những điểm gây tranh luận nhất của cơ chế ISDS truyền thống. 12 Khác với các FTAs
trước đây mà Việt Nam là thành viên chỉ quy định về các thiết chế trọng tài thông thường gồm
một cấp xét xử, EVIPA quy định một Hội đồng xét xử phúc thẩm thường trực được thành lập
để giải quyết các kháng cáo đối với các quyết định của hội đồng xét xử. “Các thành viên ở cấp
Phúc thẩm phải chứng minh mình có chun mơn trong lĩnh vực cơng pháp quốc tế và có bằng
cấp chun mơn theo u cầu tại quốc gia của họ chỉ định để đảm nhận các vị trí cao nhất tại
phịng pháp lý hoặc phải là những luật gia được công nhận tại quốc gia của họ. Cụ thể, họ cần
phải có chun mơn trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế, luật thương mại quốc tế và giải quyết
tranh chấp phát sinh từ các hiệp định đầu tư quốc tế hoặc thương mại quốc tế.” (Khoản 7 Điều
3.39 Chương III EVIPA).
2.3. Trình tự giải quyết tranh chấp
2.3.1. Trình tự giải quyết tranh chấp của phương thức hồ giải và tham vấn:
Theo đó, một bên tranh chấp có thể u cầu giải quyết bằng phương thức hịa giải bất cứ
lúc nào trong quá trình tranh chấp, bằng một văn bản yêu cầu gửi cho bên kia. Trong yêu cầu
của bên tranh chấp, thì bên tranh chấp yêu cầu có thể dẫn chiếu đến một thỏa thuận hịa giải đã
có giữa hai bên hoặc nếu chưa có thỏa thuận hòa giải, yêu cầu bên còn lại tiến hành hòa giải.
Bên nhận tranh chấp yêu cầu phải trả lời trong vòng 45 ngày sau khi nhận được yêu cầu của
bên tranh chấp.
Nếu cả hai bên không thống nhất được việc hồ giải thì phải giải quyết bằng tố tụng.

Q trình hịa giải bắt đầu khi hịa giải viên được chọn. Các bên sẽ cố gắng hồn tất q trình
hịa giải trong vòng 60 ngày kể từ khi hòa giải viên được chọn/đề cử. Hịa giải kết thúc trong
các tình huống sau: Khi các bên thỏa thuận hòa giải thành; Khi hịa giải viên thơng báo khơng
thể hoặc khơng cần thiết tiếp tục q trình hịa giải; Khi một bên yêu cầu chấm dứt. Quá trình
12

Tham khảo: United Nations Conference on Trade and Development, World Investment Report 2015: Reforming
International Investment Governance, New York, p. 150.

18


tố tụng tại tòa án đầu tư cũng sẽ tạm ngưng khi các bên tranh chấp đã có thỏa thuận hịa giải
cho đến khi q trình hịa giải chấm dứt.
Để bắt đầu q trình khởi kiện tại tịa án đầu tư, EVIPA quy định rằng trước tiên nhà đầu
tư phải gửi yêu cầu tham vấn cho bên kia. Khi yêu cầu tham vấn được nộp bởi nhiều nguyên
đơn hoặc thay mặt nhiều công ty thành lập trong nước, mỗi nguyên đơn hoặc công ty thành lập
trong nước phải nộp riêng thông tin nêu tại điểm 1(a) và 1(e) Điều 3.30 Chương III EVIPA.
Yêu cầu quá trình tham vấn phải được gửi trong thời hạn ba năm, kể từ ngày nhà đầu tư
biết hoặc phải biết về vi phạm, thiệt hại đã xảy ra hoặc trong thời hạn hai năm kể từ ngày nhà
đầu tư ngừng khởi kiện ra ban hội thẩm/tịa án theo luật quốc gia nhưng tối đa khơng quá bảy
năm kể từ ngày nhà đầu tư biết hoặc phải biết về vi phạm hoặc thiệt hại đã xảy ra. Nếu vụ tranh
chấp khơng được giải quyết trong vịng 90 ngày kể từ ngày gửi yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư
có quyền gửi thơng báo về ý định khởi kiện cho bên kia.
Chỉ trong trường hợp tranh chấp vẫn chưa được giải quyết trong thời hạn sáu tháng kể từ
khi gửi đơn yêu cầu tư vấn và còn ít nhất ba tháng kể từ ngày gửi thông báo ý định khởi kiện
thì nhà đầu tư mới có quyền khởi kiện sơ thẩm. Nếu nhà đầu tư không làm như vậy trong vòng
18 tháng kể từ khi yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư sẽ được coi là đã rút đơn kiện và khơng có
quyền khởi kiện theo cơ chế này.
Nếu tham vấn trong trường hợp khẩn cấp quá trình tham vấn sẽ được tiến hành trong

