TIỂU LUẬN:
Ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đến xuất nhập
khẩu của Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta biết, trong năm 2008 và cho tới những tháng năm 2009 này khủng
hoảng toàn cầu đã lan rộng và hậu quả nặng nề của nó ngày càng lộ rõ trên tất cả mọi mặt
của kinh tế - xã hội. Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng với một nền
kinh tế đã hội nhập thì những tác động gián tiếp là không thể tránh khỏi. Đúng như cảnh
báo của nhiều chuyên gia, xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu Việt Nam đang bắt đầu
gánh chịu những khó khăn bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính thế giới.
Với mục tiêu, đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu cơ bản trở thành nước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh như hiện nay và hy vọng tình hình có thể cải
thiện nhanh trong những năm tiếp theo, mục tiêu đó có thể đạt được hay không là nhờ
đóng góp phần không nhỏ của hoạt động xuất nhập khẩu trong chuỗi các hoạt động kinh
tế nói chung.
Từ việc quan sát thực tiễn, nghiên cứu thực tế trong quá trình thực tập ở Vụ Tổng
hợp Kinh tế quốc dân – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng với sự tham khảo ý kiến của thầy
giáo hướng dẫn tôi đã quyết định chọn đề tài: “Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu đến xuất nhập khẩu của Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn đang còn tiếp diễn, vì vậy cần tiếp tục theo
dõi, kịp thời phân tích ảnh hưởng và tác động của nó đối với nền kinh tế trong nước đặc
biệt với hoạt động xuất nhập khẩu, để có chủ trương và biện pháp thích hợp.
Chương 1: Cơ sở lý luận để đánh giá tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
đến xuất nhập khẩu của Việt Nam
1.1. Một số vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu
1.1.1. Các lý thuyết truyền thống về thương mại quốc tế
1.1.1.1. Lý thuyết lợi ích tuyệt đối của Adam Smith
Năm 1776, Adam Smith đã đưa ra học thuyết về “lợi thế tuyệt đối” và thương mại
quốc tế. Theo Adam Smith, cơ sở tiến hành phân công chuyên môn hóa quốc tế là sự
khác biệt tuyệt đối của giá thành sản xuất giữa các nước: một quốc gia phải sản xuất
những sản phẩm sở trường nhất của mình, tức là những sản phẩm mà giá thành sản xuất
“tuyệt đối” rẻ, rồi dùng những sản phẩm này để trao đổi với các nước khác, đem về
những sản phẩm không phải sở trường của mình, nhất là những sản phẩm có giá thành
sản xuất cao.
Nước A, xét trong tương quan với nước B, có thể tỏ ra hiệu quả hơn (có lợi thế
tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng X, và kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất mặt
hàng Y. Khi đó B là nước có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng Y, và bất lợi tuyệt đối trong
sản xuất mặt hàng X. Theo A. Smith, nếu mỗi quốc gia tập trung vào sản xuất mặt hàng
mà mình có lợi thế tuyệt đối và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia kia để đổi lấy mặt
hàng mà mình có mức bất lợi tuyệt đối, thì sản lượng của cả hai mặt hàng đều tăng lên và
cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn.
Để đơn giản hóa sự phân tích, mô hình thương mại được xây dựng với giả thiết:
thế giới chỉ bao gồm 2 quốc gia Nhật Bản và Việt Nam, và 2 mặt hàng thép và vải, chi
phí vận chuyển bằng 0, lao động là yếu tố sản xuất trong nước, nhưng không di chuyển
được giữa các quốc gia, cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị trường
Trong điều kiện tự cung cấp, mỗi quốc gia tự sản xuất hai mặt hàng để tiêu dùng
trong nước. Số lượng lao động cần tới ở mỗi nước để sản xuất một đơn vị thép và vải
được cho bởi bảng sau.
Bảng 1: Mô hình thương mại dựa trên thuyết tuyệt đối
Nhật Bản Việt Nam
Thép 2 6
Vải 5 3
Nhật Bản là nước có hiệu quả cao hơn hay có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất thép
vì để làm ra một đơn vụ thép nước này chỉ cần 2 lao động, trong khi Việt Nam cần tới 6
lao động. Ngược lại, Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải vì nước này chỉ cần 3
lao động để sản xuất một đơn vị vải, trong khi Nhật Bản phải dùng tới 5 lao động. Khi đó
Nhật Bản sẽ tập trung toàn bộ số lao động của mình để sản xuất thép, còn Việt Nam thì
thực hiện chuyên môn hóa hoàn toàn trong việc sản xuất vải, và sau đó 2 nước đem trao
đổi một lượng nhất định các mặt hàng này với nhau để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước. Điều này dẫn tới sự gia tăng sản lượng thép và vải của toàn thế giới, và mỗi quốc
gia có khả năng tiêu dùng nhiều hơn so với trường hợp tự cung cấp.
Ưu, nhược điểm của mô hình: Mô hình giúp giải thích cho một phần nhỏ của
thương mại quốc tế, cụ thể trường hợp nếu một quốc gia không có điều kiện tự nhiên
thích hợp để trồng các loại cây như lúa, cà phê… thì buộc phải nhập khẩu các mặt hàng
này từ các nước khác. Mô hình này cũng không giải thích được trường hợp tại sao thương
mại vẫn có thể diễn ra ở một quốc gia có mức bất lợi tuyệt đối.
1.1.1.2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh, David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế
tương đối, giúp giải quyết một phần hạn chế mà lý thuyết tuyệt đối của Adam Smith gặp
phải. Ông này cho rằng nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào các sản phẩm mà nước đó có
lợi thế tương đối thì thương mại sẽ có lợi cho các bên.
Với các giả thiết của mô hình vẫn giữ nguyên, tuy nhiên lượng lao động cần thiết
để sản xuất thép và vải có khác đi theo bảng dưới đây
Bảng 2: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh
Nhật Bản Việt Nam
Thép 2 12
Vải 5 6
Các số liệu cho thấy Nhật Bản cần ít số lượng lao động hơn so với Việt Nam để
sản xuất ra cả 2 mặt hàng, thế nhưng điều này cản trở thương mại có lợi giữa hai nước.
