Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

TIỂU LUẬN: Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.62 KB, 75 trang )












TIỂU LUẬN:
Thực trạng tín dụng trung dài
hạn tại Ngân hàng Công
Thương Hoàn Kiếm








Chương I: những vấn đề lý luận về hoạt động tín dụng trung dài hạn
của ngân hàng thương mại

1.1/Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân
hàng thương mại
1.1.1/ KHái quát chung về hệ thống Ngân hàng thương mại

1.1.1.1/Khái niệm ngân hàng thương mại.



Trong xã hội, Ngân hàng có một vị trí quan trọng và tham gia vào hoạt động
của nhiều thành phần kinh tế và dân cư.Lịch sử hình thành Ngân Hàng bắt đầu từ rất
lâu.Ban đầu nó được hình thành từ những thương nhân làm dịch vụ giữ tiền hộ.Dựa
trên tính vô danh của đồng tiền cho phép những thương nhân này chuyển từ việc giữ
tiền hộ sang việc giữ hộ tiền và thu lệ phí và huy động vốn có trả lãi để khuyến
khích người có tiền nhàn rỗi trong xã hội,rồi sử dụng số tiền đó để kinh doanh trực
tiếp cho vay lấy lãi.Ngày nay Ngân Hàng Thương Mại được định nghĩa như sau:
NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay đầu tư,thực hiện các nghiệp vụ thanh toán và các
nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng
thanh khoản.
NHTM giống các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động nhằm mục đích thu
lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ
trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yêú được thực hiện bằng cách thu hút
vốn trong xã hội để cho vay nhằm mục tiêu lợi nhuận cao nhất và rủi ro thấp nhất.








1.1.1.2/Hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại trong nền kinh tế thị
trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà các mối quan hệ
kinh tế ,phân phối sản phẩm,phân phối lợi ích do các quy luật của thị trường điều
tiết chi phối.

Kinh tế thị trường có những đặc điểm cơ bản sau:
-Trong nền kinh tế thị trường,mỗi cá nhân,mỗi đơn vị kinh tế được tự do tổ
chức các hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật
-Cạnh tranh là quy luật của thị trường.
-Khách hàng giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế.
-Tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế đều được tiền tệ hoá.
Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường,từ đặc điểm kinh doanh tiền
tệ cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà các ngân hàng hiện nay hoạt
động theo hướng đa năng tập trung vào ba hoạt động chính sau đây:
-Hoạt động huy động vốn.
-Hoạt động cho vay đầu tư.
-Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác
 .Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là một hoạt động quan trọng của các doanh nghiệp
nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ
như ngân hàng.Hoạt động này bao gồm huy động các nguồn tiền gửi (tiền gủi tiết
kiệm ,tiền gửi giao dịch và phi giao dịch),các khoản đi vay(vay từ dân cư,từ các tổ
chức kinh tế,từ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác),tiền nhận uỷ thác đầu
tư,tiền góp vốn liên doanh.
Ngoài ra các NHTM còn huy động vốn từ việc vay của ngân hàng nhà
nước,vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay từ các thị trường vốn lớn trên thế
giới.
Hoạt động huy động vốn có vai trò cung cấp đầy đủ và kịp thời các nguồn
vốn phục vụ cho các hoạt động khác của ngân hàng.
 .Hoạt động cho vay và đầu tư.




Đây là hoạt động cấp vốn cho nền kinh tế trên cơ sở an toàn số vốn đã cấp ra

và số tiền thu được từ khoản vôn đã cấp phải lớn hơn tổng chi phí bao gồm các chi
phí cho hoạt động huy động vốn cũng như các chi phí khác có liên quan.
Trong hoạt động cho vay,thu nhập chủ yếu của ngân hàng là lãi cho vay,Các
khoản cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau như thời hạn
cho vay,đối tượng cho vay,tính chất bảo đảm của khoản vay…Thông thường người
ta chia các khoản vay theo thời hạn của chúng là tín dụng ngắn hạn,tín dụng trung
và dài hạn.Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn do các thời hạn vay dài hơn nên rủi ro cao hơn.
Trong hoạt động đầu tư mà ở đây chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán,mục
đích của việc đầu tư vào chứng khoán là tìm kiếm lợi nhuận và đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh ngân hàng.Mặt khác nắm giữ chứng khoán cũng là một cách bảo
đảm khả năng thanh khoản của ngân hàng thông qua việc đầu tư vào các chứng
khoán có tính thanh khoản cao như:tín phiếu và trái phiếu kho bạc Nhà nước.
Các NHTM Việt Nam hiện nay,lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm
từ 50% -70% tổng lợi nhuận.Tuy nhiên đây là hoạt động chứa đựng rủi ro cao nên
các ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng hoạt động này.
 .Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác.
Các NHTM đóng vai trò trung gian thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của
khách hàng như thanh toán,thu hộ,chi hộ,chuyển tiền,uỷ thác…Bên cạnh đó các
NHTM cũng cung cấp các loại hình dịch vụ có liên quan đến tài chính như dịch vụ
tư vấn,dịch vụ bảo lãnh…Các hoạt động này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho
vay và đầu tư trong khi vẫn đem lại được nguồn thu lớn
1.1.1.3/Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại,
Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có
tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu cần vay vốn.Thông qua cơ chế
thị trường,bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng những phương pháp
kỹ thuật hiện đại theo hướng tiên tiến,ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những
nguồn vốn tiền tệ dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi ,đúng lúc,phù hợp
với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh.Như vậy,có thể hiểu tín dụng ngân hàng
là quá trình cho vay của ngân hàng đối với các cá nhân ,tổ chức,các doanh nghiệp





