Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

TIỂU LUẬN: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.45 KB, 94 trang )








TIỂU LUẬN:

Một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm ở Công
ty Rượu Hà Nội






Lời nói đầu
=======================

Đảng và Nhà nước nước ta nhấn mạnh "nhiệm vụ ổn định và phát triển nền kinh
tế của nước ta tiến hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc vào việc nâng cao hiệu quả
của nền kinh tế quốc dân nói chung và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói
riêng.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì việc đầu
tiên và quan trọng nhất là phải tìm biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp của mình. Một trong những công cụ để nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh "Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở
Công ty Rượu Hà Nội". Để quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh và thu được lợi


nhuận tối đa các doanh nghiệp cần phải nắm bắt được tình hình kinh doanh của mình
tại mọi thời điểm của chu kỳ sản xuất để thấy được mặt tích cực để phát huy, thấy
được mặt tiêu cực để có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hoàn thiện các chỉ tiêu
định mức tiên tiến và có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho chu kỳ sau.
Tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm
ở Công ty Rượu Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp, nhằm phân tích thực trạng chất
lượng sản phẩm và quản lý chất lượng, đồng thời đưa ra những quan điểm, phương
hướng và biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn bao gồm ba phần chính:
Phần I: Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản và lâu dài góp phần
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần II: Tình hình chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Công
ty Rượu Hà Nội.
Phần III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công
ty Rượu Hà Nội.


Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo Đinh Đăng Quang người đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này. Tôi chân thành cảm ơn toàn thể cán
bộ công nhân viên Công Ty Rượu Hà Nội nói chung và các cô chú trong phòng tổng
hợp nói riêng đã nhiệt tình giúp đỡ hoàn thành tốt chuên đề thực tập tốt ngiệp.
Vì thời gian và trình độ còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô bạn bè cũng như các cô chú
trong Công ty Rượu Hà Nội để tôi có thể đi sâu nghiên cứu đề tài hơn nữa.


CHƯƠNG I

Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp
cơ bản và lâu dài góp phần nâng cao hiệu quả

kinh doanh của doanh nghiệp
======================

1.1. Những vấn đề chung về chất lượng sản phẩm
Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, cạnh tranh trên
thị trường ngày càng trở nên quyết liệt, chất lượng sản phẩm và dịch vụ là một trong
những yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp. Trong những năm gần
đây, quản lý chất lựơng đã được coi là vũ khí cơ bản giúp các doanh nghiệp đáp ứng
thích hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao hiệu quả của quản lý. Vì vậy vấn đề
chất lượng ngày nay đang là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu mang tầm chiến lược
quan trọng trong chính sách, kế hoạch của doanh nghiệp và chương trình phát triển
kinh tế của nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới.
1.1.1 Khái niệm chất lượng sản phẩm (CLSP)
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù rất phức tạp phản ánh một cách tổng hợp
các nội dung kinh tế, xã hội và kỹ thuật liên quan đến rất nhiều đối tượng khác nhau
trong quá trình sản xuất kimh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Về mặt bản chất, chất lượng
sản phẩm đựơc coi là giá trị sử dụng của hàng hoá. Nhưng đứng trên các góc độ nghiên
cứu khác nhau, mức độ xem xét trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội khác
nhau và nhằm các mục tiêu khác nhau người ta đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về
chất lượng sản phẩm.
Theo quan điểm của C.MAX thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo
biểu hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm phải làm nên tính
hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất sản phẩm.
Theo nghĩa của từ điển tiếng Việt về chất lượng: chất lượng là mặt đối lập của
của số lượng. Định nghĩa này chỉ mới nói nên một phần của một sự vật, hiện tuợng nào
cũng có hai mặt chất lượng và số lượng.


Theo quan điểm của hệ thống các nước XHCN trước thì chất lượng sản phẩm là
tổng hợp các đặc tính kinh tế kĩ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của

sản phẩm đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó trong nhưng điều kiện xác định về
kinh tế kĩ thuật.
Về mặt kinh tế, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của chất lượng sản
phẩm song mặt cơ bản và quan trọng là mức độ sản phẩm thoả mãn nhiều hay ít nhu
cầu của khách hàng. Với quan điểm trên, chất lượng sản phẩm được xem xét một cách
biệt lập, tách rời với thị trường và làm cho chất lượng sản phẩm không được sự gắn
liền với nhu cầu, sự vận động và biến đổi nhu cầu thị trường, với hiệu quả kinh tế và
điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm được nhìn nhận ở dạng
tĩnh làm cho nó không được cải tiến kịp thời theo nhu cầu, khả năng tiêu thụ kém.
Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu xã hội ngày một tăng, yêu cầu đối với
chất lượng sản phẩm cũng được tăng theo thì quan điểm về chất lượng sản phẩm cung
thay đổi phù hợp với thực tiễn. Chất lượng sản phẩm được nhìn nhận một cách linh
hoạt hơn, gắn bó chặt chẽ hơn với nhu cầu người tiêu dùng và chiến lược cạnh tranh
của doanh ngiệp. Chất lượng sản phẩm được quyết định trên cơ sở nhận thức của
khách hàng như "Chất lượng sản phẩm là mức độ sản phẩm ấy đáp ứng được yêu cầu
của người tiêu dùng", " Chất lượng sản phẩm là cái khách hàng phải trả đúng với cái
mà nhận được", hoặc " Chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu mà các đặc trưng của nó
thể hiện sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện xác định phù hợp với công dụng
mà người tiêu dùng mong muốn”.
Theo các định nghĩa này, chất lượng sản phẩm được nhìn từ bên ngoài theo sự
đánh giá của khách hàng mà bỏ qua những đặc tính nội tại vốn có của sản phẩm.
Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên,
tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO (International Organozation for Standardization)
đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm như sau:" Chất lượng sản phẩm là tập hợp
những tính chất và đặc trưng về thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những
nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn".
Có thể nói đây là một quan niệm rất hiện đại về chất lượng sản phẩm. Nó phản
ánh sự kết hợp giữa những đặc tính nội tại của sản phẩm với nhu cầu bên ngoài thị
trường. Chất lượng sản phẩm không bao gồm tất cả các thuộc tính của một sản phẩm