vịng 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn và tham vấn sẽ được coi là kết thúc
trong vòng 20 ngày trừ khi các bên thoả thuận tiếp tục tham vấn.
2.3.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thơng qua phương thức trọng tài:
Trong vòng 10 ngày kể từ ngày bị đơn nhận được yêu cầu thành lập hội đồng trọng tài,
các bên sẽ tham vấn để đạt được một thỏa thuận về thành phần của hội đồng trọng tài. Trừ
trường hợp có thoả thuận khác, các bên phải họp với hội đồng trọng tài trong vòng 10 ngày kể
từ khi hội đồng trọng tài được thành lập để xác định các vấn đề tranh chấp mà các bên hoặc hội
đồng trọng tài cho là cần thiết, trong vòng 14 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, một bên
có thể gửi yêu cầu bằng văn bản đến hội đồng trọng tài, bao gồm cả các ý kiến, để hội đồng
trọng tài xem xét các phần của báo cáo sơ bộ.
Hội đồng trọng tài có thể cập nhật báo cáo và tiến hành xem xét thêm nếu cần thiết sau
khi xem xét yêu cầu bằng văn bản của các bên, bao gồm cả ý kiến của các bên về báo cáo sơ
bộ. Sau cùng hội đồng trọng tài phải đưa ra báo cáo cuối cùng trong vòng 120 ngày kể từ ngày
thành lập hội đồng trọng tài. Bị đơn sẽ thực hiện mọi biện pháp cần thiết để tuân thủ kịp thời và
thiện chí báo cáo cuối cùng.
2.3.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp theo phương thức toà án:
19


Nếu hai bên chưa thể giải quyết bằng phương thức tham vấn và hồ giải ngun đơn có
đủ các điều kiện để quyết định khởi kiện tại tồn án thì quá trình khởi kiện là trong thời hạn 90
ngày kể từ ngày nộp hồ sơ, chánh án tòa án cấp Sơ thẩm sẽ chỉ định hội đồng xét xử để giải
quyết vụ án. Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ ra quyết định tạm thời trong vòng 18 tháng kể từ khi
khởi kiện và các bên tranh chấp có quyền kháng cáo quyết định này trong vòng 90 ngày kể từ
ngày ban hành. Nếu không được kháng cáo trong thời gian quy định, phán quyết tạm thời sẽ trở
thành phán quyết cuối cùng và chính thức có hiệu lực đối với các bên.
Nếu có kháng cáo thì kháng cáo sẽ do một hội đồng xét xử của toà án cấp Phúc thẩm
giải quyết. Một trong các bên tranh chấp có thể kháng cáo lên cấp Phúc thẩm trong vòng 90
ngày kể từ ngày ban hành phán quyết thủ tục kháng cáo khơng được kéo dài q 180 ngày tính
từ ngày một bên tranh chấp chính thức thơng báo quyết định kháng cáo đến ngày cấp Phúc