có mối quan hệ với ngân hàng cùng những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn
trả(gốc và lãi),lãi suất,cách thức vay mượn và thu hồi…
Thông thường tín dụng được chia làm hai loại là tín dụng ngắn hạn là tín
dụng trung và dài hạn.Các khoản tín dụng ngắn hạn hay còn gọi là tín dụng thương
mại thường được dùng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.Còn các
khoản tín dụng trung và dài hạn lại chủ yếu được dùng để đáp ứng nhu cầu đầu tư
vào các tài sản cố định của doanh nghiệp.Tín dụng trung và dài hạn có đặc điểm là
số lượng vốn vay lớn,thời gian vay dài(trên 1 năm),tiền vay lại được dùng để đầu tư
mua sắm,xây lắp tài sản cố định,do vậy các chủ đầu tư thường phải lập một dự án
gửi đến ngân hàng.Dự án đầu tư được hiểu là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc
thù với các mục đích,phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt được những kết quả
và mục đích nhất định sau một khoảng thời gian xác định.
Tín dụng trung dài hạn có thể được phân loại như sau:
-Căn cứ vào đồng tiền cho vay có tín dụng trung và dài hạn bằng ngoại tệ,tín
dụng trung và dài hạn bằng bản tệ.
-Căn cứ vào tính chất có bảo đảm có thể chia thành tín dụng trung và dài hạn
có bảo đảm và tín dụng trung và dài hạn không có bảo đảm.
-Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đối tượng xin vay có thể chia thành tín
dụng trung dài hạn đầu tư trong nước và tín dụng trung dài hạn xuất nhập khẩu.
-Tín dụng tuần hoàn:là phương thức cho vay vào chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp,nó được coi là tín dụng trung và dài hạn khi thời hạn của hợp
đồng được kéo dài từ 1 đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và được trả nợ
khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
-Thuê mua:Đây là hình thức cho vay trung và dài hạn nhưng bằng thiết bị
thay bằng tiền,người đi thuê có quyền mua lại tài sản đó theo giá thoả thuận trong
hợp đồng.

-Bảo lãnh trung và dài hạn mua thiết bị trả chậm.
1.1.1.4/Các đặc trưng cơ bản của tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng trung dài hạn là một loại hình tín dụng và nó được phân biệt với
các loại hình tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau:
*Thời hạn cho vay.




Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung dài hạn và tín dụng ngắn
hạn là thời hạn cho vay.
-Tín dụng ngắn hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ sản
xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không quá 12 tháng.
-Tín dụng trung,dài hạn:Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời
hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư,khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất của
nguồn vốn cho vay,trong đó:
+Tín dụng trung hạn có thời gian từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60 tháng tuỳ
theo quy định của từng ngân hàng.
+Tín dụng dài hạn có thời gian trên 36 tháng hoặc 60 tháng.
*Đối tượng cho vay:
Đối tượng cho vay trung dài hạn là toàn bộ các chi phí cấu thành trong tổng
mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới,mở rộng cải tạo công nghệ…
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng,đối tượng cho vay trung dài hạn là các
công trình,hạng mục công trình hoặc dự án đầu tư xây dựng,mua sắm tài sản cố
định…của các đơn vị kinh tế có luận chứng kỹ thuật tốt,xác thực và tổng dự toán đã
phê duyệt.
*Nguyên tắc và điều kiện vay vốn.
Khách hàng muốn vay vốn của Ngân hàng phải đảm bảo được ba nguyên tắc
tín dụng cơ bản.Đó là:
-Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.Khi

vay trung dài hạn,người vay phải soạn thảo dự án,chương trình sản xuất kinh
doanh.Các dự án này phải được thể hiện một cách đầy đủ,rõ ràng việc sử dụng vốn
theo các mục đích cụ thể.Mục tiêu này phải nằm trong mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế chung của vùng và cúa đất nước.Để cho dự án được thực hiện,cần có
sự thông qua,cho phép của cơ quan có thẩm quyền.
-Phải hoàn trả tiền vay và lãi theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
-Phải đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ,của Ngân Hàng
Nhà Nước.




Trên cơ sở các nguyên tắc trên,mỗi Ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện ràng
buộc,các quy định mang tính chất bắt buộc có thể thực hiện vốn vay của Ngân
hàng.Các quy định này về cơ bản là giống nhau nhưng các điều khoản cụ thể thì
khác nhau phụ thuộc vào mỗi ngân hàng và thời điểm lịch sử.
Do các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn nên thời gian thu hồi vốn là rất
lâu,có khả năng gặp nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng nên việc cho vay trung dài
hạn phải tuân theo quyết định 367/QĐNH1 của thống đốc NHNN Việt Nam về thể
lệ tín dụng trung dài hạn như sau:
-Doanh nghiệp vay vốn phải là đơn vị sản xuất kinh doanh có lãi,có vốn
tham gia tối thiểu bằng 20% tổng dự toán công trình đầu tư.
-Doanh nghiệp vay vốn phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và thể lệ tín dụng trung dài hạn của ngân hàng.
-Doanh nghiệp vay vốn phải mua bảo hiểm cho tài sản hình thành bằng vốn
vay tại một công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam,nếu tài
sản đó quy định phải mua bảo hiểm và cam kết sử dụng số tiền bồi thường khi gặp
rủi ro để trả nợ.Trường hợp không mua bảo hiểm do tổng giám đốc ngân hàng quy
định.

-Đối với các công trình xây dựng mới phải có đầy đủ các điều kiện:
+Phải có giấy phép xây dựng và giấy phép sử dụng đất do các cấp có thẩm
quyền cấp để đảm bảo được tính pháp lý cho công trình.
+Phải có lệnh hoặc hợp đồng phân phối vật tư máy móc thiết bị và nếu là
nhập khẩu trực tiếp thì phải có giấy phép nhập khẩu hợp pháp.
-Đối với công trình dự án của các đơn vị kinh tế của các đơn vị kinh tế đã và
đang hoạt động kinh doanh ổn định,đang có lãi thực sự,có xu hướng phát triển tốt
phù hợp với cơ chế kinh tế mới,phải có vốn tham gia tối thiểu 30% tổng dự toán
công trình
Hiện nay theo quy định mới của chính phủ,các đơn vị kinh doanh nếu chứng
minh được mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng vay vốn mà không cần thế
chấp