mà chỉ bao gồm những thuộc tính làm cho sản phẩm có khả năng thoả mãn những nhu
cầu định trước hoặc còn tiềm ẩn. Tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong chất
lượng sản phẩm không phải là một phép cộng đơn thuần mà trong đó các thuộc tính tác
động tương hỗ lẫn nhau. Sự thay đổi trong thành phần, cấu tạo mối quan hệ trong tập
hợp các thuộc tính sẽ tạo ra các chất lượng khác nhau.
Dựa vào khái niệm của ISO, cục đo đường chất lượng nhà nước Việt Nam đưa
ra khái niệm: Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các
tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện
kinh tế xã hội nhất định, đảm bảo yêu cầu của người sử dụng nhưng cung đảm bảo các
tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước.
1.1.2 Phân loại chất lượng sản phẩm và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản
phẩm
1.1.2.1 Phân loại chất lượng sản phẩm:
a. Phân loại theo mục đích, công dụng của sản phẩm:
Theo cách phân loại này, chất lượng sản phẩm được chia thành 4 loại:
+ Chất lượng thị trường: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn nhu cầu thị trường
mong đợi của người tiêu dùng.
+ Chất lượng thành phần: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn nhu cầu của một
hoặc một số người nhất định.
+ Chất lượng phù hợp: Là chất lượng đảm bảo theo đúng thiết kế hay tiêu chuẩn
hoá quy định.
+ Chất lưọng thị hiếu: Là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường tâm lý của
người tiêu dùng.
b. Phân loại theo hệ thống chất lượng ISO 9000:
Theo phân loại này chất lượng sản phẩm được chia thành 5 loại:
+Chất lượng thiết kế: Là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của sản phẩm được phác
thảo qua văn bản trên cơ sở ngiên cứu nhu cầu thực tế, các điểm của sản xuất- tiêu
dùng, đồng thời so sánh với chỉ tiêu chất lượng các mặt hàng tương tự cuả nhiều hãng,
nhiều công ty trong và ngoài nước.



+ Chất lượng tiêu chuẩn: Là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng được cấp có thẩm
quền phê chuẩn. Dựa trên cơ sở nghiên cứu chất lượng thiết kế, các cơ quan nhà nước,
doanh ngiệp điều chỉnh, xét duyệt những chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm hàng hoá,
chất lượng tiêu chuẩn có nhiều loại:
- Tiêu chuẩn quốc tế, khu vực
- Tiêu chuẩn quốc gia
- Tiêu chuẩn ngành
- Tiêu chuẩn doanh nghiệp
+ Chất lượng thực tế: Là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thực tế đạt
được do các yếu tố chi phối, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, phương pháp quản lý

+ Chất lượng cho phép: Là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất lượng
về sản phẩm giữa chất lượng thực và chất lượng chuẩn. Chất lượng cho phép của sản
phẩm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế kĩ thuật, trình độ làm nghề của công nhân,
phương pháp quản lý của doanh nghiệp.
+ Chất lượng tối ưu: Là chất lượng mà tại đó lợi nhuận đạt được do nâng cao
chất lượng sản phẩm cao hơn sự tăng lên do chi phí cần thiết để đạt mức chất lượng
đó. Sản phẩm hàng hoá đạt chất lượng tối ưu là các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thoả
mãn nhu cầu người tiêu dùng, có khả năng cạnh tranh với nhiều hãng trên thị trường,
sức tiêu thụ nhanh và đạt hiêu quả cao. Phấn đấu đưa chất lượng sản phẩm đạt mức
chất lượng tối ưu là một trong những mục đích quan trọng của quản lý doanh nghiệp
nói riêng, và quản lý kinh tế nói chung.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được đánh giá qua một một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể.
Các chỉ tiêu chất lượng này là các thông số kỹ thuật, các đặc tính riêng có phản ánh
tính hữu ích của sản phẩm.
a. Nhóm chỉ tiêu có thể so sánh được:
Là chỉ tiêu có thể tính toán được dựa trên cơ sở các số liệu điều tra, thu nhập từ

hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Nhóm chỉ tiêu chất lượng này bao gồm:


+ Chỉ tiêu tỷ lệ sản phẩm sai hỏng: Chỉ tiêu này dùng để đánh giá tình hình chất
lượng sản phẩm trong sản suất kinh doanh
- Dùng thước đo hiện vật để tính:

Số lượng sản phẩm hỏng
Tỷ lệ sai hỏng = x 100 %
Tổng số lượng sản phẩm

- Dùng thước đo giá trị để tính:

Chí phí về sản phẩm hỏng
% Giá trị sp sai hỏng = x 100 %
Tổng chi phí toàn bộ sản phẩm hàng hoá

Độ lệch chuẩn =
1n
)XXi(
n
1i
2






Trong đó: X: là chất lượng sản phẩm tiêu chuẩn (lấy làm mẫu để so sánh)

X
i
: Là chất lượng sản phẩm đem ra để so sánh
n: Số lượng sản phẩm đem so sánh

Số sản phẩm đạt chất lượng
Tỷ lệ đạt chất lượng = x 100%
Tổng số sản phẩm được kiểm tra
+ Chỉ tiêu hệ số phẩm cấp bình quân: Chỉ tiêu này dùng để phân tích thứ hạng
của chất lượng sản phẩm.
Công thức xác định: H =


)QixPi(
)QixPi(




b. Nhóm chỉ tiêu không thể so sánh được:
Là chỉ tiêu chất lượng không thể định lượng được: Nhóm chỉ tiêu này áp dụng
cho từng loại sản phẩm thích hợp bao gồm các chỉ tiêu sau:
+Chỉ tiêu công dụng: Đặc trưng cho tính chất sản phẩm luôn giữ được khă năng
làm việc trong khoảng thời gian nhất định.
+Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất sản phẩm liên tục gữ được khẳ
năng làm việc trong thời gian nhất định.
+ Chi tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ người và sản phẩm bao gồm các
chỉ tiêu: vệ sinh, sinh lý của con người liên quan tới quy trình sản xuất và sinh hoạt.
+ Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm hấp dẫn của hình thức sự hài
hoà của kết cấu sản phẩm.

+ Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trùnh chế tạo, bảo đảm tiết kiệm lớn
nhất các chi phí.
+ Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho tính chất hợp lý của sản phẩm.
+ Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Đặc trưng cho tình thích ứng của sản phẩmđối với
việc vận chuyển.
+ Chỉ tiêu đối với việc phát minh sáng chế: Đặc trựng cho khả nhăng giữ bản
quyền.
+ Chỉ tiêu về tuổi thọ:Đặc trưng về thời gian sử dụng của sản phẩm
+ Chỉ tiêu về chi phí, gía cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên
sản phẩm.
Hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng sản phẩm không tồn tại độc lập,
tách rời mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Đối với mỗi sản
phẩm khác nhau, các chỉ tiêu chất lượng có vai trò và ý nghĩa khác nhau nhưng nghìn
chung một sản phẩm được coi là có chất lượng caokhi nó thoã mãn một hệ thống các
chỉ tiêu ràng buộc.Do đó tuỳ theo từng loại sản phẩm các doanh nghiệp phải lựa chọn
cho mình những chỉ tiêu phù hợp vừa đảm bảo công tác quản lý chất lượng sản phẩm
có hiệu quả, vừa đảm bảo sản phẩm có sắc thái riêng biệt với sản phẩm đồng loại khác
trên thị trường.


