TIỂU LUẬN:
Thực tiễn hoạt động kinh doanh,
công tác xây dựng và phát triển
thương hiệu VINATEXIMEX từ
năm 2001 đến năm 2007
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Với sự cố gắng trong suốt 15 năm qua, đến năm 2006 Việt Nam đã chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Điều đó cũng
đồng thời với việc Việt Nam phải thực hiện đúng nhưng cam kết về kinh tế mà tổ
chức này đã ấn định thời hạn, tiến trình cho việc thực hiện các cam kết đó. Sức ép
cạnh tranh đã trở nên gay gắt với sự tham gia đầu tư ngày càng lớn của các nhà đầu
tư nước ngoài với những thế mạnh về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, kinh
nghiệm kinh doanh quốc tế. Để có thể đứng vững trong cạnh tranh, tạo được tiếng
nói trong một "sân chơi lớn" thì vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu đã trở nên
hết sức cần thiết đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Không nằm ngoài áp lực cạnh tranh đó, công ty sản xuất xuất nhập khẩu đã
nhận thấy cần thiết phải xây dựng thương hiệu cảu công ty mình. Công tác xây dựng
và phát triển thương hiệu đã được công ty chính thức đề cập như một nội dung quan
trọng trong chiến lược kinh doanh của công ty.
Xuất phát từ những lý do trên, em chọn đề tài: "Xây dựng và phát triển thương
hiệu VINATEXIMEX của công ty sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may" làm chuyên
đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu:
Vận dụng những cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển phương tiện cảu doanh
nghiệp để phân tích, đánh giá thực trạng cong tác xây dựng và phát triển thương hiệu
VINATEXIMEX từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
này của công ty.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Công tác xây dựng và phát triển thương hiệu của doanh
nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: “Thực tiễn hoạt động kinh doanh, công tác xây dựng
và phát triển thương hiệu VINATEXIMEX từ năm 2001 đến năm 2007”.
Kết cấu của chuyên đề:
Chuyên đề được xây dựng thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thương hiệu và phát triển thương hiệu của
doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng xây dựng và phát triển thương hiệu ở Công ty sản
xuất - xuất nhập khẩu dệt may.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển
thương hiệu của công ty sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG HIỆU
VÀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU
1.1. Tổng quan chung về thương hiệu của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về thương hiệu
a. Khái niệm
Thuật ngữ thương hiệu đã xuất hiện và được sử dụng cách đây hàng thế kỷ,
bắt đầu từ các nước công nghiệp phát triển, sau này là các nước Châu Á, các nước
đang phát triển ở Việt Nam, thuật ngữ kinh tế này chỉ mới được đề cập nhiều trong
một mấy năm gần đây. Với nhiều cách tiếp cận và được luận giải theo nhiều cách
khác nhau:
- Thương hiệu là cách gọi khác của nhãn hiệu hàng hóa
- Thương hiệu là nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng ký bảo hộ, nó được công
nhận là một tài sản và có thể mua bán trên thị trường.
- Thương hiệu là thuật ngữ chỉ chung cho các đối tượng sở hữu công nghiệp
được bảo hộ như: nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, tên gọi
xuất xứ, sáng chế, giải pháp hữu ích…
Thực tế, hiện đang tồn tại nhiều quan điểm về thương hiệu doanh nghiệp. Tuy
nhiên, chúng ta có thể xem xét khái niệm thương hiệu doanh nghiệp dựa trên hai
quan điểm được coi là khá toàn diện về thương hiệu doanh nghiệp: quan điểm truyền
thống và quan điểm tổng hợp về thương hiệu.
Theo quan điểm truyền thống điển hình là quan điểm của hiệp hội marketing
thỏa kỳ: "Thương hiệu là một cái tên, từ ngữ ký hiệu, biểu tượng, hình vẽ thiết kế…
hoặc tập hợp các yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hóa và dịch vụ của một
người hoặc một nhóm người bán với hàng hóa và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
Xét theo quan điểm này thì thương hiệu như là một thành phần của sản phẩm
với chức năng chủ yếu là để phân biệt sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp với sản
phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp cạnh tranh và quan điểm này cho rằng thương
hiệu được cấu tạo bởi hai phần:
- Phần phát âm được: bao gồm những yếu tố có thể đọc được, tác động vào
thính giác của người nghe như tên doanh nghiệp, tên doanh nghiệp, tên sản phẩm,
câu khẩu hiệu, đoạn nhạc, câu hát đặc trưng…
- Phần không phát âm được: là những yếu tố không đọc được mà chỉ có thể
cảm nhận được bằng thị giác như hình vẽ, biểu tượng, màu sắc, kiểu dáng thiết kế,
bao bì và các yếu tố nhận biết khác.
Quan điểm tổng hợp cho rằng thương hiệu là một tập hợp các thuộc tính cung
cấp cho khách hàng mục tiêu những giá trị mà họ mong muốn, đòi hỏi. Theo quan
điểm này, sản phẩm chỉ là một thành phần của thương hiệu, cung cấp lợi ích chức
năng chủ yếu cho khách hàng. Các thành phần lợi ích, chức năng chủ yếu cho khách
hàng. Các thành phần của marketing hỗn hợp (sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc
tiến) cũng chỉ bộ phận của thương hiệu… thương hiệu theo quan điểm này là sự kết
hợp giữa các thuộc tính hữu hình và vô hình.
Thuộc tính hữu hình: thuộc tính này thể hiện ở các chức năng sản phẩm, nó
cung cấp lợi ích chức năng cho khách hàng, thỏa mãn nhu cầu cơ bản của khách
hàng.
Thuộc tính vô hình: được xét như là thành phần cảm xúc, đem lại cho khách
hàng những giá trị mang tính biểu tượng, những lợi ích tâm lý như: vị trí mang tính
biểu tượng, những lợi ích tâm lý như: vị trí thương hiệu, nhân cách thương hiệu, quốc
gia hay tên địa danh nơi sản phẩm được sản xuất….
Hai thành phần cơ bản của thương hiệu, thành phần chức năng và thành phần
cảm xúc kết hợp với một mức giá tương ứng và thành phần cảm xúc kết hợp với một
mức giá tương ứng sẽ tạo nên giá trị của thương hiệu. Chúng ta có thể biểu diễn sự
kết hợp này qua sơ đồ sau:
Thành ph
ần
chức năng
Thành ph
ần
cảm xúc
Giá c
ủa sản
phẩm, dịch vụ
L
ợi ích
M
ối t
ương quan
Có thể nói quan điểm tổng hợp về thương hiệu đã là một bước tiến mới, một
cách hiểu đầy đủ hơn về thương hiệu. Để có cách nhìn toàn diện thương hiệu, chúng
ta quan niệm thương hiệu như là một con người với những tiêu chí được so sánh như
sau:
Với cách so sánh trên, chúng ta có thể nhìn nhận về thương hiệu một cách cụ
thể hơn. Nó bao gồm tất cả các yếu tố mang lại giá trị cho khách hàng khi sử dụng
sản phẩm hay dịch vụ mang thương hiệu đó. Các yếu tố thương hiệu của một sản
phẩm hoặc dịch vụ thường được biểu hiện dưới dạng là các đối tượng của sở hữu trí
tuệ như: nhãn hiệu, tên gọi thương mại, tên gọi xuất xứ, kiểu dáng công nghiệp, sáng
chế, giải pháp hữu ích… và không chỉ là những yếu tố được bảo hộ, thương hiệu của
một doanh nghiệp còn bao gồm những yếu tố mà chúng ta không thể qui thành một
yếu tố cụ thể để đăng ký bảo hộ như: uy tín của doanh nghiệp, tác phong, phong cách
làm việc của nhân viên hay văn hóa của công ty.