1.1.2/Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với phát triển kinh tế ở
Việt Nam.
1.1.2.1/ Tín dụng trung và dài hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều
rộng.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải biết nắm bắt và tìm mọi
cách thoả mãn nhu câù ngày càng cao của người tiêu dùng.Điều đó đồng nghĩa với
doanh nghiệp cần có vốn để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.Nguồn
vốn ngắn hạn sẽ chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu vốn tạm thời trong doanh nghiệp chứ
không thể giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư xây dựng cơ bản,mua sắm máy móc
trang thiết bị hiện đại.Do đó,doanh nghiệp cần đến nguồn vốn tín dụng trung và dài
hạn.Đối với Việt Nam thì vay vốn Ngân hàng được coi là lối thoát lớn nhất cho nhu
cầu vốn của các doanh nghiệp.Bởi vậy nếu các Ngân hàng chỉ chịu cung cấp vốn
với thời gian ngắn hạn thì các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức tái sản
xuất,không có cơ hội tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đem lại năng lực sản xuất

cao hơn.Trong điều kiện nước ta hiện nay,việc đầu tư trung dài hạn nhằm tạo nền
tảng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự tăng cường thực sự vững bền,đó là đảm bảo phát
triển treo chiều sâu.
1.1.2.2/Thúc đẩy mở rộng sản xuất phát triển.
Cho vay trung dài hạn đối với các thành phần kinh tế thực sự là loại hình đầu
tư chiều sâu nhằm mở rộng sản xuất,tăng quy mô ,nâng cao năng lực sản xuất,vì thế
tín dụng trung và dài hạn thực sự là một cứu cánh khi doanh nghiệp có tiềm năng
mở rộng phát triển mà không có vốn đầu tư.Khi đã có vốn nghĩa là một dự án đầu tư
đã đi vào hoạt động,là một cơ hội mở rộng sản xuất,cơ sở trang thiết bị đầy đủ làm
cho năng lực sản xuất kinh doanh tăng lên,theo đó mà sản phẩm hàng hoá được sản
xuất ra không những nhiều về số lượng,đa dạng về mẫu mã chủng loại,phong phú
về chất lượng,kích thích nhu cầu xã hội.
1.1.2.3/Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn.
Tín dụng trung và dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bi và xây dựng cơ bản
do đó kích thích sản xuất phát triển.Khi đó,các doanh nghiệp cần nhiều vốn lưu
động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất,điều này tạo ra thị trường sử dụng vốn




ngắn hạn.Tốc độ phát triển sản xuất càng cao thì nhu cầu vốn lưu động càng lớn và
tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển.
1.1.2.4/Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại
hoá.
Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn,Ngân hàng có thể cho vay
đáp ứng nhu cầu của ngành này chứ không phải ngành khác.Công nghiệp hoá không
chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế
mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới cơ bản về công
nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh,hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.Nội dung giai đoạn đầu của tiến trình Công nghiệp hoá-hiện đại

hoá đất nước là tập trung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật,đổi mới và nâng
cao trình độ công nghệ,chuyển dịch cơ cấu kinh tế,phát triển sản xuất trong nước
theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu…Để thực hiện được điều đó,phải duy trì tốc độ
tăng trưởng cao trên 10% và cần đến 40-50 tỷ USD cho đầu tư,trong đó nguồn vốn
trong nước phải có từ 20-25 tỷ.Trong điều kiện thị trường vốn nước ta chưa phát
triển hoàn thiện thì hiện tại và thời gian tới tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng
vẫn đóng vai trò quyết định và như vậy qua chính sách tín dụng đối với các ngành
kinh tế,Ngân hàng có thể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công
nghiệp hoá-hiện đại hoá.
1.1.2.5/Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Nhờ có nguồn vốn đầu tư tín dụng trung ,dài hạn mà các doanh nghiệp có thể
nhập khẩu máy móc trang thiết bị công nghệ.Đối với những nước đang phát triển
như Việt Nam thì việc mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu là con đường ngắn nhất
để chúng ta có thể đuổi kịp các nước về công nghệ.Ngoài ra,nhờ việc nhập máy
móc thiết bị,năng lực sản xuất của doanh nghiệp tăng lên,sản phẩm sản xuất ra chất
lượng cao,mẫu mã đẹp đáp ứng nhu cầu của thị trường trong ngoài nước,tăng khả
năng cạnh tranh trên trường quốc tế.




1.2/Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM
1.2.1/Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM.
Đối với các NHTM,cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể,vừa trừu
tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng.Chỉ khi chất lượng tín
dụng tốt thì ngân hàng mới có nhiều khách hàng,uy tín ngân hàng được nâng cao
tạo điều kiện thúc đẩy cho ngân hàng phát triển.
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù
hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại,phát triển của ngân hàng.
Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng,cần tính đến ba nhân tố là

NHTM,khách hàng,nền kinh tế và NHTM.
Thứ nhất:Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ giác độ NHTM
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi,mức độ,giới hạn tín dụng phải phù
hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm
bảo được sự cạnh tranh trên thị trường,đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có
lãi.Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia
tăng,dư nợ ngày càng tăng trưởng,tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp
lý,đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung và dài hạn trong nền kinh tế.
Thứ hai:Chất lượng hoạt động xét từ giác độ khách hàng.
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng,sự am hiểu khách hàng sẽ làm cho
ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng,đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp
lý về vốn cho họ.Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay,chất lượng là yêu cầu hàng
đầu,vì vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng,lãi suất
hợp lý,thủ tục đơn giản không phiền hà,thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm
bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã
hội,đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng,góp phần làm lành mạnh tài
chính doanh nghiệp.
Thứ ba:Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế.
Hoạt động tín dung trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng động
của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới.Nhiều khái niệm mới với những nội




dung mới để đạt được sự thống nhất,về nhận thức và tạo điều kiện nâng cao chất
lượng hoạt động tín dụng.
Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh,tạo việc làm cho người lao động,tăng
thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm
ẩn trong nền kinh tế,thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước,tranh thủ vay vốn
nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.