Tuy Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng, nhưng do mức lợi thế về sản xuất
thép hơn mức lợi thế về sản xuất vải (2/12<5/6) cho nên nước này có lợi thế so sánh về
mặt hàng thép. Ngược lại, Việt Nam bất lợi tuyệt đối về cả 2 mặt hàng, nhưng do mức bất
lợi về sản xuất vải nhỏ hơn mức bất lợi về sản xuất thép nên Việt Nam có lợi thế so sánh
về vải (6/5<12/2). Như vậy, một cách khái quát, Nhật Bản có lợi thế so sánh về mặt hàng
thép và sẽ chuyên môn hóa sản xuất thép để xuất khẩu.
Trái với lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh là một khái niệm có tính tương đối: trong
một thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 mặt hàng, khi đã xác định được một quốc gia có lợi
thế hơn so sánh về một mặt hàng nào đó thì có thể rút ra kết luận là quốc gia thứ 2 sẽ có
lợi thế về mặt hàng kia.
Một cách tổng quát, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn
một cách tương đối so với quốc gia kia. Nói cách khác, một quốc gia sẽ xuất khẩu những
mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn mộ cách tương đối so với
quốc gia kia. Cụ thể, nếu quốc gia A có lợi thế tuyệt đối ( hay bất lợi tuyệt đối) trong sản
xuất cả hai sản phẩm X và Y thì A chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm X
khi và chỉ khi:
Chi phí lao động để sản xuất
1 đơn vị X ở A
––––––––––––––––––––––––
Chi phí lao động để sản xuất
Chi phí lao động để sản xuất
1 đơn vị Y ở A
< ––––––––––––––––––––––––
Chi phí lao động để sản xuất
1 đơn vị X ở B
1 đơn vị Y ở B
Tuy có những tiến bộ quan trọng so với lý thuyết của Adam Smith nhưng lý thuyết
của David Ricardo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Với những giả định trong mô hình thương mại
ở trên, lý thuyết lợi thế tương đối khó có thể đứng vững trước những kiểm nghiệm thực tế,
tuy nhiên kết luận của Ricardo vẫn là một kết luận rất quan trọng giải thích về nguồn gốc
thương mại quốc tế.
1.1.1.3. Lý thuyết Heckscher – Ohlin
Là công trình của hai nhà kinh tế học E.F.Hekscher và B.C.Ohlin. Lý thuyết đã
đưa ra cơ chế hoạt động của quy luật lợi thế so sánh là do sự khác nhau giữa các yếu tố
sản xuất sẵn có ở các nước
a) Các giả thiết của mô hình H-O:
- Thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 mặt hàng, 2 yếu tố sản xuất (lao động và vốn),
mức độ trang bị các yếu tố sản xuất ở mỗi quốc gia là cố định
- Sản xuất mỗi mặt hàng có hiệu suất không đổi theo quy mô, còn mỗi yếu tố sản
xuất thì có năng suất cận biên giảm dần
- Các mặt hàng khác nhau sẽ có hàm lượng các yếu tố sản xuất khác nhau, và
không có sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả yếu tố tương
quan nào
- Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cat thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố sản
xuất (mức giá trên thị trường là duy nhất và được xác định bởi cung cầu, và về dài hạn
giá cả hàng hóa đúng bằng chi phí sản xuất)
- Chuyên môn hóa là không hoàn toàn (hai nước có quy mô tương đối giống nhau,
không có nước nào được coi là nước nhỏ hơn nước kia)
- Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng không thể
di chuyển giữa các quốc gia
- Sở thích là giống nhau giữa hai quốc gia (nếu hai nước có cùng thu nhập và mức
giá cả hàng hóa thì sẽ có xu hướng tiêu dùng lượng hàng hóa như nhau)
- Thương mại được thực hiện tự do, chi phí vận chuyển bằng 0 (thương mại hàng
hóa sẽ cân bằng giá cả hàng hóa giữa hai nước)
b) Khái niệm
Định lý H-O được xây dựng trên 2 khái niệm cơ bản: hàm lượng các yếu tố và
mức độ dồi dào của các yếu tố
L
X
và L
Y
là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y, còn K
X
và
K
Y
là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y. Mặt hàng X được coi là có
hàm lượng lao động cao nếu:
Tương tự, nếu thì nước A được coi là giàu tương đối về lao động so
với nước B
Trong đó: L
A
và L
B
là lượng lao động, K
A
và K
B
là lượng vốn tương ứng ở hai
nước A và B
c) Định lý H-O
Các nước sẽ có lợi thế so sánh trong việc sản xuất và xuất khẩu loại hàng hóa mà
việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều yếu tố tương đối rẻ và sãn có ở nước đó và nhập khẩu
loại hàng hóa mà việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở
nước đó.
Tóm lại, với những giả thiết đơn giản hóa các vấn đề liene quan đến sản xuất và
trao đổi giữa hai quốc gia như hiệu suất sản xuất các mặt hàng không thay đổi theo quy
mô, cạnh tranh hoàn hảo trên thị trường, tự do hóa thương mại và không tồn tại chi phí
vận chuyển… các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đã chỉ ra rằng, bằng việc chuyên
môn hóa sản xuất các sản phẩm dựa vào các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và các yếu
tố nguyên liệu sẵn có thì sản xuất của mỗi nước sẽ hiệu quả hơn, giá thành sản phẩm sẽ rẻ
hơn và khi đem ra trao đổi với các nước sẽ thu được lợi ích nhiều hơn khi mỗi nước tự
sản xuất và tự tiêu dùng.
1.1.2. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế
1.1.2.1. Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô
L
X
L
Y
–––– > ––
K
X
K
Y
L
A
L
B
–––– > ––
K
A
K
B
Buôn bán giữa các nước không những chỉ xảy ra giữa các nước có các yếu tố
nguồn lực khác nhau mà còn xảy ra mạnh mẽ giữa các nước có lợi thế giống nhau.
Những hình thức thương mại này không thể lý giải bằng học thuyết về lợi thế so sánh.