1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm là vấn đề tổng hợp, là kết quả một quá trình từ sản xuất
đến tiêu dùng và cả sau khi tiêu dùng nữa. Do đó có thể nói nó chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố, điều kiện liên quan trong suốt chu kỳ sống của nó. Tuy nhiên mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố đó đến chất lượng sản phẩm lại khác nhau. Theo quan điểm quản
lý và thực tiễn sản xuất kinh doanh, có thể thấy chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào
các nhóm yếu tố sau:
1.1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
a. Nhu cầu thị trường
Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình sản xuất, tạo lực kéo định hướng cho

việc cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu tính chất, đặc điểm và những
xu hướng vận động của nhu cầu thị trường tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Việc sản xuất cái gì ? Khối lượng bao nhiêu? Bán cho ai ? ở đâu? đều xuất phát từ nhu
cầu thực tế của thị trường để từ đó doanh nghiệp hoạch định cho mình chiến lược,
chính sách sản phẩm và kế hoạch sản xuất cho phù hợp. Do đó doanh nghiệp cần tiến
hành nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích
môi trường kinh tế xã hội, nhanh chóng, xác định chính xác nhận thức của khách hàng
cũng như thói quen truyền thống, phong tục, tập quán, văn hoá, lối sống, mục đích sử
dụng sản phẩm và khả năng thanh toán của họ. Hơn nữa, khi đời sống xã hội tăng nên,
nhu cầu thị trường không ngừng biến đổi, người ta không chỉ quan tâm đến số lượng,
chất lượng mà cả giá trị thẩm mỹ của sản phẩm. Bởi vậy các doanh nghiệp phải quan
tâm và đầu tư vào lĩnh vực này.
b. Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ
Trong thời đaị ngày nay, không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn với
sự tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ nhất, chủng loại chất lượng sản phẩm không ngừng thay đổi với một thái
độ hết sức nhanh.Tiến bộ khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy tạo khẳ năng to
lớn đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên.Nhờ những tiến bộ khoa học công


nghệ mà có thể tạo ra và thay thế các nguyên liệu mới tốt hơn, rẻ hơn, hình thành
phương án quản lý tiên tiến góp phần giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm.
c. Cơ chế, chính sách quản lý
Các doanh nghiệp không thể tồn tại mà cách biệt lập mà luôn có mối quan hệ
chặt chẽ và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình chính trị xã hội và cơ chế chính
sách quản lý của mỗi nước. Thông qua cơ chế và chính sách vĩ mô hiện nay như hình
thành toàn diện đồng bộ các thị trường của yếu tố đầu vào, bao gồm thị trường vốn, thị
trường tiêu thụ sản xuất, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị trường sản
phẩm dịch vụ, tạo môi trường ổn định về chính trị, xã hội tâm lý, tạo điều kiện về cơ
sở hạ tầng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao tính tự chủ, sáng tạo trong

việc cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Đồng thời thông
qua các công cụ thuế, luật pháp để điều tiết sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh
doanh.Về quản lý kinh tế, chức năng kiểm tra, kiểm soát là một trong những chức năng
quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua kiểm tra, kiểm soát có thể phát hiện
những sai lệch để kịp thời hoàn thiện và định hướng cho các doanh nghiệp trong việc
nâng cao chất lượng sản phẩm.
d. Nhân tố kinh tế- văn hoá- xã hội:
Chất lượng sản phẩm là sự đáp ứng, thảo mãn những nhu cầu xác định trong
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, do đó quan niệm về tính hữu ích mà sản phẩm mang
lại cho mỗi một người, mỗi một dân tộc cũng khác nhau. Trình độ văn hoá khác nhau,
những đòi hỏi về chất lượng cũng không giống nhau chính vì vậy mà các doanh
nghiệp nước ngoài khi xâm nhập thị trường, việc mà họ quan tâm hàng đầu là tìm hiểu
văn hoá, con người, mức sống, truyền thống dân tộc nơi mà họ sẽ đến làm ăn.
e. Điều kiện tự nhiên:
- Khí hậu: Sự thay đổi về khí hậu có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm
cũng như nguyên vật liệu dự trữ ở các kho tàng bến bãi.
- Bức xạ mặt trời: Anh hưởng của tia hồng ngoại, tử ngoại trong bức xạ mặt trời
làm cho sản phẩm có thể bạc màu, thay đổi mùi vị.


- Mưa gió: Có thể làm cho sản phẩm bị ngập nước, tăng độ ẩm mốc, thời gian
sử dụng kém hiệu quả dẫn đến sản phẩm bị ứ đọng, không có khả năng tiêu thụ.
1.4. Nhóm nhân tố chủ quan:
a. Trình độ lao động trong doanh nghiệp:
Đây là nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng. Dù trình độ công nghệ có hiện đại tiên
tiến tới đâu, nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động tới chất
lượng các hoạt động, chất lượng sản phẩm và các dịch vụ. Trình độ chuyên môn, tay
nghề, kinh nghiệm, ý thức, trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả
năng thích ứng với thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp
đều có tác động tực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Quan tâm đến đầu tư phát triển

không ngừng nâng chất lượng nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý
chất lượng của các doanh nghiệp. Đó cũng là con đường chất lượng nhất nâng cao khả
năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi quốc gia.
d. Trình độ thiết bị- Công nghệ của mỗi doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có
tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi
doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu, tính đồng bộ, tình hình
bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, đặc biệt là
những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây truyền và tính chất sản xuất hàng loạt. Trình
độ của các doanh nghiệp không thể tách rời trình độ công nghệ trên thế giới. Muốn sản
phẩm có chất lượng đủ khă năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường thế
giới, mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp đồng thời khai thác huy
động tối đa công nghệ nhằm tạo sản phẩm có chất lượng.
c. Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của
doanh nghiệp.
Chất lượng nguyên vật liệu là một trong những yếu tố hình thành chất lượng sản
phẩm. Chất lượng sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng nguyên
vật liệu đưa vào sản xuất. Nếu chất lượng nguyên vật liệu kém, cung cấp không đúng
số lượng, chủng loại sẽ làm cho quá trình sản xuất bị gián đoạn, ảnh hưởng tới chất