thẩm đưa ra phán quyết. Khi một phán quyết tạm thời bị kháng cáo và cấp Phúc thẩm ban hành
phán quyết cuối cùng, phán quyết tạm thời bị sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi cấp Phúc thẩm trở thành
phán quyết cuối cùng vào ngày cấp Phúc thẩm ban hành phán quyết cuối cùng.
CHƯƠNG 3: ĐÁÁ́NH GIÁÁ́ MẶT LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Sự tác động của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA đã giúp EU và Việt Nam có
thêm sự tin tưởng về sự công bằng, minh bạch và tin tưởng thêm vào luật pháp quốc tế. Cũng
chính vì vậy mà việc ký kết Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU là một sự kiện quan trọng
với cả hai bên.
3.1. Đối với EU
EVIPA tạo cơ sở quan hệ kinh tế giữa hai bên phát triển hiệu quả cao, củng cố niềm tin
và tác động vào sự an toàn của nhà đầu tư EU về việc bảo vệ quyền lợi lúc tranh chấp phát sinh
khi đầu tư tại Việt Nam.
Cơ chế giải quyết tranh chấp EVIPA tác động đến sự an tồn của các doanh nghiệp EU
có ý định đầu tư vào Việt Nam. Nếu như trước đây, khi giải quyết các tranh chấp đầu tư Việt
Nam thường xuyên áp dụng phương pháp trọng tài quen thuộc trong các Hiệp định bảo hộ đầu
tư mà Việt Nam đã ký kết trước đó thì sau đó đã bộc lộ rất nhiều hạn chế, bất cập làm ảnh
hưởng đến tính khách quan, chính xác, sự minh bạch của phán quyết cũng như có nguy cơ làm
suy giảm năng lực quản lý quốc gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đó cũng là lí do
các nhà đầu tư EU không dám mạnh tay đầu tư vào nước ta vì họ khơng cảm thấy được sự an
tồn đến từ một nước nhỏ đang phát triển. Nhờ vào cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA
mang tính đột phá đã giúp các nhà đầu tư EU cảm thấy an tâm và dễ dàng tìm thấy một nguồn
lực lớn và đang cần sự giúp đỡ lớn đến từ EU.
20


Trên thực tế trong khi các công ty EU đầu tư đến 2.375 dự án tại Việt Nam với tổng số
vốn đầu tư đăng ký là trên 25 tỷ USD,gấp gần 80 lần đầu tư ngược lại từ Việt Nam sang EU với
78 dự án tương đương 320 triệu USD và trong đó hiện tại các nhà đầu tư từ 6 quốc gia EU chưa
được bảo hộ tương ứng13. Vì vậy, khả năng tận dụng các tiêu chuẩn cao trong EVIPA về bảo hộ
đầu tư và cơ chế Toà Đầu tư là việc rất quan trọng đối với EU, như ta đã biết EU là một liên

minh có sức mạnh về kinh tế và chính trị trên thế giới cho nên về mặt chủ quan, các nhà đầu tư
EU phải tuân theo nội dung và quy trình của cơ chế giải quyết tranh chấp trong hiệp định khiến
họ không thể dùng sự lớn mạnh của mình để lấn áp Việt Nam. Điều này cũng sẽ khiến một vài
nhà đầu tư cảm thấy không thỏa đáng.
Thực tế cho thấy Hiệp định chưa được thực thi và vẫn đang chờ sự phê chuẩn của Nghị
viện các nước thành viên EU. Với việc các nghị viện các quốc gia nội khối EU thường phải
chịu những áp lực chính trị nhất định từ nhiều phía, để có được sự đồng ý của tất cả 27 nghị
viện là khơng đơn giản. Việc phê chuẩn cịn có thể bị đình trệ do các thủ tục phức tạp tại từng
quốc gia. EVIPA bao gồm cả cơ chế ISDS tại Tòa Đầu tư, những lo ngại về một vụ Vattenfall v.
Germany thứ ba có thể tiếp tục làm dấy lên một làn sóng những yêu cầu tương tự. 14
“Vanttenfall v Germany” (Vanttenfall v Germany 2) từng là một vụ tốn khơng ít giấy
mực của giới báo chí. Vụ kiện liên quan đến hai chủ thể là công ty năng lượng Thuỵ Điển –
Vanttenfall và Cộng hoà Liên bang Đức:
Cơng ty năng lượng Thuỵ Điển đã kiện Cộng hồ Liên bang Đức vì nhà đầu tư này cho
rằng việc Đức sửa đổi Đạo luật về sử dụng năng lượng ngun tử một cách hồ bình để từ bỏ
việc sử dụng năng lượng hạt nhân, đồng thời đẩy nhanh việc cho ngừng hoạt động của các nhà
máy mà khơng có bất kỳ một khoản bồi thường nào đã không đảm bảo quyền và lợi ích của họ
như trong cam kết của Hiệp ước hiến chương năng lượng. Vì vậy, Vantenfall tiến hành khởi
kiện Đức thông qua phương thức trọng tài đầu tư. Đồng thời cơng ty Thụy Điển này cịn đệ đơn
kháng nghị lên Toà án Hiến pháp Liên bang Đức nhằm phản đối Hiến pháp từ các thay đổi nêu
trên.
Tuy nhiên, Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức đã bác bỏ hầu hết các yêu cầu của
Vattenfall tức không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng như u cầu thay đổi chính
sách năng lượng. Theo đó, việc thay đổi chính sách là chính đáng bởi lẽ nó bảo vệ các lợi ích
cơng cộng như tính mạng và sức khỏe, việc bán năng lượng như thế không thể bồi thường.
Quyết định của vụ việc này chắc chắn sẽ là một tiền lệ quan trọng khi các nhà đầu tư khác phải
đối mặt với các lệnh cấm năng lượng mà khơng có bồi thường từ quốc gia sở tại.
13