Giả sử, Mỹ và Nhật cùng sản xuất hai mặt hàng là tàu thủy và máy bay trong điều
kiện có cùng các điều kiện về nguồn lực như nhau được biểu thị bằng một đường giới hạn
khả năng sản xuất là MA (là đường lồi so với gốc tọa độ do lợi tức tăng dần) và các
đường bàng quan I
1,
I
2,
I
3.
Khi chưa có thương mại, 2 nước có chung điểm cân bằng, tức là cùng mức sản
xuất và tiêu thụ tại điểm E
1
và có khả năng tiêu dùng tại điểm này
Hình 1: Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô
Tàu thủy
M I
3
S I
1
I
2
F E
2
E
3
E
1
T L A Máy bay
Khi có thương mại, Mỹ sẽ tập trung sản xuất máy bay tại điểm A, khi đó điểm tiêu
dùng của Mỹ là E
2
và Nhật Bản sẽ sản xuất tàu thủy tại điểm M, điểm tiêu dùng là E
3
. E
2
và E
3
đều cao hơn mức ban đầu E
1
. Nhật xuất khẩu một lượng MF tàu thủy và nhập FE
2
máy bay từ Mỹ. Mỹ nhập từ Nhật một lượng E
3
L = MF tàu thủy và xuất sang Nhật LA =
FE
2
máy bay.
1.1.2.2. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ
Thương mại quốc tế với các sản phẩm công nghệ thường xảy ra theo học thuyết về
vòng đời sản phẩm của Raymon Vernon (Hình 2)
Từ t
0
– t
1
: Giai đoạn sáng tạo và phát triển sản phẩm ở trong nước phát minh ra
sản phẩm. Tại t
1
sản phẩm được giới thiệu
Từ t
1
– t
2
: Nước phát minh XK và các nước phát triển NK
Từ t
2
– t
3
: Sản phẩm thành thục, thị trường tiêu thụ mở rộng, các nước đang phát
triển như Việt Nam bắt đầu NK, tạo điều kiện sản xuất với quy mô lớn, chi phí thấp. Lợi
thế so sánh chuyển từ nước phát minh sang nước phát triển và đến thời điểm t
3
các nước
này tiến hành XK, nước phát minh giảm XK.
Hình 2: Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế
XK
t
0
t
1
t
2
t
3
t
4
t
NK
Các nước phát triển Các nước đang phát triển (Việt Nam)
Từ t
3
– t
4
: Công nghệ trở nên hoàn toàn được chuẩn hóa và phổ biến rộng, các
nước đang phát triển có thể bắt chước để sản xuất được. Với lợi thế chi phí lao động thấp,
các nước phát triển mất dần lợi thế so sánh. Vì thế, việc sản xuất ra sản phẩm chuyển dần
sang các nước đang phát triển và tại thời điểm t
4
các nước đang phát triển XK sang các
nước phát minh ra sản phẩm.
1.1.2.3. Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu
Đối với các mặt hàng công nghiệp cao cấp thì nguyên nhân nảy sinh trao đổi hàng
hóa giữa các nước lại xuất phát từ mặt cầu của người tiêu dùng. Nhà kinh tế học
S.B.Linder cho rằng, công nghiệp mà lượng cầu trong nước khá lớn sẽ tác dụng đến
doanh nghiệp và sự kích thích ra sự phát minh ra sản phẩm mới. Nhân tố chính ảnh
hưởng đến nhu cầu của một nước là thu nhập binh quân đầu người.
Ngoài ra, nhu cầu nhu cầu của người tiêu dùng còn do các yếu tố khác như: văn
hóa, thói quen… hay nói cách khác là thị hiếu của họ. Chẳng hạn, người Việt Nam rất
thích dùng các mặt hàng nhập khẩu của các nước phát triển. Vì vậy, mặc dù hoàn toàn có
thể giống nhau về chất lượng, giá cả trong nước lại thấp hơn nhưng người Việt lại chọn
các sản phẩm có xuất xứ từ Mỹ, Nhật, Pháp… Do vậy, có thể nói rằng bất chấp mọi yếu
tố khác, thị hiếu người dùng vẫn tồn tại như một nguồn gốc độc lập của thương mại quốc
tế.
Các lý thuyết về kinh tế quốc tế đã đưa ra được các cách giải thích khác nhau về
nguyên nhân của thương mại quốc tế cũng như cách tiếp cận khác nhau trong việc giải
thích các hiện tượng kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế, khả năng cạnh tranh quốc gia
và các quan hệ tiền tệ quốc tế khu vực. Chúng là những căn cứ quan trọng về mặt lý
thuyết để nhận thức một cách có hệ thống và hợp logic các quan hệ kinh tế quốc tế. Mức
độ hoàn chỉnh và tổng quát của các lý thuyết này ngày càng được nâng cao.
1.1.3. Một số vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu
1.1.3.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho
nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng
hóa cho nước ngoài.
Theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại việt nam 2005, xuất khẩu hàng
hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp
luật
Khi các nhân tố liên quan đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu ở trong nước không
thay đổi, giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của nước ngoài và vào tỷ giá hối đoái.
Thu nhập của nước ngoài tăng (cũng có nghĩa là khi tăng trưởng kinh tế của nước ngoài
tăng tốc), thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên. Tỷ giá hối đoái tăng (tức là tiền tệ trong
nước mất giá so với ngoại tệ), thì giá trị xuất khẩu cũng có thể tăng nhờ giá hàng tính
bằng ngoại tệ trở nên thấp đi.
1.1.3.2. Khái niệm nhập khẩu
Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa
và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài
cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức
biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình
mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ
được tính vào mục cán cân phi thương mại.
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá hối
đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng
hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập khẩu tính
bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.
Đơn vị tính khi thống kê về xuất, nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu
Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi khi, nếu
chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc trọng lượng
(cái, tấn, v.v )
1.1.3.3. Cán cân thương mại
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán
quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh
lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán
cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân
thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng
thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại.
Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị
dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang
giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các
khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý
luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán
quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại:
- Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn.
Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ).
MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng
0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập
khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước
và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị
trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại
Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ
nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
- Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác
vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ
thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô
hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
- Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến
giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ
giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ
hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc
tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến
kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ
có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên
1.1.4. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh tế
Trong quá trình phân công lao động quốc tế, xuất nhập khẩu giúp tạo điều kiện tạo
điều kiện phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý dựa trên việc khai thác hiệu quả lợi thế
so sánh của từng quốc gia. Nhờ đó, sản xuất và tiêu dùng không ngừng được nâng cao về
hiệu quả và quy mô. Nói cách khác, xuất nhập khẩu thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
a) Vai trò của xuất khẩu
- Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam có tỷ lệ tăng dân số khá cao, lực
lượng lao động dồi dào. Nếu xuất khẩu được mở rộng thì lượng lao động trực tiếp tham
gia trực tiếp vào các ngành xuất khẩu tăng lên, đồng thời lao động của các ngành khác
liên quan cũng tăng theo.
Như vậy, xuất khẩu có tác dụng khai thác nguồn lực sẵn có, tăng thêm việc làm và
thu nhập cho người lao động.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, tiến bộ, phục vụ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
Khi thực hiện xuất khẩu tức là hàng hóa được đưa ra thị trường các nước khác
nhau và chịu cạnh tranh rất lớn. Tất yếu, những hàng hóa không đủ phẩm chất sẽ bị trả lại
và không có cơ hội phát triển thị trường. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu phải luôn luôn đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, quản lý hiệu quả,mở rộng quy
mô theo hướng ngày càng hiện đại. Xuất khẩu còn thúc đẩy các ngành cung cấp đầu vào
cho hoạt động xuất khẩu và các hoạt động dịch vụ khác cũng phát triển như bảo hiểm,
vận tải và du lịch. Đối với các nước đang phát triển, xuất khẩu là nguồn tạo vốn cho
nhập khẩu, thúc đẩy chủ động nhập khẩu công nghệ. Trong điều kiện các yếu tố công
nghệ, vốn và trình độ quản lý còn hạn chế thì xuất khẩu đóng vai trò thu hút FDI. Hay
chính hoạt động xuất khẩu thúc đẩy sự phát triển toàn diện các lĩnh vực trong nền kinh tế
góp phần tạo dựng cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
- Hoạt động xuất khẩu có thể có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và
tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ khác phát triển. Xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng
xuất khẩu sẽ thúc đẩy hệ thống tín dụng, đầu tư, mở rộng quan hệ quốc tế
Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề để mở rộng xuất
khẩu.
Như vậy, xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ
thuộc lẫn nhau. Hay, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
b) Vai trò của nhập khẩu
- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
đất nước.
- Nhập khẩu có tác dụng bổ sung những thiếu hụt của nền kinh tế, cải thiện và
nâng cao mức sống của người dân.
- Nhập khẩu các nguyên nhiên liệu phục vụ cho xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu
Như vậy, xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thực
hiện một mục đích là phát triển nền kinh tế.Hiệu quả của hai hoạt động này chính là sự
kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu để thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.
1.2. Diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
1.2.1. Khủng hoảng tài chính ở Mỹ - Xuất phát điểm của khủng hoảng tài
chính toàn cầu
Khủng hoảng tại Mỹ được đánh dấu bằng sự đổ vỡ của hệ thống các ngân hàng tại
đây. Tình trạng thua lỗ, phá sản thường chỉ xảy ra trong các ngân hàng nhỏ và trung bình
ở Mỹ. Nhưng kể từ tháng 8/2008, tình trạng này đã lan sang các ngân hàng có tầm ảnh
hưởng lớn trong hệ thống tài chính toàn cầu. Freddie Mac và Frannie Mae là hai tập
đoàn cho vay thế chấp khổng lồ của Mỹ. Nếu hai tập đoàn này sụp đổ thì hệ thống tài
chính toàn cầu sẽ rơi vào một cú sốc lớn. Vì thế, để tạm thời ngăn chăn sự việc này, ngày
7/9/2008, Chính phủ Mỹ đã phải bỏ ra 25 tỷ USD để tiếp quản hai tập đoàn.
Tập đoàn lớn thứ tư tại Mỹ - Lehman Brothers Holdings đã thua lỗ gần 7 tỷ USD
trong quý II và III năm 2008, trong đó quý III lỗ 3,9 tỷ USD. Nguyên nhân là do các
khoản nợ xấu trong lĩnh vực tín dụng thứ cấp thế chấp mua nhà tại Mỹ của ngân hàng này
không có khả năng thanh toán. Sau 158 năm hoạt động, Lehman Brothers Holdings đã
nộp đơn xin phá sản ngày 15/9/2008. Cùng ngày với lý do như trên, tập đoàn ngân hàng
lớn khác của Mỹ là Merrill Lynch đã tuyên bố sáp nhập với Bank of America với giá trị
50 tỷ USD, tương đương 29 USD/cổ phần, trở thành tập đoàn cung cấp dịch vụ tài chính
lớn nhất thế giới.
Tập đoàn bảo hiểm hàng đầu của Mỹ, AIG tuyên bố thua lỗ 18 tỷ USD trong quý
II và quý III, riêng 6 tháng đầu năm 2008 đã lỗ hơn 13 tỷ USD. Để cứu tập đoàn này khỏi
nguy cơ phá sản, FED đã cho AIG vay 85 tỷ USD trong vòng 2 năm, đổi lại Chính phủ
Mỹ sẽ nắm giữ 80% cổ phần và thay đổi ban lãnh đạo của tập đoàn này.
Ngày 26/9, ngân hàng tiết kiệm lớn nhất của Mỹ - Washington Mutual Inc cũng
được bán lại cho JP Morgan Chase do thua lỗ 19 tỷ USD. Cuối ngày 29/9/2008, cổ phiếu
của ngân hàng Wachovia – một trong những ngân hàng lớn nhất của Mỹ- chỉ còn dưới 1
USD báo động đứng bên bờ vực phá sản. Citigroup đã quyết định mua lại mảng hoạt
động tín dụng của ngân hàng này với giá gần 2,2 tỷ USD và cơ quan liên bang tiền đảm
bảo quyền lợi của người gửi tiền ở ngân hàng này.