Tên gọi
Thân hình
Cá tính
Địa vị
Con người
Thương hiệu
Nhãn hiệu
Sản phẩm
Dịch vụ hỗ trợ,
công cụ
Markting
Mức giá phù
hợp với vị trí
c
ủa th
ương hi
ệu
b. Mối quan hệ giữa thương hiệu với sản phẩm
Khái niệm sản phẩm theo nghĩa rộng không chỉ là những sản phẩm vật chất
(nhìn thấy được, cần nắm được) theo như quan điểm của Phillip Kotler: "sản phẩm là
bất cứ cái gì có thể chào bán trên thị trường để thu hút sự chú ý, mua, sử dụng hoặc
tiêu thụ mà có thể làm thỏa mãn một nhu cầu hoặc một mong muốn. Như vậy, theo
quan điểm này, sản phẩm bao gồm hàng hóa vật chất (đồ trang sức, xe hơi), hàng hóa
phi vật chất (dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ hàng không, sức lao động, một ý tưởng).
Theo đó, khi nói đến một dịch vụ chúng ta cũng có thể gọi nó là một sản phẩm
Phillip Kotler cũng chia sản phẩm thành ba cấp độ.
1. Cấp độ lợi ích cốt lõi của sản phẩm: là những sản phẩm nhằm đáp ứng
những nhu cầu hay mong muốn cơ bản của khách hàng, những sản phẩm này chưa
được chú ý nhiều về kiểu dáng, chất lượng, bao bì.
2. Cấp độ lợi ích cụ thể của sản phẩm:
Ở cấp độ này các sản phẩm ngoài việc đáp ứng những nhu cầu cơ bản về sản
phẩm, nhà cung cấp (sản xuất) phải chú ý đến việc đảm bảo các yếu tố như chất
lượng, kiểu dáng, hình thức và mẫu mã của bao bì sản phẩm khi mà yêu cầu của
khách hàng đã ở một mức cao hơn.
3. Cấp độ lợi ích gia tăng của sản phẩm (cấp độ sản phẩm mong muốn)
Một sản phẩm đã được những tiêu chuẩn nhất định về chất lượng, kiểu dáng,
cách bao gói đẹp nhưng vẫn chưa làm khách hàng thực sự hài lòng, đòi hỏi nhà sản
xuất phải bổ sung thêm những giá trị, lợi ích tăng thêm đối với người mua. Những lợi
ích, giá trị được bổ sung thêm này có thể là: các dịch vụ bảo hành, phong cách phục
vụ, các chương trình truyền thông nhằm xây dựng hình ảnh thương hiệu hay một hình
ảnh đẹp về người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm.
Khi lựa chọn một sản phẩm khách hàng không chỉ quan tâm tới kiểu dáng,
mầu sắc, bao gói, tính năng của sản phẩm mà họ còn quan tâm tới sản phẩm ấy được
sản xuất ở đâu, hãng nào cung cấp. Cũng như vậy khi nhắc đến một doanh nghiệp
hay một tập đoàn nào đó thì khách hàng sẽ liên tưởng tới những loại sản phẩm mà
doanh nghiệp, tập đoàn đã sản xuất, cung ứng. Sản phẩm đó tốt hay không tốt, có ìg
đặc biệt hay cũng chỉ là những sản phẩm bình thường mà thôi.
Đó chính là mối quan hệ giữa sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp. Mối
quan hệ này cũng có sự thay đổi theo thời gian.
Trong giai đoạn đầu của thời đại kinh tế công nghiệp, do lượng hàng hóa sản
xuất ra chưa đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, thế nên chiến lược phát triển doanh nghiệp
trong giai đoạn này là không ngừng tăng quy mô sản xuất nhằm giảm giá thành, các
doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá. Khách hàng sẽ đánh giá và có ấn tượng tốt về
doanh nghiệp nào có mức giá cạnh tranh hơn.
Ngày nay, trong thời đại kinh tế hậu công nghiệp, hầu hết các thị trường sản
phẩm đang trong xu hướng bão hòa hoặc đã bão hòa. Khi một doanh nghiệp đưa ra
một sản phẩm được coi là có sự khác biệt so với các sản phẩm cạnh tranh thì chỉ
trong một thời gian ngắn, nhanh chóng các doanh nghiệp khác cũng đưa ra những sản
phẩm tương tự và có thể các sản phẩm tương tự này còn được đánh giá cao hơn sản
phẩm của doanh nghiệp đi tiên phong. Điều đó cũng có nghĩa là: doanh nghiệp không
chỉ nỗ lực tạo ra những sản phẩm với những tính năng, kiểu dáng, chất lượng đáp ứng
nhu cầu phong phú của thị trường mà còn phải bổ sung, xây dựng các yếu tố cảm
xúc, tâm lý của khách hàng đối với sản phẩm và đối với doanh nghiệp. Đó chính là
việc kết hợp các yếu tố chức năng sản phẩm với các yếu tố cảm xúc cho một sản
phẩm. Hay nói cách khác, thương hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc làm nổi bật
và khác biệt hóa sản phẩm của doanh nghiệp so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
1.1.2. Đặc tính thương hiệu
1.1.2.1. Khái niệm đặc tính thương hiệu
Đặc tính thương hiệu (Brand Identify) là một thuật ngữ chủ yếu được sử dụng
trong lĩnh vực marketing và truyền thông, thể hiện những định hướng, mục đích và ý
nghĩa của thương hiệu đó. Nó được ví như là trái tim, linh hồn của một thương hiệu.
Đặc tính thương hiệu là một tập hợp chung nhất các liên kết giữa các thuộc tính của
thương hiệu mà một doanh nghiệp mong muốn tạo ra và duy trì trong chiến lược phát
triển thương hiệu của mình. Nó phản ánh cái mà thương hiệu hướng tới, là sự cam
kết của nhà sản xuất đối với khách hàng, là yếu tố tạo nên sự khác biệt trong đánh giá
của khách hàng giữa các thương hiệu.
Đặc tính thương hiệu được doanh nghiệp xây dựng từ việc lựa chọn và kết hợp
các yếu tố của thương hiệu trong hai thành phần cơ bản của một thương hiệu: thành
phần chức năng và thành phẩm cảm xúc. Các công việc phân tích các yếu tố thương
hiệu, lựa chọn các yếu tố cần làm nổi bật càng được thực hiện công phu thì việc tạo
dựng và phát triển thương hiệu càng thuận lợi hơn.