lượng sản phẩm. Ngược lại, nếu nguyên vật liệu đúng đủ, kịp thời về số lượng, chủng
loại theo yêu cầu tiêu chuẩn đã định ra thì sẽ đảm bảo chất lượng tốt. Các doanh
nghiệp cần tạo cho mình những cơ sở cung cấp nguyên vật liệu ổn định, có chất lượng
tốt, đảm bảo đúng thời gian tín độ và đủ số lượng, chủng loại đồng thời trước khi mua
cần kiểm tra chặt chẽ về cả mặt lượng lẫn mặt chất của nguyên liệu, phải có chế độ bảo
quản thích hợp nhất là những nghành có nguyên liệu lớn, nhằm giảm ảnh hưởng có hại
tới môi trường.
d. Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
Các nhân tố tổ chức như: Tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, tổ chức kho hàng,

bảo quản nguyên vật liệu, tổ chức, kiểm tra kỹ thuật cũng là nhân tố ảnh hưởngtới
chất lượng sản phẩm. Trong đó trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất
lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đảy mạnh tốc độ cải tiến,
hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Các chuyên gia quản lý chất
lượng đồng tình cho rằng, trong thực tế có hơn 80% những vấn đề về chất lượng là do
quản lý gây ra. Vì vậy khi nói đến quản lý chất lượng ngày nay, người ta cho rằng
trước hết là chất lượng của quản lý. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào cơ
cấu, cơ chế quản lý, nhận thức, hiểu biết về chất lượng và trình độ của cán bộ quản lý,
khả năng xác định chính xác mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch chất lượng.
1.1.4.Sự cần thiết khách quan quan của việc nâng co chất lượng sản phẩm
trong doanh nghiệp
1.1.4.1 Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao chất lượng sản phẩm
Ngày nay trong đời sống xã hội và giao lưu kinh tế Quốc tế, chất lượng sản
phẩm hàng hóa dịch vụ có một vai trò quan trọng và đang trở thành một thách thức to
lớn đối với tất cả các nước- nhất là đối với các nước đang phát triển trên con đường
hội nhập vào nền kinh tế thị trường quốc tế
Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh
nghiệp và nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối với các doanh
nghiệp. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, trong các cơ chế đó các


doanh nghiệp chịu sự chi phối nghiệt ngã của quy luật cạnh tranh, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải nắm vững yêu cầu thị trường về cả thời gian, không gian, số lượng, chất
lượng và giá cả.
Thế mạnh của nền kinh tế thị trường là hàng hoá tràn ngập, là sự phong phú đa
dạng, cạnh tranh gay gắt lẫn nhau giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Người
tiêu dùng tự do lựa chọn những sản phẩm theo yêu cầu, sở thích khả năng mua của họ.
Họ thực sự là đối tượng mà các sản xuất kinh doanh sẵn sàng và tận tình phục vụ .
Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào

sự phát triển sản xuất - chất lượng mà còn tạo ra bởi sự tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết
bị và lao động trong quá trình sản xuất và sự tiết kiệm nhờ không có lãng phí do phế
phẩm. Chất lượng chính là điều kiện để đạt sự tiết kiệm đó, chính vì vậy nâng cao chất
lượng sản phẩm là con đường ngắn nhất đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hơn nữa trong thời đại hiện nay, khoa học- kỹ thuật và công nghệ không
ngừng phát triển tạo tiền đề cho quá trình nâng cao và liên tục cải tiến chất lượng sản
phẩm. Mặt khác, nền kinh tế đang có xu hướng giao lưu trên toàn cầu càng làm cho
hàng nội, hàng ngoại đan xen, cạnh tranh lẫn nhau mãnh liệt hơn. Cùng với tâm lý tiêu
dùng thường xuyên thay đổi và không ngừng tăng lên tương ứng với sự phát triển của
nền kinh tế, của trình độ khoa học kỹ thuật làm cho sự lựa chọn của người tiêu dùng
trở lên khắt khe hơn, giá cả giờ đây không còn là mối quan tâm hàng đầu đối với người
tiêu dùng mà là chất lượng của sản phẩm. Điều đó đặt ra vấn đề bức xúc đối với doanh
nghiệp là: Làm thế lào để đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạng tranh
trên thị trường. Điều này buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn hoặc đổi mới nâng cao
chất lượng sản phẩm để tồn tại và phát triển lâu dài hoặc là thất bại trong sản xuất kinh
doanh. Nhưng không phải doanh nghiệp bằng mọi giá để nâng cao chất lượng sản
phẩm mà phải lựa chọn các biện pháp tối ưu nhất nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm không những có ý nghĩa to lớn và thiết
thực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến lền kinh tế
quốc dân, đến đời sống thu nhập của người lao động.
Đối với doanh nghiệp: Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện
chiến lược mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng và vị thế cho sản phẩm cũng như
doanh nghiệp. Từ đó tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.


Do vậy nâng cao chất lượng sản phẩm là con đường duy nhất để doanh nghiệp giành
thắng lợi trong kinh doanh.
- Đối với nền kinh tế quốc dân: Nâng cao chất lượng sản phẩm đảm bảo cung
cấp những sản phẩm có chất lượng tốt cho xã hội, kích thích sản xuất và tiêu dùng.
Riêng đối với sản phẩm thuộc tư liệu sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm sẽ góp phần

làm tăng kỹ thuật hiện đại trang bị cho nền kinh tế quốc dân đảm bảo tăng nhanh năng
suất lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập và góp phần vào ổn định xã hội.
- ý nghĩa quốc tế: Chất lượng sản phẩm tốt, đặc biệt đối với sản phẩm xuất khẩu
làm tăng uy tín của đất nước trên thị trường thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để hàng
hoá trong nước cạnh tranh làm mạnh với hàng hoá các nước khác.
Như vậy đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm là một đòi hỏi khách quan và
hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp. Nâng cac chất lượng sản phẩm là biện pháp
hưu hiệu nhất kết hợp hài hoà các lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội.
1.1.4.2. Phương hướng nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh
ngiệp Việt nam hiện nay.
Khi nền kinh tế chuển sang thị trường, vấn đề chất lượng sản phẩm và dịch vụ
không còn xa lạ đối với doanh nghiệp Việt Nam. Những khẩu hiệu quen thuộc như
"Chất lượng và các yếu tố hàng đầu"," chất lượng là sự sống còn của doanh nghiệp",
chất lượng sản phẩm được sử dụng như một công cụ cạnh tranh quan trọng nhất. Với
nhận thức đó, các doanh nghiệp đã cố gắng tập trung vào các công tác đảm bảo nâng
cao chất lượng sản phẩm bằng cách đổi mới mẫu mã, đa dạng hoá chủng loại, Do
vậy chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt nam dần dần ổn định và ngày một
nâng cao, khả năng cạnh tranh của hàng nội địa cũng đựơc củng cố. Các sản phẩm
hàng hoá của Việt nam ngày càng tỏ rõ lợi thế cạnh tranh của mình thể hiện ngày càng
đáp ứng được nhu cầu của người Việt nam hơn các sản phẩm ngoại nhập. Công ty Cao
su Sao Vàng là một ví dụ điển hình. Công ty sản xuất xăm xe máy , xe đạp và nhiều
sản phẩm cao su kĩ thuật đã được nhiều người tiêu dùng mến mộ, tin dùng từ nhiều
năm nay. Cùng với sự lớn mạnh, phát triển ổn định của Công ty, sản phẩm của Công ty
đang mang nhãn hiệu " sao vàng" lại gây được nhiều thiên cảm đối với người tiêu dùng
và tạo được lợi thế cạnh tranh tren thị trường. Chất lượng là sự sống còn của doanh