Từng là ngân hàng lớn nhất thế giới và có chi nhánh hoạt động hơn 100 quốc gia,
trong quý IV/2008 Citigroup thông báo bị lỗ ròng tới 8,29 tỷ USD, và cả năm 2008 lỗ
tổng cộng là 18,72 tỷ USD. Do khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong năm 2008, các cổ
phiếu của ngân hàng này đã giảm gần 87% giá trị. Ngân hàng này đã phải bán đi một số
cơ sở cùng một số nguồn lực khác, cắt giảm thêm 52000 việc làm, tương đương 20% số
nhân viên của hãng. Quyết định này của Citigroup đã khiến cho thị trường chứng khoán
thế giới sụt giảm tới mức thấp nhất trong hàng thập kỷ qua. Chỉ số chứng khoán quan
trọng nhất tại Mỹ là Dow Jones lần đầu tiên trong nhiều năm rớt khỏi mức 8000 điểm,
trong khi đó chỉ số S&P 500 xuống thấp nhất trong 2 năm qua. Trong điều kiện kinh tế
khó khăn, Citigroup đã thực hiện giải pháp tái cấu trúc mà theo đó, ngân hàng này sẽ
được tách làm 2 bộ phận riêng biệt: Citi Holidings tập trung vào cho vay tiêu dùng, môi
giới, quản lý tài sản khách hàng, và quản lý các tài sản gặp sự cố, Citicorp chuyên trách
về dịch vụ ngân hàng phục vụ khách hàng lẻ và kinh doanh.
Không chỉ những ngân hàng có quy mô tài sản hàng tỷ USD mà hàng loạt các
ngân hàng có quy mô tài sản vài trăm triệu USD cũng lần lượt rơi vào tình trạng tồi tệ.
Theo công bố của FED, đã có 25 ngân hàng Mỹ bị giải thể trong năm 2008. Theo các
chuyên gia thì con số này sẽ tăng lên trong năm 2009 do khủng hoảng tài chính chưa chịu
buông tha hệ thống tài chính nước này và viễn cảnh kinh tế nói chung còn tiếp tục u ám.
1.2.2. Khủng hoảng ở các quốc gia khác
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu không chỉ riêng có ở riêng Mỹ mà nhanh
chóng lan rộng toàn cầu. Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các ngân hàng toàn cầu có mối
quan hệ tín dụng đan xen nhau nhằng nhịt, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế
lớn nhất là Mỹ đã nhanh chóng lây lan sang các nước khác như hiệu ứng đô-mi-nô.
1.2.2.1. Khủng hoảng ở Châu Âu
Ủy ban châu Âu cũng đã vừa thừa nhận nền kinh tế 15 nước sử dụng chung đồng
tiền Euro đã bước vào một đợt suy thoái.
Các ngân hàng ở Anh chịu ảnh hưởng lớn nhất của cuộc khủng hoảng tài chính
Mỹ. Mặc dù đã được hỗ trợ từ năm 2007 nhưng tính đến hết tháng 7/2008 thì Northem
Rock chịu khoản nợ xấu lên tới 191,6 tỷ USD. Do tình trạng tổn thất tín dụng ngày càng
gia tăng, trong tháng 7 và đầu tháng 8/2008, Bộ Tài chính Anh đã phải bơm thêm 3 tỷ
bảng (tương đương 5,86 tỷ USD) để cứu ngân hàng này.
Ngày 29/9/2008, nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng chịu thua lỗ lớn, không
có khả năng trụ vững do liên quan đến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, Bộ Tài chính
Anh đã tuyên bố quốc hữu hóa tập đoàn cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất nước
là Bradford & Bingley Plc. Tổng giá trị các khoản thế chấp và vay trên sổ sách là 50 tỷ
bảng.
Lối tiếp ngân hàng của Anh là một số ngân hàng lớn khác tại châu Âu như Fortis
của Bỉ và Lúcxămbua, Dexia của Bỉ và Pháp. Đầu tháng 10/2008, ngân hàng Hypo Real
Estate của Đức cũng lâm vào khủng hoảng và Chính phủ phải cứu trợ bằng biện pháp tài
chính cần thiết. Mới đây, ngày 8/1/2009, chính phủ Đức đã tuyên bố quốc hữu hóa ngân
hàng thương mại lớn thứ hai của Đức là Commerzbank, để cứu cơ sở này khỏi bị phá sản.
Dấu hiệu đầu tiên và rõ ràng nhất cho thấy nền kinh tế nước này đã bước vào giai đoạn
suy thoái là GDP liên tục giảm: trong quý II/2008 đã giảm 0,4%, quý III/2008 giảm
0,5%. Sự sụt giảm tăng trưởng mạnh hơn dự báo của kinh tế Đức là từ thương mại quốc
tế, với sự tăng mạnh của nhập khẩu trong khi xuất khẩu giảm.
Tại Nga, hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính, chứng khoán cũng bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Trong tháng 9/2008, đợt suy giảm thị trường chứng khoán diễn ra
đã làm mất 800 tỷ USD giá trị cổ phiếu trên thị trường. Tính đến ngày 7/10/2008, thị
trường chứng khoán Nga đã 2 lần tạm thời đóng cửa và chỉ số chứng khoán giảm mạnh.
Chỉ trong khoảng 3 tuần cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2008, ngân hàng Trung ương Nga
đã phải tung ra thị trường 170 tỷ USD để cứu các ngân hàng và các công ty tài chính. Để
hỗ trợ cho các ngân hàng, ngày 8/10/2008, Tổng thống Nga công bố kế hoạch cho vay
với thời hạn 5 năm với tổng giá trị là 950 tỷ rúp, tương đương 36,4 tỷ USD.