1.1.2.2. Các đặc tính của thương hiệu
a. Đặc tính của thành phần chức năng sản phẩm
Các đặc tính xuất phát từ chức năng sản phẩm luôn là bộ phận cấu thành quan
trọng nên đặc tính của một thương hiệu vì đây là những yếu tố cơ bản liên quan trực
tiếp đến quyết định lựa chọn sản phẩm; đánh giá chất lượng và có sự ảnh hưởng
trong cảm nhận của khách hàng về thương hiệu.
Về tên gọi và chủng loại sản phẩm:
Doanh nghiệp khi kinh doanh một hay nhiều sản phẩm với tên gọi khác nhau,
thuộc cùng một chủng loại sản phẩm hay thuộc nhiều chủng loại sản phẩm đều là
kinh doanh dưới thương hiệu của mình hay dưới thương hiệu của một doanh nghiệp
khác.
Mục đích đặt tên cho sản phẩm là để cho khách hàng biết nó là cái gì, do ai
sản xuất, cung cấp. Một sản phẩm được đánh giá tốt, có một cái tên dễ gọi, dễ nhớ
hay một cái tên thật ấn tượng sẽ được lưu lại trong trí nhớ của khách hàng và khách
hàng cũng sẽ nhớ luôn tên của nhà sản xuất, hãng cung cấp hay nhớ luôn cả thương
hiệu của doanh nghiệp. Ví dụ như khi khát người ta có thể nghĩ đến Cocacola, pepsi
hay một vài sản phẩm của các hãng nước giải khát khác hay khi có nhu cầu mua ô tô
người ta thường mong muốn có được một chiếc xe hiệu Toyota, Ford… một điều tất
nhiên là các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở mong muốn đó. Họ muốn rằng các
sản phẩm của họ không chỉ còn là sự liên tưởng nữa, không còn là sự so sánh khi lựa
chọn giữa các nhãn hiệu mà là một nhu cầu hiện hữu như khi khát người ta sẽ nghĩ
ngay tới cocacola hay khi muốn mua ô tô họ sẽ nghĩ ngay tới một chiếc Toyota chẳng
hạn.
Một vấn đề mà doanh nghiệp phải xem xét, đó là khi doanh nghiệp tiến hành
kinh doanh nhiều loại hàng hóa, vậy doanh nghiệp phải đặt tên cho chúng như thế
nào để uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp không bị tổn hại mà còn được đánh giá
cao trong con mắt của doanh nghiệp không bị tổn hại mà còn được đánh giá cao
trong con mắt của khách hàng. Khi nói đến LG - MECA, người ta nghĩ ngay tới các
sản phẩm điện gia dụng như điều hòa, tủ lạnh, máy giặt, ti vi. Tuy nhiên vẫn còn
những sản phẩm khác không được đánh giá cao như vậy nhưng LG - MECA đã khéo
đặt tên cho chúng để thương hiệu (nhãn hiệu) LG vẫn có được vị trí như hiện nay.
- Về thuộc tính của sản phẩm
Thuộc tính của sản phẩm là các thỏa mãn nhu cầu cơ bản của khách hàng, là
giá trị cốt lõi của sản phẩm và có mối liên hệ trực tiếp tới hành vi của khách hàng.
Thuộc tính của sản phẩm được nói ở đây là những chức năng cơ bản nhất nhằm thỏa
mãn nhu cầu vật chất và một chút nhu cầu tinh thần của khách hàng. Ví dụ như một
người khát, họ không muốn uống nước thường mà muốn một loại nước có đường hay
đơn giản là một người muốn mua một chiếc áo sơ mi sáng màu chẳng hạn. Còn việc
thỏa mãn nhu cầu tinh thần của người tiêu dùng đòi hỏi có sự kết hợp của nhiều yếu
tố và một số đặc điểm của sản phẩm sẽ được chọn để làm cá biệt hóa, nổi bật so với
các sản phẩm cùng loại.
- Về chất lượng, giá trị của sản phẩm:
Chất lượng của sản phẩm là kết quả của việc đánh gía sản phẩm về mức độ
thỏa mãn nhu cầu của khách hàng theo một số tiêu chí nhất định như độ bền, đàn hồi
an toàn, tốt cho sức khỏe,… chất lượng sản phẩm là một yếu tố cạnh tranh và có mối
quan hệ với uy tín của thương hiệu. Một thực tế là chất lượng xe của Mercedes có sự
khác biệt so với xe của DaeWoo và thương hiệu Mercede đã nổi tiếng hơn hẳn so với
Daewoo.
Giá trị của sản phẩm được hiểu là tất cả những hao phí để tạo ra sản phẩm đó
là một cơ sở để doanh nghiệp định giá sản phẩm, nó còn được hiểu là sự cảm nhận
của khách hàng về chất lượng (mức độ thỏa mãn) của sản phẩm đối với họ.
- Tính hữu dụng, chuyên biệt của sản phẩm
Đó là những tính ưu việt của sản phẩm như đa chức năng, tiện lợi, nhanh
chóng, hay kiểu dáng đặc biệt… tạo nên sự khác biệt của sản phẩm và trong một
chừng mực nào đó, khách hàng chỉ có thể sử dụng sản phẩm đó mới thấy thỏa mãn.
- Tính liên kết với người tiêu dùng
Đặc tính này nói lên sự quan tâm của doanh nghiệp dành cho loại khách hàng
mục tiêu nào.
Doanh nghiệp phải xây dựng tiếng nói chung, thương hiệu cho phù hợp với
nhóm khách hàng đã chọn. Mỗi nhóm khách hàng có một đặc tính riêng, nhu cầu
riêng, yêu cầu khác với nhóm khách hàng khác đối với cùng một loại sản phẩm
doanh nghiệp phải cố gắng đáp ứng những yêu cầu đó và phải luôn"lắng nghe" xem
họ muốn cái gì.
- Đặc tính về địa lý:
Đặc tính về địa ý nói địa danh nơi sản xuất ra sản phẩm. Khi giới thiệu sản
phẩm hay đặt tên sản phẩm kèm với địa danh, quốc gia sản xuất thường sẽ làm tăng
thêm sự tin tưởng của khách hàng. Nhưng đôi khi chính yếu tố địa lý này như tên
quốc gia nơi sản xuất sản phẩm cũng sẽ làm giảm sự tin cậy vào sản phẩm.
b. Đặc tính của thành phần cảm xúc
- Thương hiệu như một tổ chức
Đặc tính này nhấn mạnh sự thống nhất giữa các thành phần của một thương
hiệu. Doanh nghiệp phải đảm bảo mục tiêu chung của thương hiệu. Khi tiến hành xây
dựng các phần của thương hiệu. Muốn thương hiệu của doanh nghiệp được khách
hàng ưa chuộng thì ngoài việc sản xuất ra sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách
hàng doanh nghiệp còn phải đồng thời phải thực hiện các hoạt động bổ trợ như quảng
cáo, các chương trình truyền thống, các hoạt động quan hệ công chúng….