Đào Trọng Khơi “Đừng qn EVIPA”, Tạp chí tài chính, tapchitaichinh.vn, truy cập ngày 16/10/2020.


14

Đào Trọng Khơi “EVIPA có chìm vào qn lãng”,Tạp chí Cơng Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng
dụng công nghệ, tapchicongthuong.vn/bai-viet/evipa-co-chim-vao-quen-lang-74787.htm, Số 19, tháng 8/2020.

21


Cũng vì những vụ việc xảy ra các nhà đầu tư EU còn đang lo lắng về cơ chế bảo hộ của
EVIPA và cả ISDS tại Toà đầu tư. Hiện tại nói đến việc mâu thuẫn nhiều trong nội bộ EU cũng
là một nguyên nhân dẫn đến việc EVIPA chưa được thực thi. Mâu thuẫn này bắt nguồn từ chính
nguyên tắc trao quyền, điều này đã gây ra những lo ngại lớn về sự chồng chéo giữa phạm
vi điều chỉnh và quyền phê chuẩn các hiệp định thương mại, đầu tư trong đó có EVIPA. Tất cả
các trường hợp sau đây, riêng lẻ hoặc kết hợp, có thể khiến EVIPA có hiệu lực sau EVFTA rất
nhiều.
Ví dụ, mặc dù thực tế CETA đã được phê chuẩn ở cấp EU từ tháng 9 năm 2017, nhưng
cho đến nay nó mới chỉ được 14 trong số 27 thành viên EU phê chuẩn và các quốc gia còn lại,
như Hà Lan, Pháp, Ý và Đức, vẫn đang đặt ra rất nhiều khó khăn. Ngay cả Bỉ cũng một lần nữa
bác bỏ thoả thuận CETA và đồng thời thách thức tính hợp pháp của cơ chế giải quyết tranh
chấp tại Toà tư pháp Châu Âu. Việc thơng qua Hiệp định này cũng mất ít nhất là vài năm nữa.
Đồng thời những thách thức toàn diện Việt Nam phải đối mặt nói chung và về mặt bảo
hộ đầu tư cũng là một rào cản khiến các nhà đầu tư của EU chưa dám kí kết hành lang pháp lý
này. Theo đó, có thể đặt ra giả thuyết thời gian chờ phê chuẩn cũng chính là thời gian EU xem
xét “vị thế” tư pháp quốc tế của Việt Nam. Liệu có thể hồn thiện, nâng cao sức cạnh tranh của
môi trường đầu tư cũng như củng có hệ thống luật pháp chính sách liên quan đến đầu tư, doanh
nghiệp, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ cơng và sự an tồn
trong doanh nghiệp hay khơng?
Tuy vậy ta hồn tồn có thể đánh giá phần nào mặt lý luận của các chế định trong cơ chế
giải quyết tranh chấp của Hiệp định này đối với EU mặc dù việc thực thi Hiệp định vẫn cịn