Từ những điều trên,ta có thể rút ra:
-Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp,nó phản ánh mức độ thích nghi
của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài,nó thể hiện sức mạnh một ngân
hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
-Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố:thu hút được khách
hàng tốt,thủ tục đơn giản,thuận tiện,mức độ an toàn của vốn tín dụng,chi phí tổng
thể về sản xuất,chi phí nghiệp vụ…
-Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có,nó là kết quả của một quy trình
kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức,giữa các tổ chức với nhau vì
một mục đích chung,do đó để đạt được chất lượng tín dụng cần có sự quản lý.
Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử dụng
nhằm đạt được chất lượng tốt.
Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả
và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt
động.Nói cách khác,chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong
hoạt động.Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giấ đúng chất
lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân cuả những
tồn tại về chất lượng,sẽ giúp ngân hàng tìm được biện pháp thích hợp để có thể
đứng vững trong nền kinh tế hoạt động sôi nổi và có sự cạnh tranh gay gắt.
1.2.2/Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Đối với các ngân hàng thương mại,cho vay có vai trò quan trọng trong phát
triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Nhờ có hoạt động tín dụng mà một ngân
hàng có thể mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh,tăng quy mô nguồn vốn huy
động và khả năng cho vay của mình.Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động




tín dụng,mỗi ngân hàng cần phải tìm biện pháp nâng cao chất lượng đối với các
khoản cho vay và cho thuê cuả mình.Thực tế chất lượng hoạt động tín dụng là một

khái niệm tương đối và không có một chỉ tiêu tổng hợp nào để phản ánh nó một
cách chính xác.Thông thường để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của một
ngân hàng thương mại,người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau,nhưng về
cơ bản chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại được đánh giá qua các
chỉ tiêu sau:
Thứ nhất:Chỉ tiêu tổng dư nợ.
Thú hai: Chỉ tiêu về nợ quá hạn.
Thứ ba: Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng.
Thứ tư: Đóng góp của hoạt động tín dụng đến sự phát triển kinh tế xã hội
1.2.2.1/Chỉ tiêu tổng dư nợ.
Tổng dư nợ khi được đề cập để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm cho
vay ngắn hạn,trung và dài hạn,cho vay uỷ thác.Chỉ tiêu này được đo bằng số tuuệt
đối,nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một kỳ(một năm) là bao
nhiêu.Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp vì chỉ ra rằng ngân hàng
không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay,khả năng tiếp thị khách hàng
kém,trình độ của đội ngũ nhân viên không cao…Tuy nhiên không phải bất kỳ thời
điểm nào chỉ tiêu này cao cũng là tốt và ngược lại,do vậy khi xét chỉ tiêu này chúng
ta cũng không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng
trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số
này phản ánh một cách tốt nhất có thể thực tế hoạt động tín dụng cuả ngân hàng
trong nền kinh tế.
1.2.2.2/Chỉ tiêu về nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này có thể nói là một chỉ tiêu quan trọng nhất khi xem xét chất
lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại.Đến kỳ trả nợ,nếu người vay không
trả và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ nợ đến hạn sang nợ
quá hạn và đương nhiên người đi vay phải chịu lãi suất quá hạn thường là cao gấp





rưỡi lãi suất trong hạn,vì thế doanh nghiệp đã khó sẽ càng trở nên khó khăn hơn
trong việc trả nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn quá cao biểu hiện hiện tượng chất lượng tín dụng của ngân
hàng là thấp,rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được hoàn trả đúng
hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn vào ra,với việc
không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả năng thanh toán
hoặc tệ hơn là phá sản. Khi xem xét các chỉ tiêu nợ khó đòi, người ta thường xem
xét cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối.
+Số tuyệt đối ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập hàng năm của ngân hàng
+Về số tương đối được xác định bởi tỷ lệ nợ khó đòi:
Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/ Tổng dư nợ
Hoặc
Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/ Nợ quá hạn
Mục đích của các Ngân hàng thương mại là làm cho các tỷ lệ này càng nhỏ
càng tốt, Thông thường tỷ lệ này dưới 4% là chấp nhận được.
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay và
đều càng nhỏ càng tốt .Tuy nhiên khác biệt cơ bản của hai tỷ lệ này là tỷ lệ quá hạn
chỉ xem xét đến giá trị của khoản nợ quá hạn,trong khi đó thì tỷ lệ nợ khó đòi xem
xét đến giá trị các khoản nợ khó đòi trong nợ quá hạn.
Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân
hàng,một ngân hàng có chính sách tốt phải thiết lập được quĩ dự phòng rủi ro đủ
mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không có khả năng thu hồi để tránh
tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có khả năng thu
hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm trọng.Tuy
nhiên,nếu như ngân hàng thực hiện xóa nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này ở mức thấp
nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn.

Ngoài ra,người ta còn tính đến một chỉ tiêu gián tiếp là tỷ lệ mất vốn:

Tỷ lệ mất vốn =
Tổng số tiền cho vay được xoá nợ)*100%
Dư nợ bình quân





Các tổ chức tín dụng đều có những khoản cho vay không có khả năng thu
hồi,nhưng một tổ chức tín dụng quản lý tốt là một tổ chức có tỷ lệ này ở mức thấp
nhất.Rất nhiều tổ chức tín dụng vẫn phản đối việc xoá nợ bởi họ tin rằng những
khoản cho vay này vẫn có thể thu hồi được.Một khi món nợ đã được xoá,các nỗ lực
thu hồi vốn vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế
1 2.2.3/Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng.
Ngân hàng hoạt động với mục đích quan trọng nhất là lợi nhuận.Chỉ tiêu này
sẽ chỉ ra trong tổng thu nhập của ngân hàng thì phần đóng góp là bao nhiêu.Lợi
nhuận thu từ hoạt động tín dụng lớn sẽ khẳng định chất lượng của các khoản vay là
tốt.
Tất nhiên khi xem xét chất lượng của một hoặc một số hoạt động tín dụng
đặc thù thì chúng ta sẽ dựa trên những chỉ tiêu chung này để vận dụng cho phù
hợp,đồng thời những chỉ số cũng được xem xét trong cả một thời kỳ dài để thấy
khuynh hướng biến động của nó phù hợp với thực tiễn không,nhằm giúp cho các
đánh giá được chính xác hơn.
1.2.3/Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn
của NHTM.
1.2.3.1/Các nhân tố về phía khách hàng.
Các doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất,đầu tư cho máy móc thiết bị,dây
chuyền công nghệ…phải cần một lượng vốn lớn và trong thời gian dài.Chính vì vậy