- Thương hiệu như một con người.
Như đã trình bày, thương hiệu được so sánh một cách tương đối: "thương hiệu
cũng giống như một con người", được xem xét ở một số đặc điểm như: mức độ tin
cậy, tính hài hước, hóm hỉnh, tính năng động, đứng tuổi (già) hay trẻ trung…
Một doanh nghiệp khi xây dựng thương hiệu thì phải tạo được một cá tính
riêng biệt, như thế thương hiệu đó mới thu hút được nhiều sự quan tâm của khách
hàng. Cũng giống như một người khi được đánh giá là rất bình thường, không có gì
đặc biệt cũng đồng nghĩa với việc người đó không được nhiều người biết đến và một
thương hiệu cũng vậy.
Thương hiệu như một biểu tượng
Thương hiệu được nhìn nhận như bộ mặt của một doanh nghiệp, thể hiện được
sức mạnh, tiềm lực cũng như uy tín của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thế
mạnh về vốn, công nghệ cũng như kỹ thuật sản xuất, kinh nghiệm quản lý… mà chưa
tạo dựng được một vị trí tầm cỡ trên thương trường là chưa biết tự nói về mình theo
đúng cách, chưa xây dựng được một biểu tượng, hình ảnh đầy đủ về doanh nghiệp
mình. Người ta thường chia biểu tượng thương hiệu thành 3 loại biểu tượng.
Biểu tượng hữu hình: được coi là những biểu tượng có hình ảnh ấn tượng, dễ
nhận biết không mang nhiều ý nghĩa sâu xa khách hàng có thể nhanh chóng hiểu
được biểu tượng đó. Biểu tượng của thương hiệu được doanh nghiệp sử dụng kết
hợp với các yếu tố khác của thương hiệu nhằm thu lại một ấn tượng, đánh giá tốt về
doanh nghiệp, sản phẩm trong trí nhớ của khách hàng.
Biểu tượng ẩn dụ: Khác với biểu tượng hữu hình, biểu tượng ẩn dụ có thể là
một hình ảnh, một câu nói nhưng người tiếp nhận không hiểu ngay được hàm ý sâu
xa trong đó mà phải cần có thời gian để cảm nhận nó. Hình ảnh hai vòng líp ồng vào
nhau trên biểu tượng của hãng Toyota, nếu không chú ý nhiều thì khó có thể nhận ra
ẩn dụ đằng sau nó là chiến lược bao phủ toàn cầu cũng như sự tin cậy vào chiếc xe
Toyota, nó có thể cùng bạn phiêu du khắp thế giới.
Biểu tượng từ sự kế thừa: Sự kế thừa ở đây là danh tiếng mà doanh nghiệp
có được từ những thương hiệu nổi tiếng trong cùng một khu vực địa lý. Gốm sứ bát
tràng, rượu Làng Vân hay xu hướng sính hàng ngoại cũng là một ví dụ.
c. Đặc tính của giá tương ứng
Thương hiệu doanh nghiệp có tính phát triển theo thời gian, trong mỗi giai
đoạn nhất định thì nó phải hướng tới sự phù hợp với một phân đoạn thị trường hay
một nhóm khách hàng.
Theo đó, mức giá mà doanh nghiệp đặt ra phải phù hợp với nhóm khách hàng
này.Việc định giá cho sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: giá trị của sản phẩm,
mức thu nhập của khách hàng, trình độ văn hóa, địa vị xã hội của khách hàng… một
sản phẩm có giá cao hơn sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trong suốt một thời gian
dài cho thấy thương hiệu đó là một thương hiệu mạnh và ngược lại.
Việc xác định một mức giá phù hợp là hết sức quan trọng, nó quyết định đến
thái độ, hành vi của khách hàng, đảm bảo mức lợi nhuận tối đa và còn là thể hiện giá
trị thương hiệu của doanh nghiệp.
1.1.3. Chức năng của thương hiệu
Thương hiệu với ý nghĩa là cách nhìn tổng thể về doanh nghiệp, được doanh
nghiệp xây dựng bằng các nguồn lực của mình. Dù thương hiệu của doanh nghiệp có
vị thế như thế nào thì nó cũng thực hiện các chức năng cơ bản sau:
a. Chức năng phân đoạn thị trường
Phân đoạn thị trường, xác định khách hàng mục tiêu là bước đầu trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cố gắng đưa ra nhiều đặc tính của
sản phẩm phù hợp với nhu cầu của các nhóm khách hàng, cung cấp các dịch vụ hỗ
trợ, xây dựng chương trình truyền thông…. thực chất đây chính là quá trình doanh
nghiệp xây dựng thương hiệu của mình. Thông qua thương hiệu, doanh nghiệp muốn
gửi gắn tới khách hàng của họ, chúng tôi sẽ cố gắng làm các bạn hài lòng. Do đó, khi
xây dựng thương hiệu của mình các doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi.
- Đặc tính hay nhu cầu của những nhóm khách hàng nào mà sản phẩm của
doanh nghiệp có thể đáp ứng.
- Những thuộc tính của sản phẩm đã thực sự phù hợp với khách hàng chưa, có
cần thay đổi, bổ sung gì không:
- Các dịch vụ hỗ trợ, chương trình truyền thống cần hướng tới việc đáp ứng
nhu cầu vật chất, nhu cầu tâm lý, cảm xúc nào của khách hàng? Trả lời chính xác các
câu hỏi trên sẽ giúp doanh nghiệp lựa chọn đúng phân đoạn thị trường và việc thâm
nhập, đứng vững trên thị trường đó cũng được đảm bảo.
b. Tạo nên sự khác biệt trong quá trình phát triển của sản phẩm
Chức năng này xuất phát từ mong muốn của doanh nghiệp trong việc tạo dựng
một hình ảnh riêng của mình, tạo dựng một tính cách riêng cho thương hiệu của
doanh nghiệp. Muốn sản phẩm của doanh nghiệp được đón nhận một cách nồng nhiệt
thì đòi hỏi bản thân sản phẩm đó phải có được những bước đột phá, những khác biệt
so với các sản phẩm cạnh tranh. Nhưng với tính cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh
nghiệp thì sự khác biệt đó cũng sẽ nhanh chóng được phổ biến cho các sản phẩm
khác, nhiều khi các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh được tung ra thị trường chỉ sau
sản phẩm của doanh nghiệp không lâu lại thu được sự thành công lớn hơn do họ đã
biết kế thừa từ sản phẩm của doanh nghiệp và đưa thêm một vài yếu tố khác. Trên
thực tế, các yếu tố của công nghệ sản xuất sản phẩm, kiểu dáng sản phẩm tuy được
bảo hộ nhưng các đối thủ cạnh tranh vẫn có thể bằng cách nào đó đã bắt chước được
các đặc tính này. Thế nên cái ranh giới khác biệt của bản thân sản phẩm không mang
tính bền vững mà đôi khi doanh nghiệp phải tốn rất nhiều công sức để giữ được các
ranh giới mong manh đó. Một cách mà các doanh nghiệp vẫn sử dụng để tạo ra sự
khác biệt cho sản phẩm đó là kết hợp các dịch vụ đi kèm, chương trình truyền thông
kết hợp với một chút thay đổi của sản phẩm đã có thể có được sự khác biệt rất lớn.