1.2.2.2. Sự lan tỏa của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế Châu Á
Ngày 8/10/2008, thị trường chứng khoán châu Á trải qua một ngày tồi tệ; hàng
loạt thị trường chứng khoán châu Á trong tình trạng sụt giảm nghiêm trọng. Chỉ số
Nikkei 255 của Nhật Bản giảm xuống còn 9253,32 điểm. Kể từ năm 1987, đây là mức
giảm lớn nhất: 9,4%. Hàng loạt các chỉ số chứng khoán trên các thị trường các nước khác
cũng ở tình trạng tương tự: chỉ số Hangseng của Hồng Kông giảm 5,2%, chỉ số Sensex
của Ấn Độ giảm 4,3%, chỉ số Kospi của Hàn Quốc giảm 5,8% Sự sụt giảm này trên thị
trường chứng khoán châu Á còn kéo dài đến tháng 11. Cụ thể là ngày 2/11, chỉ số Nikkei
225 giảm 352,09 điểm, tương đương 2,09%, xuống còn 16517,34 điểm, chỉ số Hang
Sheng giảm tới 3,3% và đóng cửa ở mức 30468,34 điểm, chỉ số CSI của thị trường
Thượng Hải giảm 2,3% xuống còn 136,47 điểm, các chỉ số trên thị trường Xingapo, Hàn
Quốc, Malaixia cũng sụt giảm.
Ngay từ cuối năm 2008, kinh tế Nhật Bản cũng bước vào suy thoái và được dự
báo sẽ có mức tăng trưởng âm trong năm 2009. Sản lượng công nghiệp sụt giảm tới
8,1%, lợi nhuận của các công ty giảm mạnh và tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 3,9%. Theo
báo cáo của Chính phủ Nhật, xuất khẩu tháng 11/2008 so với cùng kỳ năm 2007 cũng
giảm 26,7% trong đó xuất khẩu xe hơi giảm 32%. Ngoài ra, sự lên giá mạnh của đổng
Yên so với USD cũng gây áp lực không nhỏ cho các nhà xuất khẩu của Nhật. Nguyên
nhân là do giới đầu tư Nhật Bản ồ ạt rút vốn về nước vì lo ngại khủng hoảng tài chính ở
các thị trường bên ngoài đã đẩy đồng Yên tăng 25% so với USD.
Tại Hàn Quốc, theo thông tin tài chính quốc tế Hàn Quốc (KCIF), từ tháng 6 đến
tháng 9/2008, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút gần 15 tỷ USD khỏi thị trường chứng
khoán Hàn Quốc. Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại các thị trường chứng khoán lớn
trong khu vực như: Đài Loan, Philippin, Thái Lan, Ấn Độ, Inđônêxia…
1.3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân,
có nguyên nhân trực tiếp, sâu xa… nhưng tóm lại là bắt nguồn từ 4 nguyên nhân cơ bản
sau:
Thứ nhất: Sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng nhà đất, các khoản cho vay dưới
chuẩn
Ở Mỹ, hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn
vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình
lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì
người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao làm cho bong bóng nhà đất hình
thành. Khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá
nhà xuống thấp.
Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation)
để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản
(MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay
mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng
bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản
càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của
trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm
mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp
hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả
là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
Thứ hai: Hệ thống tín dụng đổ vỡ
Sự co lại của thị trường tín dụng, sự đổ vỡ của các thị trường các công cụ phái
sinh như CDS có mức độ ảnh hưởng còn lớn hơn sự đổ vỡ của bong bóng nhà đất rất
nhiều.
Trong cho vay nhà đất lẫn trong thị trường nợ, việc dùng đòn bẩy tài chính là hết
sức quan trọng. Một doanh nghiệp có thể đi vay 3 nếu có vốn riêng là 1, như vậy được
gọi là sử dụng đòn bẩy bằng 3 lần. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thực
nếu có đòn bẩy tài chính không lớn hơn 3 thì được coi là bình thường. Với hình thức này,
trong trường hợp rủi ro người đi vay sẽ chịu rủi ro đầu tiên và khi đòn bẩy càng cao thì
tức là rủi ro càng lớn. Khi cho vay, các ngân hàng thường chú ý đến hệ số đòn bẩy nảy
bởi vì nếu hệ số đòn bẩy quá cao, thì khi có lãi người vay được lợi, khi thua lỗ thì ngân
hàng phải gánh chịu. Trên thị trường tài chính, các ngân hàng sử dụng đòn bẩy cao hơn,
có khi lên đến cả trăm lần do các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính không có quy
định nghiêm ngặt về vấn đề này.
Thứ ba: Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Các ngân hàng thương mại chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước,
còn các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính chịu sự giám sát ít hơn. Các cơ quan
quản lý lỏng lẻo, không theo kịp hoạt động của tất cả các tổ chức tài chính ngân hàng dẫn
đến những rủi ro khôn lường. Có tiền, các công ty “thoải mái” cho khách hàng vay bằng
tiền của các ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua việc mua lại danh mục cho vay của các
công ty này. Các ngân hàng này, trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại, sẽ phát hành
chứng khoán để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra thành các mục như rủi ro ít, rủi
ro cao… tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình.
Có loại chứng khoán không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng
lớn.
Như vậy, rủi ro trong việc cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài
chính sang ngân hàng đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đổ tiền mua các chứng khoán này,
nhờ vậy, chính họ đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở Mỹ
tăng nóng.
Thứ tư: Khủng hoảng niềm tin
Theo Giáo sư Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ sự sụp đổ thảm khốc
của niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài sản.
Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị
tài sản thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà khi người ta bắt đầu cảm nhận “mùi
vị” của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ sẽ xuất hiện, cả thị
trường xuống dốc và tất cả “người chơi” đều thua lỗ.
Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị
xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy
xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục.