nghiệp nên Công ty đã phấn đấu không ngừng và đạt được nhiều thành tích về chất
lượng sản phẩm . Trong 3 năm 1993, 1996, 1997 mỗi năm Công ty đạt được 3
huy chương vàng tại hội chợ Quốc tế hàng công nghiệp Việt nam, 2 năm liền đạt giải

huy chương bạc chất lượng Việt nam do Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng tổ
chức.
Công ty dệt Việt thắng không còn là cái tên xa lạ đối với thời trang trong nước.
Những sản phẩm của Việt thắng đã khẳng định vị trí xứng đáng của mình trên thị
trường do sự phong phú về mẫu mã, và độ bền của chất liệu vải. Tại hôị chợ hàng Việt
nam chất lượng cao tổ chức tại Hà nội thì chỉ trong 4 ngày Việt thắng đã đạt doanh thu
300 triệu đồng, quả là một con số không nhỏ. Năm 1998 trong khi nền kinh tế đang
gặp nhiều khó khăn thì Công ty vẫn đạt mức doanh thu 380 tỷ. Đó là sự nỗ lực, cố
gắng của lãnh đạo Công ty để đạt được mục tiêu " Chất lượng là yếu tố hàng đầu để
chiếm lĩnh thị trường ".
Bên cạnh sự thành công của nhiều doanh nghiệp nhờ nâng cao chất lượng sản
phẩm thì vẫn còn nhiều các doanh nghiệp Việt nam có khả năng cạnh tranh rất thấp,
sản phẩm không những không cạnh tranh được thị trường thế giới mà ngay cả thị
trường nội địa . Đây là vấn đề đáng lo ngại ở Việt nam hiện nay. Tại sao lại như vậy?
Một trong những khâu yếu nhất là khả năng thiết kế và đổi mới sản phẩm còn
rất kém, doanh nghiệp chưa biết vận dụng sáng tạo ý tưởng của mình vào công nghệ kỹ
thuật để cải tiến tạo ra sản phẩm mới mà chủ yếu nhái lại hàng nước ngoài. Đứng trên
góc độ kinh doanh đó là đầu tư bị động, đầu tư không đúng thời điểm, khi chu kỳ sống
của sản phẩm đã vào giai đoạn bão hoà vì vậy khả năng cạnh tranh và tiêu thụ rất thấp.
Tầm nhìn của doanh nghiệp còn hạn chế. Một mặt do khả năng nghiên cứu, nắm bắt
nhu cầu thi trường còn yếu. Mặt khác do chưa tích cực, chủ động tìm kiếm thị trường,
không xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh dài hạn. Các doanh nghiệp còn quan
tâm nhiều đến vấn đề ngắn hạn, coi chỉ tiêu lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá sự thành
công của doanh nghiệp, vì thế nên chưa coi trọng yếu tố khách hàng.
Bên cạnh đó nhận thức về chất lượng của nước ta cũng kém các doanh nghiệp
nước ngoài, đó là khoảng cách khá xa. Tuy đã có tiến bộ nhiều về mọi mặt nhưng vẫn
bị ảnh hưởng của nếp sống và suy nghĩ cũ đến phương thức tiếp cận chất lượng sản


phẩm còn đơn giản. Hệ thống chát lượng chỉ tập chung ở khâu kiểm tra kiểm soát,

khâu cuối cùng của quá trình sản xuất.
Hơn nữa vấn đề đào tạo cán bộ bị xem nhẹ, người ta sợ tốn nhiều chi phí cho
doanh nghiệp, vì thế kiến thức của doanh nghịêp còn hạn chế, không khuyến khích tinh
thần làm việc cho doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp sẽ mất đi nguồn lực lớn nhất
chính là nguồn lực chí tuệ. Đứng trước thực trạng đó, vấn đề cấp bách đặt ra là làm thế
nào để đẩy nhanh quá trình tiến bộ của quản trị chất lượng vào trong các doanh nghiệp,
nhanh chóng nâng cao chất lượng snr phẩm lên mặt bằng chung của các nước trong
khu vực, từng bước hoà nhập và có khả năng tham gia cạnh tranh trên thị trường thế
giới.
Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần chú ý tập trung đầu tư công tác nghiên
cứu thiết kế sản phẩm mới. Nâng cao năng lực thiết kế sản phẩm là một trong nhữg
biện pháp chủ động tích cực nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt nam.
Mặt khác để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh trong dài hạn các
doanh nghiệp Việt nam cần đổi mới đồng bộ, toàn diện công nghệ. Đây là một giải
pháp quan trọng nhất đảm bảo một cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết tạo tiền đề nâng
cao khả năng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam. Đổi mới công nghệ
phải được coi là giải pháp trung tâm, có tính chiến lược tác động lâu dài đến sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp.
Hơn nữa tăng cường công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực của doanh
nghiệp đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng tay nghề và những kiến thức
về quản lý chất lượng là khâu có ý nghĩa quyết định đến năng suất, chất lượng và hiệu
quả của các doanh nghiệp. Đó cũng là các tiền đề cần thiết nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt nam.Thông qua các chiến lược và chương trình đào
tạo cụ thể phù hợp với từng đối tượng, từng ngành ngề, từng doanh nghiệp nâng cao
chất lượng đội ngũ lao động của nước ta nhằm tạo ra một lực lượng lao động có đủ khă
năng tiếp thu thích ứng với những thách thức của môi trường kinh doanh quốc tế hiện
nay .
Trong nền kinh tế thị trường, không còn tồn tại thị trường người bán mà đã
chuyển sang thị trường của người mua, các doanh nghiệp cần phải nỗ lực tham gia mở