Đó cũng chính là cách mà doanh nghiệp làm mới cho thương hiệu của mình.
c. Đưa sản phẩm khắc sâu vào tâm trí khách hàng
Thông qua các chương trình quảng cáo hay các hoạt động marketing mà thành
phần cảm xúc của thương hiệu doanh nghiệp sẽ được khách hàng cảm nhận và dần in
sâu vào trong tâm trí của họ. Để đạt được điều này đòi hỏi các hoạt động đó phải
được truyền tải một cách nhất quán thường xuyên với cùng một thông điệp. Có thể
một cái tên cụ thể của một sản phẩm nào đó không được khách hàng nhớ lâu nhưng
một thương hiệu đã được yêu mến sẽ tồn tại trong hồi ức của họ.
d. Đưa ra phương hướng và ý nghĩa cho sản phẩm
Thông thường khi giới thiệu 1 thương hiệu tới khách hàng thì phần giới thiệu
đó cũng chứa đựng thông tin về sản phẩm. Ngoài việc thiết lập một thông điệp gửi tới
khách hàng, doanh nghiệp cũng luôn cố gắng cải tiến công nghệ sản xuất, cải tiến sản
phẩm, bổ sung các tính năng mới cho sản phẩm. Do đó, các hoạt động xây dựng và
phát triển thương hiệu phải có tính linh hoạt nhưng đồng thời vẫn giữ được cốt cách
của thông điệp hay đảm bảo tính nhất quán đối với phương hướng phát triển và ý
nghĩa của sản phẩm.
e. Là cam kết của nhà sản xuất với khách hàng
Thương hiệu theo nghĩa đầy đủ, nó cũng là thông điệp mà doanh nghiệp gửi
tới khách hàng của họ. Trong các chương trình quảng cáo, truyền thông hay các hoạt
động quan hệ công chúng (PR)doanh nghiệp sẽ trực tiếp hay gián tiếp nói lời cam
kết, họ sẽ thực hiện: nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bảo vệ môi trường, quan
tâm tới đời sống của người lao động, người nghèo…. cùng với thời gian, nếu doanh
nghiệp nghiêm túc thực hiện các cam kết đó thì chắc chắn thương hiệu sẽ nhận được
cảm nhận tốt đẹp và sự trung thành của khách hàng.
Có được sự trung thành của khách hàng là một mục tiêu quan trọng của doanh
nghiệp. Đó là một lợi thế rất lớn đối với doanh nghiệp vì có thể trong giai đoạn nào
đó sản phẩm và một số yếu tố khác của doanh nghiệp không được đánh giá cao hơn
đối thủ cạnh tranh nhưng khách hàng vẫn tin dùng với hy vọng rồi những yếu tố đó
sẽ được doanh nghiệp cải thiện tốt hơn.
Chính vì điều đó mà mặc dù các cam kết đó không mang tính ràng buộc pháp
lý, song để phát triển thương hiệu một cách bền vững thì doanh nghiệp phải thực hiện
đúng lời hứa của mình.
1.1.4. Vai trò của thương hiệu
a. Đối với cơ quan quản lý
- Là cơ sở để các cơ quan quản lý các hoạt động liên quan đến bảo hộ các yếu
tố của một thương hiệu doanh nghiệp, cấm các hành vi nhái tên nhãn hiệu, thương
hiệu của sản phẩm
- Giúp cơ quan quản lý xử lý chính xác các vi phạm bản quyền bảo hộ trí tuệ,
xử lý các hành vi làm hàng giả, hàng nhái kém chất lượng.
b. Đối với doanh nghiệp
Vai trò của thương hiệu đối với một doanh nghiệp thể hiện ở điểm sau:
- Thương hiệu làm tăng giá trị của sản phẩm
- Là công cụ để nhận diện và khác biệt hóa sản phẩm
- Là phương tiện để bảo vệ các lợi thế và đặc điểm riêng có của sản phẩm;
dịch vụ của doanh nghiệp.
- Giúp đưa sản phẩm ăn sâu vào tâm trí khách hàng
- Thương hiệu còn là khẳng định đẳng cấp các sản phẩm của doanh nghiệp
- Là tập hợp các lợi thế cạnh tranh và là nguồn gốc của lợi nhuận.
c. Đối với người tiêu dùng
- Thương hiệu khi được khách hàng biết đến, quan tâm thì họ cũng có được
những thông tin về sản phẩm, nhà sản xuất, nhà cung cấp. Do đó nó giúp người tiêu
dùng xác định được xuất xứ của sản phẩm và ai là người chịu trách nhiệm về chất
lượng sản phẩm.
- Giúp giảm thiểu rủi ro trong tiêu dùng. Người tiêu dùng thường chỉ sử dụng
các sản phẩm của một số thương hiệu ưa thích. Do đó nguy cơ mua phải hàng giả,
hàng có hại cho sức khỏe là được hạn chế.
- Giúp người tiêu dùng tiết kiệm được chi phí tìm kiếm. Những thông tin về
sản phẩm của doanh nghiệp, về doanh nghiệp sẽ được khách hàng lưu lại trong "sổ
tay" của mình nếu họ cảm thấy ưa thích hay tin tưởng. Những thông tin này có thể do
khách hàng tự tìm kiếm hay vô tình có được và khi cần mua một món đồ nào đó,
khách hàng chỉ cần "tra cứu" trong 'sổ tay" của mình những thông tin cần thiết.
- Thương hiệu giúp khách hàng khẳng định giá trị bản thân. Đây là một trong
những chức năng trong yếu tố cảm xúc của một thương hiệu. Các doanh nghiệp
thường xây dựng những giá trị hay hình ảnh phong cách những khách hàng của họ
gắn với việc sử dụng sản phẩm mang thương hiệu của doanh nghiệp đó. Ví dụ như sử
dụng xe Mercedes được coi là lịch lãm, sang trọng hay thương hiệu thuốc lá Marboro
với hình ảnh chàng cao bồi thể hiện một cách sống phong lưu, phóng khoáng.
- Một thương hiệu bao giờ cũng mang tính sâu và rộng hơn một nhãn hiệu.
Khi khách hàng đã có niềm tin vào thương hiệu thì họ cảm thấy yên tâm về sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và có thể dễ chấp nhận một loại sản phẩm mới của
doanh nghiệp một cách dễ dàng hơn.