nhu cầu về vốn trung dài hạn là tất yếu.Điều kiện tín dụng đưa ra nhằm tiêu chuẩn
hoá khả năng của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn,đảm bảo khả năng thu hồi
vốn của ngân hàng.Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở những mặt
sau:
-Năng lực thị trường của doanh nghiệp.
Biểu hiện ở khối lượng sản phẩm tiêu thụ,chất lượng sản phẩm có đáp ứng
được nhu cầu thị trường không?Vị trí của doanh nghiệp trên thị trường ra sao?Hệ
thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp,mối quan hệ với các bạn hàng
đối tác.Năng lực thị trường của doanh nghiệp còn được lượng hoá qua tiêu thức cơ
bản là sự gia tăng của doanh số tiêu thụ sản phẩm.




Năng lực thị trườn càng cao,nhu cầu đầu tư càng lớn,rủi ro thị trường của
doanh nghiệp càng nhỏ là một nhân tố nâng cao chất lượng tín dụng.
-Năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị của công cụ lao
động,chủ yếu là tài sản cố định:biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm,công
nghệ sản xuất,các đầu tư trước đây có kết quả như thế này không?Cơ cấu và việc
làm chủ giá thành sản phẩm.Tiêu thụ sản phẩm tốt nhưng giá thành lớn hơn giá bán
là không tốt.Việc nghiên cứu giá thành và năng lực sản xuất cho thấy tính cấp thiết
và quy mô phải đầu tư mới.
-Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ
trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng.Điều kiện tín
dụng quy định một tỷ lệ cụ thể,tối thiểu của vốn tự có trong tổng số nguồn vốn hoạt
động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay,tỷ lệ vốn tự có tham gia
vào dự án vay vốn.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của

doanh nghiệp,tính lỏng của tài sản.Năng lực tài chính của doanh nghiệp trong tín
dụng trung dài hạn còn đòi hỏi doanh nghiệp phải có số vốn lưu động tối thiểu cho
việc duy trì hoạt động thường xuyên của tài sản cố định.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao,khả năng đáp ứng các điều
kiện tín dụng càng lớn thì càng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và
chất lượng tín dung trung dài hạn nói riêng.
-Năng lực quản lý của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ máy có năng lực quản lý phù hợp.Năng
lực quản lý thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài chính phù
hợp với các quy định của pháp luật.Hệ thống tài chính kế toán thống kê giúp cho
các doanh nghiệp và ngân hàng thông qua việc cung cấp các thông tin về hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp ( tất nhiên để đảm bảo tính trung thực khách quan
phải có các cơ quan kiểm toán xác nhận)
-Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm.




Quan hệ tín dụng thường đưa ra đòi hỏi có tài sản bảo đảm bằng các hình
thức thế chấp,cầm cố hoặc được bảo lãnh của người thứ ba.Điều kiện tối thiểu là
khối lượng tín dụng chỉ bằng 70% giá trị tài sản bảo đảm.
-Sự đáp ứng của dự án đối với tiêu chuẩn tín dụng.
Dự án thuyết minh được tính chất cần thiết,mục đích,kết quả của dự án.
Sự phù hợp của quá trình đầu tư với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội.
Có vốn tự có tham gia của doanh nghiệp vào tổng giá trị vốn đầu tư có khả
năng hoàn trả từ bản thân dự án và từ các hoạt động kinh doanh khác của doanh
nghiệp.
Mặt khác doanh nghiệp phải xác định được nguồn vốn lưu động tối thiểu cho
việc phát huy công suất tài sản cố định

Chất lượng tín dụng trung và dài hạn lệ thuộc rất lớn vào chất lượng của dự
án mà chất lượng của dự án chính là:
Chất lượng của dữ liệu và thông tin để xây dựng dự án đó là cơ sở dữ liệu về
điều tra cơ bản,các thông tin về giá cả,thị trường công nghệ sản xuất,vị trí của
doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
Dự án xây dựng đúng quy trình,quy định của Nhà nước.
Các tính toán,các luận giải phù hợp lôgic có căn cứ khoa học,đồng bộ giữa
bốn yếu tố:máy móc thiết bị,thông tin,thiết kế và con người.
Trình độ,uy tín của các chuyên gia xây dựng dự án.
Các biện pháp tổ chức,quản lý,triển khai phương án xây dựng phù hợp với cơ
cấu trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Các dự tính,các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong quá trình xây dựng và thu
hồi vốn
1.2.3.2/Các nhân tố về phía ngân hàng.
-Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Trong nền kinh tế hiện đại,các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng
thương mại nói riêng muốn tồn tại và kinh doanh có lãi phải xây dựng được cho
mình một chiến lược kinh doanh hiệu quả.Một chiến lược kinh doanh có hiểu quả sẽ
giúp ngân hàng có một phương hướng phát triển nhất quán,giúp cho ngân hàng khai




thác tốt nhất năng lực hiện có của đơn vị và đồng thời nó cũng giúp cho ngân hàng
có thể thích ứng một cách nhanh nhất với những biến đổi trong môi trường kinh
doanh của mình.Chính vì vậy công tác lập chiến lược kinh doanh hiện được các
ngân hàng hết sức coi trọng và nó ảnh hưởng lớn tới chất lượng của hoạt động tín
dụng.
-Chất lượng của công tác thẩm định dự án.
Khi đến ngân hàng để xin được cấp tín dụng,khách hàng thường phải mang