đang chờ đợi. Thơng qua các chế định của EVIPA nhà đầu tư sẽ được đối xử cơng bằng, thoả
đáng, bảo hộ an tồn và đầy đủ, cam kết khơng trưng thu, quốc hữu hố tài sản nhà đầu tư mà
khơng có bồi thường thoả đáng, cam kết bồi thường thiệt hại phù hợp cho nhà đầu tư trong
trường hợp bị chiến tranh, bạo loạn,….đặc biệt, với chế định về cơ chế giải quyết tranh chấp
cũng rất rõ ràng khi áp dụng trong trường hợp phát sinh tranh chấp.
EVIPA đề cao sự thỏa thuận, hòa giải và tham vấn. Nếu trong trường hợp có tranh chấp
các nhà đầu tư, hoặc nhà đầu tư với Chính phủ nước sở tại ưu tiên giải quyết tranh chấp một
cách thiện chí thơng qua đàm phán và hồ giải. Trong trường hợp không thể giải quyết tranh
chấp thông qua hai phương thức trên sẽ sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định cụ
thể trong EVIPA. Các nội dung tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên tăng cường hợp tác, thấu hiểu
và chia sẻ đối với Việt Nam cũng như với EU.
3.2. Đối với Việt Nam15, 16
15

Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế phối hợp trong
giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

22


Hiệp định EVIPA đã quy định một số nguyên tắc nhằm bảo đảm để Việt Nam phát triển
quan hệ với EU trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đoàn kết dân
tộc phù hợp với những mục tiêu đã được các bên thỏa thuận theo Hiệp định hợp tác và đối tác
toàn diện Việt Nam – EU. Việc đưa Hiệp định vào thực tế thực thi như xây dựng một hành lang
pháp lý chặt chẽ để có thể nâng cao chức năng “bảo hộ” đầu tư. Từ đó bổ trợ cho EVFTA góp
phần tăng cường sự gắn kết về kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU, đồng thời
củng cố và làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa hai bên.
3.2.1. Những điểm đặc biệt cần lưu ý của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA
Toàn bộ phần bảo hộ và quyết đầu tư tranh chấp đã được tách ra khỏi Hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới EVFTA và trở thành Hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA. Việc thực thi

EVIPA vừa là cơ hội, vừa là thách thức bởi một số nội dung mới về cơ chế trọng tài ISDS như
sau:
(i) Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal)
Theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội
đồng xét xử phúc thẩm. Hội đồng xét xử trong EVIPA có thể được xem như một mơ hình hỗn
hợp giữa toà án và trọng tài. Các hội đồng xét xử bao gồm các thành viên được bổ nhiệm theo
nhiệm kỳ, nhưng lại đưa ra phán quyết. Đây được coi như một sự thay đổi lớn trong hệ thống
giải quyết tranh chấp đầu tư.
(ii) Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 3.39 IPA)
Khác với các thiết chế trọng tài thông thường, EVIPA quy định một Hội đồng xét xử
phúc thẩm thường trực được thành lập để giải quyết các kháng cáo đối với các quyết định của
hội đồng xét xử. Nhưng cũng phải thừa nhận một thực tế là mơ hình xét xử phúc thẩm này
hồn tồn mới khơng chỉ riêng đối với Việt Nam mà còn với các nước khác trên thế giới. Bởi
lẽ, giải quyết kháng cáo và áp dụng hội đồng xét xử phúc thẩm là thủ tục pháp lý ngầm công
nhận việc hội đồng tài phán phúc thẩm trong EVIPA có thể thay đổi hoặc đảo ngược phán
quyết ban đầu khi thực sự cần thiết. Và điều này sẽ ảnh hưởng đến thẩm quyền hạn chế trong
thủ tục hủy bỏ phán quyết trọng tài.
Mơ hình này được đưa vào trong một số hiệp định gần đây như Hiệp định thương mại
song phương Canada – EU (CETA) hay Hiệp định đối tác đầu tư và thương mại xuyên Đại Tây
Dương (TTIP), tuy nhiên chưa thực sự vận hành trên thực tế nên cũng chưa thể kiểm nghiệm
được tính hiệu quả.
(iii) Nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp (Điều 3.46 IPA)
Điều 3.46 EVIPA bao gồm 08 khoản quy định về nguyên tắc minh bạch trong q trình
tố tụng, theo đó tất cả các tài liệu (được đệ trình bởi các bên, quyết định của hội đồng trọng tài)
Nguyễn Minh Phong - THS. Nguyễn Trần Minh Trí, “Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU và Hiệp định bảo hộ
đầu tư Việt Nam - EU: Những động lực và kỳ vọng mới”. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06(406)/2020.
16

23



×