1.2. Xây dựng và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp
1.2.1. Nguyên tắc xây dựng thương hiệu doanh nghiệp
Nguyên tắc 1: Quy luật cho những người thích đủ thứ
Theo nhà kinh tế AlRies: "Sức mạnh của thương hiệu tỉ lệ nghịch với sự bành
trướng của nó". Điều đó cũng có nghĩa là nếu doanh nghiệp muốn phát triển thương
hiệu của mình thì nó phải từ bỏ xu hướng "bách hóa tổng hợp". Bởi xu hướng này sẽ
làm cho thương hiệu của doanh nghiệp yếu đi vì mong muốn quá nhiều thứ từ thương
hiệu.
Nguyên tắc 2: Quy luật của sự tập trung:
Nguyên tắc này chỉ ra rằng, thương hiệu phải được xây dựng với các nguồn
lực của doanh nghiệp. Mục tiêu của một thương hiệu là phải đạt được một vị thế ngày
một cao hơn. Muốn đạt được mục tiêu đó thì doanh nghiệp cần tập trung xây dựng
thương hiệu với một số đặc tính cụ thể, không phải đặc tính nào cũng tập trung các
nguồn lực xây dựng nó.
Nguyên tắc 3: Quy luật của quan hệ công chúng
Mục đích của các hoạt động quan hệ công chúng là doanh nghiệp muốn dành
được thiện cảm của các khách hàng, các doanh nghiệp các tổ chức khác có liên quan,
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các hoạt động quan hệ công
chúng là khá rộng và các chương trình quảng cáo thì chủ yếu thực hiện chức năng
giới thiệu chứ chưa mang nhiều yếu tố công chúng ở trong đó.Thông thường các
thương hiệu mạnh họ thường thực hiện đồng thời các hoạt động này. Bột giặt OMO
là một ví dụ.
Chương trình quảng cáo về bột giặt OMO vẫn thường xuyên xuất hiện trên
truyền hình và đồng thời hãng còn là nhà tài trợ chính cho chương trình hỗ trợ người
nghèo, chương trình "vượt lên chính mình" cũng thật vui và cảm động.
Nguyên tắc 4: Quy luật quảng cáo
Muốn thương hiệu của doanh nghiệp được phát triển thì không thể thiếu các
chương trình quảng cáo, kế hoạch quảng cáo trong một kế hoạch kinh doanh. Các
chương trình truyền thông hay các hoạt động quan hệ công chúng thực sự đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Nhưng để có được một chương trình phù hợp đòi hỏi rất nhiều
công phu, chi phí lớn, hơn nữa nó còn phụ thuộc nhiều vào các cơ quan chức năng,
các yếu tố khách quan khác… và các chương trình hay hoạt động cộng đồng cũng
không thể tổ chức một cách thường xuyên mà nó được hỗ trợ vào đó bằng các
chương trình quảng cáo. Các chương trình quảng có ưu điểm là tính linh hoạt, mức
chi phí thấp hơn so với một chương trình truyền thông. Tuy nhiên không phải doanh
nghiệp nào cũng sẵn sàng bỏ ra một khoản chi phí đáng kể cho một chương trình
quảng cáo. Trong mỗi giai đoạn hay thời điểm khác nhau thì doanh nghiệp phải biết
chọn lựa hình thức, kiểu quảng cáo cho phù hợp. Có thể là quảng cáo trên truyền
hình, truyền thanh, tạp chí… quảng cáo giới thiệu, quảng cáo duy trì…
Nguyên tắc 5: Quy luật của sự bảo chứng
Sự bảo chứng của thương hiệu thể hiện mối quan hệ giữa giá trị thương hiệu
với sự tương quan các tiềm lực của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp mạnh thì dù
bằng cách này hay cách khác thương hiệu quả doanh nghiệp cũng sẽ được nhiều
người biết đến và giá trị của thương hiệu đó cũng được đánh giá cao. Trên thực tế đã
có nhiều hợp đồng kinh doanh trị giá hàng tỉ USD từ việc chuyển nhượng thương
hiệu, nhãn hiệu hay các hoạt động kinh doanh nhượng quyền cũng là một thể hiện
của sự bảo chứng này.
Nguyên tắc 6: Quy luật của một cái tên
Tên thương hiệu là yếu tố cơ bản và quan trọng của một thương hiệu và là yếu
tố tạo nên mối liên hệ giữa doanh nghiệp sản phẩm nhằm có được sự chú ý, quan tâm
của khách hàng. Tên thương hiệu cần phải có sự khác biệt với thương hiệu khác.
Nguyên tắc đặt tên cho thương hiệu cũng tương tự như nguyên tắc đặt tên cho một
sản phẩm: không phạm huý khi dịch ra các ngôn ngữ khác, ngắn gọn, ấn tượng, dễ
nhớ…
Nguyên tắc 7: Quy luật của chất lượng
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị thương hiệu sản
phẩm, thương mại doanh nghiệp. Một sản phẩm có chất lượng tốt là cơ sở cho sự
phát triển thương hiệu và ngược lại một sản phẩm có chất lượng tồi sẽ kéo dài sự
phát triển của thương hiệu. Quy luật chất lượng ở đây không chỉ là chất lượng của
sản phẩm mà là doanh nghiệp ngoài việc đảm bảo chất lượng cho sản phẩm còn phải
nâng cao chất lượng dịch vụ, công tác khác trong việc phục vụ nhu cầu khách hàng.
Nguyên tắc 8: Quy luật giá cả
Việc đặt giá cho sản phẩm là một chiến lược. Có thể là chiến lược đặt giá cao
(giá "hớt váng"), chiến lược đặt giá cạnh tranh (dựa vào giá sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh), chiến lược đặt giá thâm nhập. Tuy nhiên các chiến lược đặt giá vừa nêu
chưa tính đến yếu tố thương hiệu của doanh nghiệp. Ngày nay, để doanh nghiệp có
thể đưa ra một mức giá phù hợp thì không thể không xem xét tới yếu tố thương hiệu
của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 9: Quy luật của sự nhất quán và kiên định
Xây dựng được một thương hiệu mạnh là điều mà các doanh nghiệp luôn khao
khá vươn tới. Nhưng để có thể là hàng chục năm. Thật là điều không dễ dàng đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi mà tiềm lực về vốn, công nghệ, nhân lực đều là rất
hạn chế so với các đối thủ.
Vì vậy các doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển
thương hiệu và kiên định thực hiện từng bước để đạt được mục tiêu.
1.2.2. Quy trình xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp
Xây dựng thương hiệu là quá trình lựa chọn, kết hợp giữa các yếu tố cấu thành
của thương hiệu: yếu tố chức năng sản phẩm, yếu tố cảm xúc, yếu tố hữu hình cũng
như yếu tố vô hình với mục đích tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm của doanh
nghiệp.
Quy trình xây dựng thương hiệu doanh nghiệp được thực hiện theo trình tự
năm bước như sau:
Bước 1: Xác định cấu trúc nền móng
Có thể nói đây là bước quan trọng nhất trong các bước xây dựng thương hiệu.
Trong bước này doanh nghiệp cần xác định các yếu tố của một thương hiệu để có thể
tiến hành xây dựng chúng, một số yếu tố mà doanh nghiệp phải nắm được đó là:
- Xác định các yếu tố cơ bản của doanh nghiệp: tên thương hiệu, logo, khẩu
hiệu, màu sắc và các yếu tố đặc trưng khác.