rộng và khảo sát thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng để từ đó nâng cao được năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ncó như vậy mới thực hiện được mục tiêu: là người
Việt Nam dùng hàng Việt Nam.
1.2. Quản trị chất lượng- một nội dung quan trọng để đảm bảo nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Qua những nội dung đã nghiên cứu ở phần trên, chíng ta có thể khẳng định
rằng: Chất lượng không tự nhiên sinh ra, chất lượng phải là một kết quả ngẫu nhiên và
là kết quả của sự tác động của hàng loạt các yếu tố, các quá trình có liên quan chặt chẽ
với nhau. Chất lượng cần phải được quản lý. Vì vậy các doanh nghiệp muốn đảm bảo
và nâng cao chất lượng sản phẩm phải quản lý tất cả các yếu tố có ảnh hưởng đến chất
lượng một cách hệ thống và đồng bộ, phối hợp hài hoà các yếu tố này, đó chính là
quản trị chất lượng.
1.2.1. Thực chất của công tác quản lý chất lượng sản phẩm
Khoa học quản lý được phát triển và hoàn thiện liên tục thể hiện ngày càng đầy
đủ hơn bản chất tôngr hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng và phản ánh sự thích ứng
với điều kiện và môi trường kinh doanh moứi. Vào những năm đầu của thế kỷ 20, chưa
có khái niệm quản lý chất lượng mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng. Toàn bộ
hoạt động quản lý chất lượng được bó hẹp trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát sản phẩm
trong quá trình sản xuất của các phân xưởng. Sự phát triển của thị trường cùng với việc
sản xuất ngày càng nhiều hàng hoá thì tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tăng
lên rất nhanh. Các doanh ngiệp phải quan tâm đến chất lượng nhiều hơn và khái niệm
quản trị chất lượng bắt đầu xuất hiện. Vào thập kỷ 70, sự cạnh tranh tăng lên đột ngột
đã buộc các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và thay đổi quan niêmj về quản lý chất
lượng. Để thoả mãn khách hàng các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất
mà phải quan tâm tới chất lượng ngay cả khi nghiên cứu thiết kế sản phẩm cũng như
sau khi sản phẩm đã bán ra. Quản lý chất lượng được mở rộng tới tất cả mọi lĩnh vực
từ sản xuất tới quản lý và dịch vụ trong toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm .
Cũng như khái niệm chất lượng sản phẩm, trên thế giới cũng đang tồn tại nhiều

khái niệm về quản lý chất lượng. Tuỳ theo từng thời kỳ, từng góc độ xem xét và mục


đích mà có các khái niệm khác nhau song tất cả dều có những đóng góp trong việc thúc
đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng hoàn thiện và phát triển.
Theo quan điểm của nhà khoa học Mỹ A.V Feigenbaun: Quản lý chất lượng sản
phẩm là một hoạt động thống nhất, có hiệu quả của các bộ phận khác nhau trong một
tổ chức, một đơn vị kinh tế chịu trách nhiệm triển khai các tham số chất lượng, duy trì
mức chất lượng đã đạt được và nâng cao nó để đảm bảo sản xuất và tiêu dùng sản
phẩm một cách kinh tế nhất thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng.
Theo K. ISHIKAWA- chuyên gia chất lượng nổi tiếng của Nhật: Quản lý chất
lượng sản phẩm có ý nghĩa là nghiên cứu - thiết kế- triển khai sản xuất và bảo dưỡng
một sản phẩm có chất lượng, sản phẩm phải kinh tế nhất, có ích nhất và bao giờ cũng
thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Theo AGRobertson- nhà quản lý Anh: Quản lý chất lượng sản phẩm là ứng
dụng các biện pháp, thủ tục kiến thức kinh tế, kỹ thuật đảm bảo cho các sản phẩm đang
hoặc sẽ được sản xuất phù hợp với thiết kế, các yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng
con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất.
Theo tiêu chuẩn công nghiệp Nhật(JIS- 84): Quản lý chất lượng là hệ thống các
biện pháp tạo điều kiện sản xuất, tiết kiệm những hàng hoá có chất lượng thoả mãn
nhu cầu của người tiêu dùng.
Theo Crosby: Quản lý chất lượng là một phương tiện có tính chất hệ thống đảm
bảo việc tôn trọng tổng thể tất cả các thành phần của một kế hoạch hành động.
Theo tiến sĩ Juran: Quản lý chất lượng là quá trình điều chỉnh thông qua đó
chúng ta đánh giá đo lường chất lượng thực tế thực hiện được, so sánh nó với các tiêu
chuẩn và tiến hành các hoạt động điều chỉnh.
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn ISO lại cho rằng: Quản lý chất lượng là tập hợp
các hoạt động của các chức năng quản lý chung, xác định chính sách chất lượng, mục
đích trách nhiệm và thực hiện chúng thông qua các biện pháp như: lập kế hoạch, điều
khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ thống

chất lượng.
Một khái niệm nữa về quản lý chất lượng được đa số các công ty, tổ chức chấp
nhận hiện nay đó là khái niệm về quản trị chất lượng toàn diện TQM; Quản lý chất
lượng là một phương pháp quản lý của một tổ chức định hướng vào chất lượng dựa


trên sự tham gia của mọi thành viên nhằm đem lại thành công dài hạn thông qua sự
thoả mãn khách hàng và lợi ích mọi thành viên trong Công ty đó và toàn xã hội.
Như vậy mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhaunhưng tất cả đều nhìn
nhận giống nhau thể hiện quản lý chất lượng là hệ thống biện pháp nhằm đảm bảo chất
lượng thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất, có hiệu quả kinh tế cao nhất
được tiến hành ở tất cả các quá trình hình thành chất lượng sản phẩm, từ nghiên cứu-
thiết kế sản xuất- vận chuyển- bảo quản, đến tiêu dùng.
Để hoạt động quản lý chất lượng được tiến hành có hiệu quả cần có một cơ chế
quản lý cụ thể và có hiệu lực mà theo ngôn ngữ chung hiện nay đó là hệ thống chất
lượng. Các hệ thống giúp doanh nghiệp liên tục cải tiến chất lượng thoả mãn khách
hàng và những người thường xuyên cộng tác với doanh nghiệp.
1.2.2. Vai trò của công tác quản lý chất lượng sản phẩm tong cơ chế thị
trường:
Trong nền kinh tế thi trường nhiều thành phần, việc đảm bảo và nâng cao chất
lượng sản phẩm hàng hoá có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nền kinh tế nước nhà. Trên
phạm vi toàn xã hội mf xét, việc đảm bảo chất lượng của sản phẩm là đảm bảo sử dụng
một cách tiết kiệm nhất, hợp lý nhất những tài nguyên, sức lao động, các cộng cụ lao
động để thoả mãn một cách tối đa những nhu cầu của toàn xã hội trong từng thời kỳ
nhất định.
Một tư liệu sản xuất có chất lượng tốt sẽ tạo điều kiện cho người sử dụng lao
động tăng năng suất lao động, giảm tiêu hao nguyên vật liệu, động lực, giảm chi phí
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng tích luỹ vốn để tái sản xuất mở
rộng.
Hàng hoá có chất lượng cao sẽ tạo điều kiện mở rộng khả năng xuất khẩu.