đến một bộ hồ sơ về dự án mà họ sẽ tiến hành thực hiện.Thẩm định dự án giúp ngân
hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả thi của dự
án,trên cơ sở đó sẽ quyết định khách hàng này có đủ điều kiện để được cấp tín dụng
hay không.Cũng thông qua công tác thẩm định,ngân hàng với những kinh nghiệm
vốn có của mình có thể tư vấn,giúp đỡ cho chủ đầu tư sửa đổi những điểm không
hợp lý trong dự án để dự án có tính khả thi hơn và cũng giúp cho ngân hàng có thể
mở rộng hoạt động tín dụng của mình.
Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán phức
tạp.Do công việc này là cơ sở để quyết định có cấp tín dụng hay không nên chất
lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động tín dụng.Nếu
chất lượng của công tác thẩm định không cao,tức là nhân viên tín dụng không xác
định được thực chất dự án có hiệu quả hay không thì những khoản tín dụng mà ngân
hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc thu hồi các món nợ của mình.Chính vì
vậy,công tác thẩm định đòi hỏi những nhân viên thẩm định có trình độ cao và sự kết
hợp một cách có hiệu quả giữa các phòng ban trong ngân hàng.
-Chính sách tín dụng của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng trong từng thời kỳ sẽ có những chính sách tín dụng riêng của
mình để nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.Chính sách tín dụng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến quy mô,tính chất của các khoản tín dụng cũng như phương thức hoạt động tín
dụng của ngân hàng.Chính sách tín dụng không những phụ thuộc vào mục tiêu của
bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như chính sách của chính
phủ và của các cơ quan quản lý.Như vậy việc đưa ra một chính sách tín dụng hợp lý
sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn,nó giúp nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng của ngân hàng.




-Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu

tố như quy mô của ngân hàng,chính sách tín dụng của ngân hàng,quy mô và loại
hình tín dụng,quy trình tín dụng tại ngân hàng đó.Trong quá trình hoạt động tín
dụng,các cán bộ tín dụng sẽ tiếp xúc trực tiếp với người vay,nhận đơn xin
vay,phỏng vấn khách hàng,thu thập thông tin về khách hàng và dự án trước khi có
quyết định chính thức trình cán bộ cao cấp hơn.Những thông tin về khách hàng và
dự án sau khi được các phòng ban chức năng của ngân hàng xem xét và nếu thấy đủ
điều kiện thì sẽ quyết định cụ thể về phương thức giải ngân và thu nợ sau này.Trong
quá trình này nếu các khâu được thực hiện tốt sẽ giúp cho ngân hàng lựa chọn được
những dự án tốt để cấp tín dụng,cũng như tạo uy tín tốt cho ngân hàng trong lòng
khách hàng,điều này giúp cho ngân hàng có thể nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng của mình.
Như vậy,công tác tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng có thể hỗ trợ đắc lực
cho nhân viên tín dụng thực hiện công việc của mình và nó có ảnh hưởng quan
trọng đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
-Chất lượng đội ngũ nhân sự.
Yếu tố mang tính quyết định đến việc nâng cao hay suy giảm chất lượng tín
dụng lại chính là nguồn nhân lực của ngân hàng vì suy cho cùng các quyết định
cung cấp tín dụng của ngân hàng là những quyết định mang tính chất chủ quan.Một
ngân hàng với một đội ngũ lãnh đạo tốt sẽ đưa ra được những chính sách hợp lý và
phương hướng phát triển phù hợp với khuynh hướng phát triển của nền kinh tế.Một
đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi sẽ giúp ngân hàng có được những khoản cho vay với
chất lượng cao nhất.Các cán bộ của các phòng ban,các bộ phận chức năng khác sẽ
giúp cho ngân hàng mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình,tạo dấu ấn của
ngân hàng trong lòng thị trường.
1.2.3.3/Những nhân tố khách quan.
Hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn của môi
trường kinh tế-xã hội.Một ngân hàng dù có cố gắng đến mấy trong hoạt động kinh
doanh của mình nhưng nếu môi trường kinh tế-xã hội không ổn định thì cũng khó
mà thành công.Chính vì vậy,việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là hoạt động





thường xuyên của mỗi ngân hàng thương mại.Ta có thể xem xét ảnh hưởng của môi
trường kinh tế-xã hội đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
từ các yếu tố sau:
-Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế phát triển có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín
dụng.Một môi trường kinh tế lành mạnh,các chủ thể tham gia nền kinh tế đang hoạt
động có hiệu quả sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô tín dụng,chất lượng hoạt động tín
dụng cũng sẽ được nâng lên.Bên cạnh đó môi trường kinh tế cũng có thể có những
thay đổi bất ngờ,ví dụ như những thay đổi về lãi suất,những biến động về tỷ
giá,biến động về thị trường….Như vậy chất lượng hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại sẽ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế mà nó hoạt động,vấn đề
đối với các ngân hàng là phải làm tốt công tác dự báo và khả năng thích ứng nhanh
khi có sự biến động nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động tín dụng
-Môi trường pháp lý.
Ngân hàng thương mại khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy định về
luật pháp của Nhà nước,như vậy môi trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng.Một hệ thống pháp lý đầy đủ,đồng bộ
và ổn định sẽ giúp các ngân hàng thương mại dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế
hoặch kinh doanh của mình,góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng của các ngân hàng thương mại.
-Môi trường chính trị - xã hội.
Môi trường chính trị-xã hội ổn định sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
hoạt động đầu tư và ngân hàng cũng có thể mạnh dạn mở rộng hoạt động tín dụng
của mình.Điều này giúp cho ngân hàng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn từ hoạt
động tín dụng.Tác động của môi trường chính trị-xã hội tới chất lượng hoạt động tín
dụng không thường xuyên,nhưng khi có những biến động về chính trị thì tác động
của nó tới các ngân hàng là vô cùng lớn.

Một sự thay đổi hệ thống chính trị có thể làm cho các ngân hàng mất phần
lớn hoặc toàn bộ các khoản tín dụng của mình,điều này sẽ đẩy các ngân hàng đến
bờ vực của sự phá sản.




Chương II: Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công
Thương Hoàn Kiếm.

2.1/Giới thiệu chung về Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm.