- Lợi ích của thương hiệu: gồm lợi ích kinh tế và lợi ích mang yếu tố cảm tính,
cảm xúc.
- Niềm tin vào thương hiệu: Doanh nghiệp có được niềm tin của khách hàng
khi và chỉ khi nó biết tự xây dựng chữ tín đối với khách hàng. Luôn thực hiện đúng
những cam kết và truyền tải các thông điệp tới khách hàng của nó.
- Tính cách thương hiệu: Xây dựng một thương hiệu là đồng thời tạo nét khác
biệt của thương hiệu đó với các thương hiệu cạnh tranh. Thương hiệu cũng giống như
một con người với một phong cách riêng, nếu con người ấy có nhiều ưu điểm, phong
cách phù hợp với nhóm nào thì người đó sẽ có được sự yêu mến của họ.
Bước 2: Định vị thương hiệu
Thương hiệu là sự kết hợp các yếu tố một cách đồng nhất, phù hợp giữa các
yếu tố từ chất lượng sản phẩm, kiểu dáng sản phẩm, các hoạt động truyền thông, đến
uy tín của doanh nghiệp… và một thương hiệu bao giờ cũng hướng tới một nhóm
khách hàng, đoạn thị trường nhất định. Với định hướng đó, thương hiệu được xây
dựng sao cho phù hợp với những nhu cầu, kỳ vọng của khách hàng. Doanh nghiệp
không thể đưa ra một chương trình quảng cáo về sản phẩm, dịch vụ của mình như là
số 1 thế giới khi doanh nghiệp chưa có được uy tín, tiếng vang gì. Nếu thực sự sản
phẩm của doanh nghiệp có sự vượt bậc về chất lượng, kiểu dáng, tính năng thì doanh
nghiệp cũng cần phải có thời gian và các hoạt động hỗ trợ để đưa sản phẩm trở nên
nổi tiếng.
Bước 3: Xây dựng chiến lược thương hiệu
Sau khi đã định vị được thương hiệu của mình doanh nghiệp phải xây dựng
một chiến lược phát triển thương hiệu trong dài hạn:
- Xác định mục tiêu của thương hiệu cho từng năm.
- Dự kiến mức chi phí cho các hoạt động quảng cáo, quảng bá thương hiệu
trong năm.
- Xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm, các dịch vụ hỗ trợ cũng như các
yếu tố cảm xúc của thương hiệu.
Bước 4: Xây dựng chiến dịch truyền thông
Một thương hiệu mạnh không thể không có các chương trình truyền thông
(bao gồm cả quảng cáo) hay các hoạt động khác nhằm giới thiệu sản phẩm, thương
hiệuđó tới khách hàng. Trong bước này doanh nghiệp cần:
- Lập kế hoạch truyền thông: lựa chọn hình thức, số lần xuất hiện trong một
khoảng thời gian, nội dung cho mỗi chương trình.
- Dự trù mức chi phí để thực hiện kế hoạch truyền thông.
Bước 5: Đo lường và hiệu chỉnh kế hoạch truyền thông.
Sau mỗi giai đoạn truyền thông, doanh nghiệp phải tiến hành đánh giá hiệu
quả của chiến dịch, và doanh nghiệp còn phải luôn lắng nghe, thu thập mọi thông tin
phản hồi từ phía khách hàng, công chúng về các hoạt động truyền thông, về thương
hiệu của doanh nghiệp. Các thông tin cần có được là:
- Có bao nhiêu phần trăm người tiêu dùng biết đến thương hiệu.
- Khách hàng có nhận xét gì về thương hiệu, họ thấy ấn tượng, nhớ điểm đặc
biệt nào của thương hiệu.
- Có bao nhiêu người dùng thử sản phẩm mang thương hiệu của doanh nghiệp,
họ vẫn sẽ tiếp tục dùng nữa hay không.
- Người tiêu dùng có thực sự hài lòng về sản phẩm và các dịch vụ của doanh
nghiệp, họ có giới thiệu thương hiệu đó cho người khác không.
Có được những thông tin trên, doanh nghiệp sẽ đánh giá được mức độ hài lòng
của khách hàng, xác định được điểm mạnh của thương hiệu, các yếu tố cần phải thay
đổi cho phù hợp với sở thích, thị hiếu của khách hàng và có được sự đồng tình của
cộng đồng.
1.2.3. Chiến lược phát triển thương hiệu của doanh nghiệp
Để thương hiệu doanh nghiệp ngày một phát triển, đạt được vị thế cao trên
thương trường, các doanh nghiệp phải đặt vấn đề này trong một chiến lược tạo dựng
và phát triển thương hiệu một cách toàn diện.
1.2.3.1. Chiến lược phát triển thành phần chức năng sản phẩm
Sản phẩm là yếu tố cốt lõi của một thương hiệu, một thương hiệu không thể
nổi tiếng nếu không có được sản phẩm chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp, tiện lợi khi sử
dụng…
Chất lượng sản phẩm được khách hàng cảm nhận khi sử dụng nó và còn là sự
so sánh tương quan sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm cạnh tranh. Do đó các
doanh nghiệp luôn cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng các
dịch vụ hỗ trợ. Mô hình quản lý chất lượng được nhiều doanh nghiệp áp dụng hiện
nay là mô hình TQM (Total Quality Management) - Mô hình quản lý chất lượng toàn
diện. Các nguyên tắc của TQM.
- Chất lượng sản phẩm phải do và được khách hàng cảm nhận.
- Chất lượng phải được đánh giá qua từng hoạt động của công ty chứ không
chỉ riêng sản phẩm.
- Chất lượng đòi hỏi sự cam kết của toàn bộ nhân viên trong công ty.
- Chất lượng đòi hỏi các yếu tố phải được đảm bảo.
- Chất lượng phải luôn được cải thiện.
- Tăng chất lượng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với tăng chi phí.
- Chất lượng là quan trọng nhưng để riêng chất lượng thì chưa đủ.
Một mô hình quản lý chất lượng khác cũng được coi là khá toàn diện. Mô hình
của Michael Porter (Đại học Havard). Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm các
doanh nghiệp cần thực hiện tốt các bước sau:
- Thiết kế sản phẩm: Thiết kế sản phẩm theo mong muốn của khách hàng.
- Tiến hành sản xuất: Phải sản xuất theo đúng quy trình chất lượng đã thiết kế
hoặc đăng ký.
- Tiếp thị sản phẩm: là tiến hành các hoạt động quảng cáo, tuyên truyền nhằm
giới thiệu sản phẩm tới khách hàng.
- Phân phối sản phẩm: Lựa chọn kênh phân phối phù hợp, đáp ứng nhanh yêu
cầu của khách hàng.
- Dịch vụ hỗ trợ: thực hiện đầy đủ các dịch vụ hỗ trợ nhằm làm tăng giá trị cho
sản phẩm.