Không ngừng cải tiến mặt hàng, nâng cao chất lượng mặt hàng, chất lượng sản phẩm
hàng hoá là tiền đề quan trọng để hàng hoá một nước có khả năng xâm nhập vào thị
trường khu vực và quốc tế.
Hàng tiêu dùng có chất lượng tốt, tạo điều kiện tiết kiệm được khối lượng hàng
hoá cần thiết cho xã hội , nhờ vậy mà tiết kiệm được nguyên vật liệu, sức lao đọng ,


tiền vốn để mở rộng sản xuất, đồng thời tiết kiệm được quỹ tiêu dùng cho xá hội,
góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Về phương diện sản xuất kinh doanh, snr phẩm hàng hoá không đạt tiêu chuẩn
chất lượng, phải xuống cấp, phải bán với với giá thứ phẩm hoặc phải sữa chữa, bồi
thường cho khách hàng, phải huỷ bỏ hợp đồng thì số lượng kế hoạch cũng không hoàn
thành đúng thời hạn, chi phí và tính giá thành cao, gây nhiều tổn thất cho doanh
nghiệp, gây mất lòng tin với khách hàng, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của
daonh nghiệp.
Do nhu cầu xã hội ngày càng tăng cả về mặt lượng và mặt chất, dẫn đến sự thay
đổi lớn về nhân công lao động xã hội.
Với chính sách mở cửa tự do thương mại, các nhà sản xuất kinh doanh muốn
tồn tại và phát triển thì dich vụ của họ phải có tính cạnh tranh cao, doanh nghiệp phải
có khả năng cạnh tranh cao về nhiều mặt. Cạnh tranh không phải là thực tế đơn giản,
nó là kết quả tổng hợp của toàn bộ nỗ lực trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá là con đường
quan trọng nhất để phát triển và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội, đẩy mạnh công
cuộc và phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập quốc dân, là biện pháp để đảm bảo sự
sống còn của doanh nghiệp. Quy luật cạnh tranh vừa là đòn bẩy để các doanh nghiệp
tiến lên đà phát triển, hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới, nhưng đồng thời
cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp. Trong quản trị kinh doanh, nếu không lấy
chất lượng làm mục tiêu phấn đấu, nếu chạy theo lợi nhuận trước mắt, rõ ràng doanh
nghiệp xẽ bị đẩy ra ngoài vòng quay của thị trường đi đến thua lỗ và phá sản.
Như vậy quản lý chất lượng chính là một trong những phương thức mà doanh

nghiệp tiếp cạn và tìm cách đạt được những thắng lợi trong sự cạnh tranh gay gắt trên
thương trường, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Chất lượng và quản lý chất lượng không những là sự sống còn của doanh
nghiệp mà là sự đòi hỏi của toàn xã hội. Vì thế vấn đề quản lý chất lượng từ khâu thiết
kế- sản xuất- tiêu dùng, phải có những biện pháp sao cho có hiệu quả cao trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy mà phải làm đúng, làm tốt ngay từ đầu là con
đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất và cũng chính là mục tiêu quản lý chất lượng hoạt
động của mọi tổ chức.


1.2.3. Nội dung của công tác Quản lý chất lượng trong hệ thống chất lượng
của doanh nghiệp:
1.2.3.1 Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế:
Công tác thiết kế có tầm quan trọng rất lớn trong khâu đầu tiên, thể hiện ý đồ
mang tính chất quyết định trong chiến lược sản phẩm, chính sách chất lượng của một
doanh nhiệp.
Nếu quá trình thiết kế đúng đắn, phù hợp với nhu cầu thị trường sẽ góp phần
lớn vào thành quả hoạt động, vò khả năng cạnh tranh, để chiếm lĩnh vị trí xứng đáng
của sản phẩm trên thị trường. Công tác thiết kế được hiểu như một quá trình gồm sự
nghiên cứu của phòng Marketing và sự thực hiện của phòng quản lý sản xuất, nó xem
như cầu nối liền giữa chức năng Marketing và chức năng tác nghiệp. Giai đoạn này cần
thực hiện các công việc sau:
- Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thiết kế, các cán bộ quản lý
Marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng để thiết kế sản phẩm. Chuỷen hoá những
đặc điểm nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm của sản phẩm. Kết quả của thiết kế
là các quá trình, đặc điểm sản phẩm, các bản sơ đồ thiết kế, và lợi ích của những đặc
điểm đó.
- Đưa ra các phương án khác nhau về các đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng
nhu cầu khách hàng.
- Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm chọn phương án tối ưu.

- Quyết định những đặc điểm sản phẩm đã lựa chon: Đáp ứng nhu cầu khách
hàng, thích hợp với khả năng, đảm bảo tính cạnh tranh, tối thiểu hoá chi phí.
- Phân tích về kinh tế: Đó là quá trình đánh giá mối quan hệ giữa lợi ích mà các
đặc điểm sản phẩm đưa lại với chi phí cần thiết để tạo ra chúng.
Phân chia từng chức năng thành các đặc điểm cụ thể và ước tính chi phí cho
từng đặc điểm đó, ở đây phương pháp đồ thị thường được áp dụng rộng rãi nhất.
1.2.3.2 Quản lý chất lượng trong khâu cung ứng:
Mục tiêu của giai đoạn này là nhằm đáp ứng đúng chủng loại, số lượng, thời
gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế kỹ thuật cần thiết của nguyên vật liệu, đảm bảo