2.1.1/Lịch sử hình thành phát triển và cơ cấu tổ chức.
a. Lịch sử hình thành phát triển
Trước năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là hệ thống ngân hàng
một cấp, ngân hàng vừa là ngân hàng Nhà nước lại vừa là ngân hàng thương mại.
Nhận thấy sự không hiệu quả trong hoạt động của mô hình này, Nhà nước ta đã ban
hành hai pháp lệnh ngân hàng năm 1990 chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp
sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Và ngay sau đó, ngân hàng Công thương Việt
Nam đã được thành lập ngày 14/11/1990 ( chuyển thành từ Ngân hàng chuyên
doanh Công thương Việt Nam). Ngày 8/2/1991, 69 chi nhánh ngân hàng Công
thương được thành lập và ngày 27/3/1993, 77 chi nhánh ngân hàng Công thương
trên cả nước được thành lập và thành lập lại trong đó có ngân hàng Công thương
Hoàn Kiếm.
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là đơn vị thành viên của ngân hàng
Công thương Việt Nam, có trụ sở tại 37 Hàng Bồ – Hà Nội. Sau một loạt những khó
khăn trong hoạt động, năm 1997 ngân hàng đã được đổi mới về cơ cấu tổ chức,
trong sạch hoá các hoạt động, đem lại cho ngân hàng một sinh khí mới và một
tương lai phát triển.
B. Cơ cấu tổ chức.

Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm ngoài ban giám đốc còn có 9 phòng ban
với tổng số 215 cán bộ.
 Phòng kinh doanh: thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
 Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc
tế, thu đổi ngoại tệ, mua bán ngoại tệ.




 Phòng giao dịch Đồng Xuân: thực hiện gần như đầy đủ các nghiệp vụ
của ngân hàng nhưng chủ yếu với đối tượng khách hàng là các tư thương ở khu
vực chợ Đồng Xuân.
 Phòng nguồn vốn: thực hiện chức năng huy động vốn. Phòng nguồn
vốn bao gồm cả 10 quỹ tiết kiệm có chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư.
 Phòng kế toán: thực hiện các nghiệp vụ kế toán ngân hàng.
 Phòng kiểm soát: kiểm soát toàn bộ các hoạt động trong ngân hàng,
đảm bảo hoạt động ngân hàng vừa nhanh chóng, kịp thời nhưng phải hoàn toàn
chính xác.
 Phòng kho quỹ: thực hiện các nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, thu chi tiền
mặt, chuyển tiền
 Phòng vi tính: quản lý toàn bộ mảng tin học của hệ thống ngân hàng.
 Phòng tổ chức hành chính: bao gồm hai mảng hoạt động:
Hoạt động tổ chức: quản lý cán bộ trong ngân hàng, thực hiện các công
tác tuyển dụng, đào tạo, điều chuyển cán bộ
Hoạt động hành chính: chịu trách nhiệm về các hoạt động mua sắm, xây
dựng, phục vụ
2.1.2/Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong những năm
gần đây.
A. Năm 1999

 Về hoạt động kinh doanh tín dụng:
Đến 31/12/1999, dư nợ vẫn giữ mức 502.26 triệu đồng, khách hàng vay là
các tổng công ty 90,91; các đơn vị thành vị thành viên; các doanh nghiệp thuộc các




bộ và thành phố Hà Nội, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa phương. Các khách
hàng là doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài còn ít.
Trong cơ cấu tín dụng, dư nợ ngắn hạn chiếm 70,15%, trung dài hạn 29,85%,
nội tệ chiếm 76% và ngoại tệ 24%. Chi nhánh còn cho vay từ các nguồn vốn Đài
Loan, quỹ SMEDF, tăng cường nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng
 Về công tác nguồn vốn.
Mặc dù lãi suất huy động gửi tiền của Ngân hàng Công thương thấp hơn các
ngân hàng quốc doanh thương mại khác trên cùng địa bàn nhưng số tiền gửi dân cư
vẫn được duy trì và tăng trưởng. Đến 31/12/1999, số dư là: 358.717 triệu đồng, tăng
so với 31/12/1998 là 150 tỉ đồng, đạt 145%.
Song song với việc huy động vốn trong dân cư, Chi nhánh đã chú trọng đến
việc thu hút nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, đưa tổng nguồn vốn lên
1.524.967 triệu đồng.
 Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Trong năm 1999, Chi nhánh tiếp tục phát triển ổn định, giữ vị trí quan trọng
trong chiến lược khách hàng và đóng góp đáng kể vào thu nhập của Chi nhánh. Với
nhiều biện pháp khơi tăng nguồn ngoại tệ một cách hiệu quả, doanh số mua bán
ngoại tệ trong năm đạt 117 triệu USD, đã thoả mãn nhu cầu của khách hàng và
chuyển một phần đáng kể lên ngân hàng Công thương Việt Nam. Đồng thời nghiệp
vụ thanh toán quốc tế thường xuyên được chú trọng và cố gắng vượt bậc, kết quả đã
mở và thanh toán 450 L/C, thanh toán nhờ thu 8 món, thanh toán TTR 176 món.
Các nghiệp vụ khác như chi trả kiều hối, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế cũng được

quan tâm và thu được kết quả khích lệ: thu kiều hối 315 món trị giá 423.657 USD,
chi kiều hối là 314 món trị giá 422.446 USD, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế là 70
món với số tiền là 10.000 USD. Đặc biệt năm 1999, Chi nhánh đã bắt đầu thực hiện
dịch vụ L/C xuất như sau: thông báo 4 L/C trị giá 299.276 USD, thanh toán 5 L/C




trị giá 392.164 USD. Mặc dù nghiệp vụ thanh toán L/C xuất chưa nhiều nhưng là sự
khởi đầu, là cuộc tập dượt cho sự phát triển sau này.
 Về công tác thu nợ:
Từ cuối năm 1998, ban thu nợ được tách riêng với nhiệm vụ chủ yếu là theo
dõi, đôn đốc khách hàng có nợ quá hạn và nghiên cứu đề ra các biện pháp nhằm
khai thác xử lí tài sản thế chấp để thu hồi nợ quá hạn. Với sự cố gắng này, năm
1999 tổng nợ quá hạn thu được gần 8,5 tỉ đồng nợ gốc và 650 triệu đồng tiền lãi.
 Về lợi nhuận.
Với sự cố gắng vượt bậc, năm 1999, NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được hơn 21
tỷ đồng lợi nhuận hạch toán, vượt 22% kế hoạch NHCT Việt Nam giao, vượt gần 2
lần so với năm 1998.
b. Năm 2000.
 Về hoạt động kinh doanh tín dụng.
Trong năm 2000, mục tiêu cơ bản được đặt ra là nâng cao chất lượng tín
dụng, hoạt động tín dụng chủ yếu đi vào chiều sâu. Chính vì vậy Chi nhánh đã liên
tục rà soát, đánh giá chất lượng tín dụng, sàng lọc và nâng cao chất lượng dư nợ đối
với những khách hàng truyền thống, đồng thời không ngừng nghiên cứu, tìm kiếm
và tiếp thị các khách hàng mới là các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có uy tín và khả năng tài chính lành mạnh, tiếp cận các dự án
có tính khả thi cao, đặt nền móng cho việc mở rộng công tác tín dụng một cách
vững chắc, an toàn và hiệu quả. Các doanh nghiệp dân doanh cũng được chú ý
nhiều hơn.