Như vậy, nếu doanh nghiệp làm tốt từ khâu thiết kế đến khi sản phẩm tới tay
người tiêu dùng sẽ đảm bảo sản phẩm đó được khách hàng cảm nhận, đánh giá cao
về chất lượng, giá trị của nó. Theo đó nếu doanh nghiệp có được nguồn nguyên liệu
tốt, công đoạn sản xuất được đảm bảo, vận chuyển an toán, nhanh chóng, cộng với
thái độ phục vụ niềm nở của nhân viên… thì chắc chắn sẽ có được sự thiện cảm của
khách hàng và qua đó làm tăng giá trị thương hiệu của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Chiến lược phát triển thành phần cảm xúc
Ngoài những yếu tố cơ bản tạo nên cảm nhận mang tính trực tiếp như: tên
thương hiệu, logo và biểu tượng, khẩu hiệu, âm thanh phụ trợ, bao bì sản phẩm,
doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển các yếu tố khác của thành phần cảm xúc.
Phát triển các hoạt động xúc tiến
Mục tiêu của hoạt động xúc tiến là đẩy nhanh mức tiêu thụ hàng hóa thông
qua việc giới thiệu sản phẩm, quảng bá thương hiệu. Quảng bá thương hiệu phải trên
cơ sở chiến lược phát triển chung của doanh nghiệp.
Thị trường mục tiêu hiện tại của doanh nghiệp là những nhóm khách hàng
nào, là ai thì các chương trình xúc tiến cũng phải hướng tới những người đó.
Một chương trình xúc tiến bao giờ cũng phải được thiết kế với nội dung cụ
thể, tạo được ấn tượng, sự độc đáo riêng. Đó là yêu cầu của một chương trình xúc
tiến. Bên cạnh đó thì vấn đề ngân sách để thực hiện một chương trình quảng bá là
không nhỏ. Theo kinh nghiệm của các doanh nghiệp có thương hiệu nổi tiếng, không
phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể tự mình làm tất cả các công việc, có nhiều
việc quan trọng mà họ phải đi thuê bên ngoài như thiết kế logo, khẩu hiệu, tên
thương hiệu, hay chương trình quảng cáo, truyền thông… với mức phí không hề nhỏ.
Và bước cuối cùng là doanh nghiệp phải tiến hành đánh giá hiệu quả của các
chương trình xúc tiến, xem xét điều chỉnh, bổ sung trong các chương trình tiếp theo.
Phát triển yếu tố con người trong doanh nghiệp
Phong cách, cách sống của một nhà lãnh đạo có mối liên hệ rất gần gũi với
triết lý kinh doanh của một doanh nghiệp hay nhìn rộng hơn thì hình ảnh của doanh
nghiệp cũng được phản ánh một phần qua tính cách và đặc điểm của nhân viên trong
doanh nghiệp đó. Các nhân viên trong doanh nghiệp không chỉ có trình độ và kỹ
năng làm việc mà họ cần phải có cả phong cách phù hợp với văn hóa của doanh
nghiệp, có ý thức xây dựng và phát triển thương hiệu quả doanh nghiệp. Hàng năm,
hãng Prudential thường có các khóa đào tạo về phong cách, tác phong cho các nhân
viên của mình thông qua các chuyến du lịch và tham quan. Các nhân viên được tham
gia các hoạt động tập thể, họ được học từ cách mỉm cười như thế nào, đến ánh mắt,
hướng nhìn… do vậy khi tiếp xúc với nhân viên của Prudential, khách hàng sẽ cảm
thấy thân thiện và tin tưởng ở nhân viên đó. Và một ví dụ thường thấy hơn là yêu cầu
"ngoại hình khá" đã trở nên phổ biến trong các tiêu chí tuyển dụng của các doanh
nghiệp.
Để phát triển yếu tố con người, doanh nghiệp cần thực hiện tốt các công tác
nhân lực ngay từ khâu tuyển dụng:
- Lựa chọn hình thức tuyển dụng phù hợp, tuyển chọn được nhân lực tốt nhằm
tạo cho doanh nghiệp có một nguồn nhân lực mạnh mẽ.
- Tiến hành đào tạo lại, đào tạo thường xuyên để họ biết "lắng nghe" khách
hàng, biết đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng và quan trọng là họ có ý thức,
kiến thức về xây dựng và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp.
- Sắp xếp hợp lý các vị trí, trả lương thỏa đáng để người lao động yên tâm làm
việc, tạo môi trường thuận lợi để họ có cơ hội phát huy hết khả năng.
Về hoạt động phân phối, kênh phân phối.
Phân phối sản phẩm là việc chuyển sản phẩm của doanh nghiệp đến người tiêu
dùng. Có hai kênh phân phối mà doanh nghiệp sử dụng là kênh trực tiếp và kênh gián
tiếp.
Kênh trực tiếp: là việc sử dụng các nhân viên của mình để trực tiếp cung cấp
sản phẩm cho khách hàng, trực tiếp quản lý các hoạt động giao dịch, cung ứng này.
Kênh gián tiếp: doanh nghiệp bán sản phẩm thông qua một hoặc nhiều đại lý
trung gian.
Việc sử dụng kênh phân phối nào còn tùy thuộc vào quy mô sản xuất của
doanh nghiệp, đặc điểm của sản phẩm. Thông thường các doanh nghiệp sử dụng
đồng thời cả hai kênh này. Nếu là trực tiếp phân phối, doanh nghiệp có thể quan sát
thái độ, hành vi của khách hàng, trực tiếp đặt ra các câu hỏi cho khách hàng cũng như
có được thông tin phản hồi của khách hàng về sản phẩm nhưng doanh nghiệp không
thể trực tiếp quản lý quá nhiều các cửa hàng, trung tâm bán và giới thiệu sản phẩm.
Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp kinh doanh siêu thị có tên tuổi, họ có thế mạnh
trong nghiệp vụ bán hàng và uy tín trên thị trường. Việc sử dụng các siêu thị, cửa
hàng bán lẻ ngoài doanh nghiệp sẽ giúp sản phẩm của doanh nghiệp nhanh chóng bao
phủ thị trường.
Nhìn chung một kênh phân phối có thể hỗ trợ cho việc tạo dựng và phát triển
thương hiệu phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Phải có đội ngũ nhân viên được đào tạo về nghiệp vụ bán hàng; thực hiện các
giao dịch một cách nhanh chóng.
- Một kênh phân phối, ngoài chức năng chính của nó là bán hàng nó còn phải
thực hiện chức năng truyền thông ở trong đó. Các nhân viên phải có sự hiểu biết nhất
định về sản phẩm, thương hiệu sản phẩm doanh nghiệp để giới thiệu và trả lời các
câu hỏi của khách hàng.
- Các nhân viên bán hàng còn phải thực hiện cả chức năng tư vấn vì nhiều khi
khách hàng không biết lựa chọn loại sản phẩm nào trong rất nhiều loại sản phẩm. Khi
đó người bán phải biết tư vấn cho họ nên chọn sản phẩm nào là phù hợp nhất.