1.4. Những tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến các vấn đề kinh
tế - xã hội
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng hoảng sâu rộng và để lại hậu
quả to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Cho đến nay, những tác động của nó đối với nền
kinh tế toàn cầu vẫn chưa lường hết được vì khủng hoảng vẫn đang còn tiếp diễn. Ba
hiểm họa lớn đang chờ các nước trong năm 2009 là: suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia
tăng và nguy cơ giảm phát. Biểu hiện cụ thể như sau:
1.4.1. Tác động đến tăng trưởng kinh tế
Kinh tế thế giới năm 2009 sẽ tiếp tục chìm sâu vào suy thoái và được dự báo chỉ
có thể thoát ra vào nửa cuối năm 2009 hoặc đầu năm 2010. Kết quả dự báo của IMF về
tăng trưởng kinh tế thế giới 2009 – 2010 cho rằng, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2009
được dự báo là 0,5% - mức thấp nhất kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ II. Sự tăng trưởng
của các nước phát triển dù chỉ là nhỏ nhưng với quy mô nền kinh tế lớn thì đó cũng là
đáng kể. Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì mức tăng trưởng
của các nước này được dự báo là âm trong năm 2009; Mỹ sẽ có mức tăng trưởng -1,6%,
Anh là -2,8% trong năm 2009 Còn mức tăng trưởng của các nền kinh tế đang nổi như
Trung Quốc hay Ấn Độ cũng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề với mức tăng trưởng được dự
báo lần lượt là 6,7% và 5,1%. Các nước đang phát triển khác, dưới tác động của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng giảm rõ rệt.
Năm 2008 kinh tế Thái Lan chỉ tăng trưởng 2,6. Trong năm 2009, dự kiến, nền
kinh tế hướng tới xuất khẩu của nước này sẽ suy giảm từ 0-1%
Malaysia: Nhu cầu trong nước trên thị trường khá mạnh trong 6 tháng đầu năm
2008, nhưng sự suy giảm mạnh mẽ về các điều kiện kinh tế toàn cầu và giá hàng hóa
giảm đã khiến cho nhu cầu trong nước sụt giảm mạnh trong 6 tháng cuối năm 2008, dẫn
đến tăng trưởng kinh tế Malaysia trong 6 tháng cuối năm 2008 chỉ đạt 2,4%, so với 7,1%
trong 6 tháng đầu năm 2008.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu rất yếu kém, nhu cầu yếu trên thị trường thế giới
dự báo sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế Malaysia trong năm 2009 đi khoảng 4 %.
Theo Bank Negara, ngân hàng trung ương Malaysia, kinh tế Malaysia tăng trưởng
khoảng 4,6% năm 2008. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu môi trường kinh
tế thế giới đang xấu đi nhanh chóng dự báo tăng trưởng GDP thực tế của nước này năm
2009 sẽ từ âm 1% đến 1% do bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu.
Kinh tế Inđônêxia: Theo lời Phó Thống đốc Ngân hàng trung ương Inđônêxia (BI)
Miranda S. Goeltom cho biết “kinh tế nước này đang ngày càng trở nên xấu đi”, với tốc
độ tăng trưởng kinh tế năm nay dự kiến chỉ ở mức từ 3-4%, thấp hơn so với dự báo tăng
4-5% trước đây.
Các số liệu của BI cũng cho thấy tỷ lệ nợ không sinh lời trong hệ thống ngân hàng
Inđônêxia sẽ tiếp tục gia tăng, trong khi thu nhập của ngân hàng bị giảm sút đáng kể. Các
khoản nợ thuộc diện “cần giám sát đặc biệt” đến nay đã tăng lên tới 84.720 tỷ Rupiah.
Bên cạnh việc triển khai gói kích thích kinh tế nhằm ứng phó với khủng hoảng
kinh tế, Chính phủ Inđônêxia hiện đang tiếp tục tìm kiếm sự giúp đỡ tài chính và kinh tế
của Nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới tại Hội nghị thượng đỉnh G20 sắp diễn ra tại
thủ đô Luân Đôn. Trước đó, Bộ trưởng Tài chính Inđônêxia Sri Mulyani Indrawati đã có
mặt tại Luân Đôn để tham dự Hội nghị trù bị cho Hội nghị G20, nhằm thảo luận các biện
pháp khôi phục kinh tế và duy trì luồng vốn dành cho các nước đang phát triển và kích
thích nhu cầu trên thị trường quốc tế.
1.4.2. Tác động đến thương mại quốc tế
Dự báo của các tổ chức quốc tế có uy tín đều có chung nhận định là kinh tế thế
giới tiếp tục ảm đạm mà ảnh hưởng trực tiếp rõ nét nhất là tăng trưởng thương mại thế
giới tiếp tục giảm (Bảng 1.4.2).
Bảng 1.4.2. Dự báo tăng trưởng thương mại thế giới năm 2009 – 2010
Đơn vị: %
2006 2007 2008 2009
(DB)
2010
(DB)
Tăng trưởng xuất khẩu
Các nước phát triển 8,4 5,9 3,1 -3,7 2,1
Các nền kinh tế mới nổi 11,2 9,6 5,6 -0,8 5,4
Tăng trưởng nhập khẩu
Các nước phát triển 7,5 4,5 1,5 -3,1 2,1
Các nền kinh tế mới nổi 14,9 14,5 10,4 -2,2 5,8
Nguồn : IMF, Word Economic Outlook, ngày 28/1/2009
Theo dự báo của IMF, năm 2009, tăng trưởng xuất khẩu ở các nước là âm, các
nước phát triển giảm xuống ở mức -3,7%, và ở các nền kinh tế mới nổi cũng chỉ đạt -
0,8%. Tình hình nhập khẩu cũng tương tự, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu năm 2009 ở các
nước phát triển ở mức -3,1%, còn các nền kinh tế mới nổi đạt mức tăng trưởng nhập khẩu
-2,2%. Tốc độ tăng trưởng thương mại năm 2009 được dự báo âm là do còn chịu tác động
mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế, cả nhập khẩu và xuất khẩu đều có xu hưởng giảm
dẫn đến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm.
Chủ tịch Uỷ ban Thương nghiệp Nội địa thuộc Phòng Công nghiệp và Thương
mại Inđônêxia (KADIN) ngày 29/3/2009 công bố, trước tác động ngày càng nghiêm
trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu tới nền kinh tế Inđônêxia, đầu tư
tiếp tục bị đình trệ do thiếu lượng tiền mặt, xuất khẩu trong quý I/09 đã giảm 30% so với
cùng kỳ năm 2008.