cho quá trình sản xuất tiến hành thường xuyên, liên tục với chi phí thấp nhất. Quản lý
chất lượng trong khâu cung ứng gồm có những nội dung sau:
- Lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất
lượng vật tư nguyên liệu.
- Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ, thường xuyên cập nhật.
- Thoả thuận về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng.
- Thoả thuận về phương pháp kiểm tra xác minh.
- Xác định các phương án giao nhận.
- Xác định rõ ràng, đầy đủ thống nhất các điều khoản trong giải quyết những
trục trặc khiếm khuyết.
1.2.3.3. Quản lý chất lượng trong khâu sản xuất:
Quản lý chất lượng phải được thực hiện từ ngay khâu đầu tiên của quá trình sản
xuất. Phải phát hiện ngay những sai sót trong mọi nguyên nhân càng sớm càng tốt,
nhất là ngay từ khâu đầu- xử lý nguyên liệu, tạo hình sản phẩm , gia công chỉnh lý,
tinh tế Ngoài ra cần có nhận thức đúng đắn rằng nâng cao chất lượng sản phẩm,
quản lý quá trình sản xuất, không chỉ là trách nhiệm của nhà quản lý mà là trách nhiệm
của mọi thành viên trong Công ty.
Tất cả các thành viên từ lãnh đạo đến công nhân, tất cả các cán bộ nghiên cứu
thị trường- thiết kế - cung ứng vật tư - sản xuất - kiểm tra chất lượng đến lưu thông

kinh doanh đều phải tham gia vào quản lý chất lượng sản phẩm, trong đó quản lý quá
trình sản xuất nhằm đảm bảo chất lượng là giai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt, giai
đoạn quyết định sự hình thành các đặc tính các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Quản lý
chất lượng trong khâu sản xuất nhằm mục đích:
- Đảm bảo quản lý chất lượng được hình thành ở mức cao nhất, thoả mãn nhu
cầu thị trường ở mức độ thích hợp nhất.
- Đảm bảo chi phí sản xuất ở mức thấp nhất.
- Đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất đúng thời gian quy định.
- Đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm trong qúa trình lưu thông.
Để thực hiện được những mục tiêu trên, quản lý chất lượng trong giai đoạn này
cần thực hiện những nhiệm vụ sau:


- Cung ứng vật tư nguyên liệu đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian
địa điểm.
- Kiểm tra chất lượng vật tư, nguyên liệu đưa vào sản xuất.
- Tổ chức lao động hợp lý để các thành viên là người sáng tạo ra chất lượng, tự
mình kiểm tra, khắc phục kịp thời mọi sai sót.
- Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn quy trình thủ tục, thao tác thực hiện từng
công việc.
- Kiểm tra chất lượng các chi tiết, bộ phận, bán thành phẩm sau từng công đoạn.
Phát hiện sai sót , tìm nguyên nhân sai sót để loại bỏ.
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh.
- Kiểm tra, hiệu chỉnh thường kỳ các dụng cụ kiểm tra đo lường chất lượng.
- Kiểm tra thường xuyên máy móc, thiết bị máy móc, htiết bị sản xuất, duy trì
và bảo dưỡng kịp thời.
1.2.3.4. Quản lý chất lượng trong và sau khi bán hàng:
Mục tiêu của quản lý chất lượng trong giai đoạn này nhằm đảm bảo thoả mãn
khách hàng nhanh nhất, thuận tiện nhất và với chi phí thấp nhất, nhờ đó tăng uy tìn của
doanh nghiệp. Hơn nữa rất nhiều doanh nghiệp còn thu được lợi nhuận từ những hoạt

động dịch vụ su khi bán. Do vậy những năm gần đây, công tác đảm bảo chất lượng
trong và sau khi bán được các doanh nghiệp rất chú ý và mở rộng phạm vi. Trong giai
đoạn quản lý chất lượng trong và sau khi bán hàng thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tạo danh mục sản phẩm hợp lý
- Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi, nhanh chóng.
- Thuyết minh, hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính sử dụng, điều kiện sử dụng,
quy trình, quy phạm sử dụng.
- Dự kiến chất lượng và chủng loại phụ tùng thay thế cần phải đáp ứng nhu cầu
khi sử dụng sản phẩm.
- Đề xuất nghiên cứu những phương án bao gói vận chuyển, bảo quản bốc dỡ
hợp lý nhằm tăng năng suất, hạ giá thành.
- Tổ chức bảo hành, tổ chức dịch vụ kỹ thuật thích hợp sau khi bán hàng.



1.2.4. Các công cụ quản lý chất lượng:
Quản trị chất lượng sử dụng rất nhiều công cụ khác nhau để đảm bảo và nâng
cao chất lượng sản phâmr, trong đó kiểm tra chất lượng bằng thống kê (SQC) đóng vai
trò rất quan trọng. SQC được xây dựng dựa trên cơ sở toán xác suất thống kê, bao gồm
7 công cụ đó là:
- Biểu đồ tiến trình hay biểu đồ lưu chuyển (lưu đồ).
- Sơ đồ nhân quả (Sơ đồ xương cá)
- Biểu đồ kiểm soát
- Phiếu kiểm tra
- Biểu đồ Pareto.
- Biểu đồ phân bố mật độ.
- Biểu đồ phân tán.
- Biểu đồ tiến trình hay biểu đồ lưu chuyển ( lưu đồ): Lưu đồ là một dạng biểu
đồ mô tả quy trình bằng cách sử dụng những hình ảnh hoặc những ký hiệu kỹ thuật
nhằm cung cấp sự hiểu biết đầy đủ về các đầu vào và các dòng chảy của các quy trình.

Lưu đồ giúp con người tham gia hiểu rõ quá trình, xác định công việc cần sửa đổi, cải
tiến để hoàn thiện quá trình, giúp huấn luyện, đào tạo, nâng cao tay nghề,
* Sơ đồ nhân quả( Sơ đồ xương cá): Sơ đồ nhân quả là một sơ đồ thể hiện mối
quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Đây là một công cụ hữu hiệu giúp ta liệt kê các
nguyên nhân gây lên biến động chất lượng, là một kỹ thuật để công khai nêu ý kiến, có
thể dùng được trong nhiều tình huống khác nhau.
Sơ đồ nhân quả cho biết các nguyên nhân gây ảnh hưởng đến chất lượng, đặc
biệt là những nguyên nhân làm quá trình quản trị chất lượng biến động vượt ra ngoài
giới hạn quy định trong tiêu chuẩn hoặc quy trình. Định rõ những nguyên nhân cần xử
lý trước, có tác dụng tích cực trong việc đào tạo, huấn luyện các cán bộ kỹ thuật và
kiểm tra, Nâng cao sự hiểu biết tư duy lôgic và sự gắn bó giữa các thành viên, có
thể sử dụng sơ đồ nhân quả cho bất kỳ tình huống nào.
* Biểu đồ kiểm soát
Biểu đồ kiểm soát là biểu đồ có đường giới hạn kiểm soát hay đường giới hạn
điều chỉnh và có ghi các giá trị đặc trưng thống kê(X,R, ) thu nhập từ các nhóm mẫu
được chọn ra liên tiếp trong quá trình sản xuất.

×