Nhờ vậy, doanh số cho vay năm 2000 đạt 1.690.106 triệu đồng, tăng 18% so
với năm 1999. Doanh số thu nợ đạt 1.695.019 triệu tăng 13% so với năm 1999. Dư
nợ cho vay bình quân đạt 547.351 triệu đồng, trong đó dư nợ cho vay nội tệ chiếm
82%, dư nợ cho vay ngoại tệ chiếm 18%; dư nợ ngắn hạn chiếm 72,22%, dư nợ
trung dài hạn chiếm 27,78% tổng dư nợ. Năm 2000 chi nhánh không để phát sinh




nợ quá hạn khó đòi mới, đồng thời thu được gần 16 tỷ đồng nợ gốc và 100 triệu
đồng lãi nợ quá hạn khó đòi phát sinh những năm trước. Các khoản vay đều thu kịp
thời đầy đủ cả gốc và lãi. Sở dĩ dư nợ năm 2000 không tăng so với năm 1999 vì chi
nhánh đã xác định quy mô dư nợ phải phù hợp với trình độ, khả năng và kinh
nghiệm quản lý của cán bộ, lấy an toàn, hiệu quả làm mục tiêu hàng đầu.
 Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Năm 2000 đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong hoạt động kinh doanh
đối ngoại của chi nhánh. Thật vậy, với tinh thần cố gắng làm việc phấn đấu vươn
lên, với nghiệp vụ vững vàng và phong cách giao dịch được hoàn thiện một cách rõ
nét của từng cán bộ kinh doanh đối ngoại, sự phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa các
phòng ban, nên dù gặp khó khăn do sự khan hiếm ngoại tệ nhưng chi nhánh đã trở
thành một trong những chi nhánh hàng đầu về lĩnh vực thanh toán quốc tế và kinh
doanh ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam.
Trước hết là việc thanh toán đòi tiền bộ chứng từ hàng xuất khẩu, đối với chi
nhánh đây là một nghiệp vụ mới mẻ, chi nhánh chưa có kinh nghiệm, nhưng với sự
cố gắng của những cán bộ kinh doanh đối ngoại, năm 2000 chi nhánh đã đạt được
doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu USD, chiếm 20% tổng doanh số thanh
toán hàng xuất của hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam và đã đưa chi nhánh
đứng vị trí 1 trong 3 đơn vị hàng đầu trong toàn hệ thống. Đồng thời chi nhánh đã
mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu USD, đáp ứng được yêu cầu nhập khẩu của
khách hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ thu, TTR chi nhánh cũng đã làm rất tốt, cụ thể

doanh số nhờ thu đạt 12 triệu 741 ngàn USD; doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa
doanh số thanh toán hàng nhập khẩu lên 104 triệu USD.
Năm 2000 là một năm đầy khó khăn đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
Thế nhưng chi nhánh đã có được doanh số mua bán ngoại tệ với 95 triệu USD, thu
phí về hoạt động thanh toán quốc tế là 2,4 tỷ đồng.
 Về công tác huy động vốn.




Số dư tiền mặt của dân cư năm 2000 đạt 510.686 triệu đồng, tăng 12% so với
năm 1999, đưa tổng nguồn vốn của chi nhánh năm 2000 lên đến hơn 2.082.533 triệu
đồng, tăng 14% so với năm 1999.
 Về lợi nhuận.
Năm 2000, ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có được 21.730 triệu
đồng lợi nhuận, vượt 10% so với kế hoạch được giao. Lợi nhuận năm 2000 của chi
nhánh lẽ ra đạt trên 25 tỷ đồng, nhưng do cuối năm 2000 chi nhánh phải thực hiện
trích quỹ dự phòng rủi ro và quỹ lương điều hoà bổ sung theo cơ chế tiền lương mới
làm đột biến tăng chi phí là 3 tỷ.
c. Năm 2001
Năm 2001, nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục ổn định và phát triển. Với tốc độ
tăng trưởng GDP 6,8%, sự ổn định về chính trị và những thành công trong đối
ngoại, nước ta đã trở thành môi trường tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các
công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước đã có những thay đổi lớn theo
thông lệ quốc tế, đặc biệt là lãi suất và tỉ giá đã tạo môi trường thuận lợi, khiến hoạt
động ngân hàng ngày càng sôi động và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên hệ thống ngân hàng nói chung vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Hoạt động của nền
kinh tế còn kém hiệu quả và một số yếu tố khách quan không thuận lợi cho hoạt
động ngân hàng, đó là sản phẩm cạnh tranh thấp, giá cả các mặt hàng xuất khẩu

chiến lược như nông sản, dầu thô, cà phê liên tục giảm.
Lãi suất ngoại tệ trên thị trường tiền tệ giảm mạnh từ 6,5% xuống còn
1,75%/năm, lãi suất cho vay liên tục giảm, trong khi chi phí cho các hoạt động huy
động có kỳ hạn chưa kịp giảm theo. Cộng với sự cạnh tranh gay gắt của trên 70
ngân hàng lớn nhỏ làm cho hoạt động của chi nhánh càng gặp khó khăn. Tuy vậy
ngân hàng vẫn đã đạt được một số kết quả sau:
 Về công tác huy động vốn.

×