Xuất khẩu hàng hoá từ các nước châu Á đến Trung Quốc tháng 12/2008 thấp hơn
27% so với một năm trước.
Khi xem xét kỹ về số liệu xuất khẩu và nhập khẩu của các nước cho thấy như tiêu
dùng nội địa suy yếu là nguyên nhân chính dẫn đến kinh tế các nước này đi xuống.
Tại Trung Quốc, tiêu dùng nội địa đi xuống là yếu tố chính kéo lùi tăng trưởng
kinh tế Trung Quốc năm 2009.
Xét chung thì nhập khẩu giảm nhưng xuất khẩu giảm mạnh hơn, dẫn đến cán cân
thương mại thế giới sẽ chịu thâm hụt lớn trong năm 2009 này. Báo cáo của WB cho rằng
thương mại thế giới năm nay sẽ sụt giảm kỷ lục trong vòng 8 thập kỷ qua, lớn nhất là tại
khu vực Đông Á. Trong năm 2009, các quốc gia đang phát triển - trong đó có nhiều nước
nghèo được dự báo sẽ đối mặt với khả năng thâm hụt tài chính 270 - 700 tỷ USD.
Tình trạng này được dự báo có được cải thiện đôi chút vào năm 2010, khi mà nền
kinh tế không còn chịu ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính.
1.4.3. Tác động đến các vấn đề xã hội
Khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng mà biểu
hiện rõ rệt nhất của nó là tỷ lệ thất nghiệp ở các khu vực trên thế giới liên tục tăng nhanh
một cách đáng báo động. Thế giới có nguy cơ phải đối mặt với “khủng hoảng xã hội” do
chính nạn thất nghiệp gây ra. Trong một báo cáo chính sách cho Hội nghị Bộ trưởng Tài
chính G7 vào ngày 14/2/2009, Ngân hàng Thế giới cho rằng khoảng 40/107 nước đang
phát triển có nguy cơ bị ảnh hưởng cao và các nước còn lại có khả năng bị ảnh hưởng
trung bình. Chỉ có 10% các nước bị ảnh hưởng nhẹ.
Theo số liệu của Văn phòng thống kê quốc gia Thái Lan cho biết, đã có 540.000
người thất nghiệp vào cuối năm 2008 chiếm tỷ lệ 1,4%. Tuy nhiên, trong năm 2009, dự
kiến, tỷ lệ thất nghiệp sẽ là 2,8%. Số người thất nghiệp ước tăng gần gấp đôi lên ít nhất
trên 1 triệu người trong năm 2009.
Tại Malayxia, tình trạng tương tự cũng xảy ra. Các điều kiện thị trường lao động
dự báo sẽ tiếp tục yếu đi, với tỷ lệ thất nghiệp dự báo tăng 4,5% trong năm 2009. Trong
khi đó, lạm phát dự báo trung bình khoảng 1,5-2% trong năm 2009, phản ảnh sự đảo
chiều mạnh mẽ của giá hàng hóa toàn cầu sau khi đã tăng lên mức cao đỉnh điểm trong
năm 2008.
Giống như hai phần ba thế giới, Philíppin hiện chưa rơi vào tình trạng suy thoái
nhưng cũng đã chịu những ảnh hưởng không nhỏ. Có khoảng 41 nghìn lao động mất việc
làm vì khủng hoảng.Trong tháng 1/09, tỷ lệ thất nghiệp ở Philíppin đứng ở mức 7,7%
(2,855 triệu người), tăng 188.000 người (0,33 điểm phần trăm) so với cùng kỳ năm ngoái.
Trước đó, theo báo của của chính phủ Philíppin, có khoảng 9 triệu người dân nước này
(1/10 dân số) trong tình trạng thiếu việc làm hoặc đang tìm việc. Con số này có thể còn
tăng thêm vào cuối năm học, khi các sinh viên sắp ra trường và tìm kiếm việc làm.
Tổng thống Philíppin, Gloria Arroyo ngày 24/3 cho biết, có ít nhất 41.000 người
dân nước này đã mất việc làm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu, cao
hơn 6.000 người so với báo cáo của Bộ Lao động Philíppin công bố hồi đầu tháng 3/09
Tỷ lệ thất nghiệp sẽ liên tục tăng và tăng mạnh năm 2009. Dự báo của một số tổ
chức chuyên môn cũng chứng minh điều này. Theo dự báo của OECD, thất nghiệp của
các nước trong tổ chức này sẽ tăng từ 34 triệu người lên 42 triệu người. Còn theo dự báo
của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho hay, đến cuối năm 2009 sẽ có khoảng 50 triệu
người không có việc làm.
Khủng hoảng kinh tế gây ra thất nghiệp. Thất nghiệp sẽ dẫn đến đói nghèo và
những tệ nạn xã hội khác. An ninh của nhiều nước nghèo đứng trước nguy cơ bất ổn do
khủng hoảng kinh tế gây ra. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dự báo là có nguy
cơ trở lại tỷ lệ bần cùng hồi năm 2004.
Ngày 12/02/2009, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo “Cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Đánh giá rủi ro từ con mắt nghèo đói”, cho thấy khủng
hoảng kinh tế toàn cầu đang đe dọa đến việc thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo
toàn cầu.
Theo WB, số liệu cho năm 2009 cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm sẽ làm khoảng
46 triệu người không thoát được nghèo (ở mức 1,25 USD/ngày) và khoảng 53 triệu người
khác sẽ vẫn nằm dưới mức 2 USD/ngày. Đó là chưa kể đến khoảng 130 - 155 triệu người
vừa tái nghèo do cuộc khủng hoảng lương thực và năng lượng vừa qua.
Báo cáo này cho thấy nguy cơ không hoàn thành các mục tiêu thiên niên kỷ của
Liên Hợp Quốc, trong đó có mục tiêu giảm nghèo cụ thể cho năm 2015. Báo cáo mới còn
cho thấy tăng trưởng chậm cũng làm tăng tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, với khoảng từ 1,4 - 2,8
triệu trẻ sơ sinh có thể tử vong trong khoảng từ nay đến năm 2015, nếu khủng hoảng này
còn tiếp diễn.