Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

(TIỂU LUẬN) trình bày sự phát triển của chế định pháp luật về công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp của việt nam cho ví dụ minh hoạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 11 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN:
LUẬT THƯƠNG MẠI 1

HỌ TÊN : NGUYỄN NGỌC YẾN
MSSV

: VB2TKS759

LỚP

: VB2TKS7

Quảng Ninh, 2022


ĐỀ TL TM1.09
Trình bày sự phát triển của chế định pháp luật về công ty hợp danh
theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam. Cho ví dụ minh hoạ.
BÀI LÀM
Cơng ty hợp danh là một hình thức cơng ty ra đời sớm nhất trong lịch
sử các loại hình doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong Luật Doanh nghiệp năm
1999, công ty hợp danh xuất hiện lần đầu như một loại hình doanh nghiệp
mới. Việc có mặt của loại hình doanh nghiệp này đã mở rộng sự lựa chọn hơn
nữa cho các nhà kinh doanh, thu hút được nguồn vốn cả trong và ngoài nước,
thúc đẩy mở rộng hợp tác quốc tế trong quá trình hội nhập. Các Luật Doanh
nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm
2020 tiếp tục củng cố chặt chẽ hơn những quy định về công ty hợp danh.



1. Khái niệm
Căn cứ theo khoản 10, Điều 4 của Luật doanh nghiệp năm 2020 quy
định như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích kinh doanh.”. Như vậy doanh nghiệp hay cịn gọi là
cơng ty là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch và được
thành lập hợp pháp theo đúng trình tự thủ tục quy định.
Tại Điều 177 của Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định cụ thể:
“Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a)

Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng

nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh).
Ngoài các thành viên hợp danh, cơng ty có thể có thêm thành viên góp vốn;

b)

Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn

bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty;
c)

Thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về

các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào cơng ty.

1



Cơng ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khốn
nào.”
Có thể thấy rằng, cơng ty hợp danh là loại hình đặc trưng của cơng ty đối
nhân. Cơng ty đối nhân là những công ty thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ
bởi độ tin cậy về nhân thân giữa các thành viên tham gia, việc vốn góp chỉ là yếu
tố thứ yếu; thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản là công ty hợp danh và công ty
hợp vốn đơn giản. Một công ty hợp danh được thành lập nếu ít nhất có hai thành
viên và phải cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm vô hạn, tức là chủ nợ có thể địi
bất kì thành viên nào tồn bộ số nợ của cơng ty và trách nhiệm này của các thành
viên là như nhau, nếu giữa họ có sự thỏa thuận nào khác về việc chịu trách nhiệm
tài sản thì sẽ lập tức chuyển sang loại hình công ty hợp vốn đơn giản. Khác với
công ty hợp danh, cơng ty hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên chịu trách
nhiệm tài sản khác nhau, có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn
(thành viên nhận vốn) còn các thành viên khác chịu trách nhiệm hữu hạn (thành
viên góp vốn). Có thể thấy, khái niệm cơng ty hợp danh theo Luật Doanh nghiêp
năm 2020 có nội hàm từ khái niệm công ty đối nhân theo pháp luật các nước,
khác biệt ở chỗ nó bao hàm chung cả hai loại công ty hợp danh và công ty hợp
vốn đơn giản. Việc gộp chung hai loại hình này dựa trên những điểm tương tự về
mặt quy chế pháp lí của chúng là điểm riêng của Luật doanh nghiệp Việt Nam
khi định nghĩa về công ty hợp danh.

2. Lịch sử hình thành và phát triển của cơng ty hợp danh
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty hợp danh trên thế giới

Công ty là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế, là một hiện tượng
kinh tế đặc biệt ra đời từ rất lâu và đem lại lợi ích quan trọng cho lồi người.
Một trong những loại hình cơng ty có mặt sớm nhất trong lịch sử đó là cơng ty

hợp danh. Người ta đã tìm thấy những quy định về sự hợp danh theo nghĩa
rộng trong các bộ luật thời cổ đại như Bộ luật Hammurabi của Babylon vào
2


khoảng năm 2300 trước Công nguyên. Khái niệm hợp danh theo Đạo Luật
Justinian của đế chế La Mã cổ đại vào thể kỉ thứ VI, xét về bản chất khơng
có khác biệt trong pháp luật hiện nay.
Sau đó đến các thời kì Trung đại, đến cuối thế kỉ XVII rồi ở Thụy Điển,
dần dần hình thành hình thức “hợp danh” rõ ràng hơn. Năm 1776, Mỹ giành
được độc lập và áp dụng hệ thống thơng lệ của Anh. Từ đó luật Pháp về công
ty hợp danh bắt đầu được áp dụng ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ thứ XIX, công ty hợp
danh trở thành loại hình kinh doanh quan trọng nhất ở Mỹ. Ngày nay, hệ thống
pháp luật thông lệ điều chỉnh công ty hợp danh được thay thế bằng đạo luật
cơng ty hợp danh hay cịn gọi là Luật thống nhất về công ty hợp danh
(Uniform Partnership). Thêm nữa, cơng ty hợp danh được hình thành và phát
triển từ những nguyên tắc của chế định đại diện xuất phát từ những đòi hỏi
của nền kinh tế thị trường về liên kết kinh doanh tập trung và tích tụ tư bản ở
những mức độ và dưới những dạng thức khác nhau.


châu Âu, châu Á, tập quán kinh doanh của các thương nhân, sự

liên kết những phường, hội người buôn là tiền đề ban đầu hình thành nên
những hình thức hợp danh sau này. Ban đầu, công ty chỉ là những liên kết
giản đơn của các thương nhân quen biết nhau, sự quen biết dựa trên yếu tố
nhân thân tạo nên sự tin cậy về mặt tâm lý. Do đó, loại hình cơng ty đầu tiên
ra đời trên thế giới là công ty đối nhân, tức là công ty gồm các thành viên
quen biết tin nhau liên kết lại, yếu tố con người quan trọng hơn yếu tố vốn.
2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của cơng ty hợp danh ở Việt Nam


Tại Việt Nam, loại hình cơng ty hợp danh ra đời muộn so với thế giới
do ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế, lịch sử xã hội… Vốn là một nước trọng về
nông nghiệp nên trước kia lịch sử phát triển kinh tế nước ta mang đặc trưng là
kinh tế nơng nghiệp chiếm giữ vị trí chủ đạo, hoạt động thương mại vốn
không phải là thế mạnh. Thương mại Việt Nam chủ yếu diễn ra ở các chợ, tổ
chức sơ sài, quan hệ kinh doanh mang tính chất gia đình. Bởi vậy, các loại
hình cơng ty ra đời muộn so với các nước trên thế giới, trong đó có cơng
3


ty hợp danh. Mãi đến tận thế kỷ XIX, theo chân thực dân Pháp, người dân
Việt Nam được làm quen với các mơ hình cơng ty. Cùng với Luật Dân sự
và Thương mại, người Pháp đã mang luật công ty của họ vào Việt Nam như
một sự cấy ghép pháp luật cưỡng bức trong điều kiện bóc lột và phân biệt
đối xử hà khắc của kẻ xâm lược với người bị thống trị. Vì thế, chỉ một bộ
phận rất nhỏ các nhà kinh doanh ở các đô thị lớn, mà chủ yếu là người
nước ngoài, mới được biết đến luật cơng ty thời pháp thuộc. Các tịa án ở
Nam Kỳ sử dụng Bộ luật Thương mại (1987), Luật Công ty trách nhiệm
hữu hạn (1925) làm nguồn khi giải quyết vụ án kinh tế.
Các bộ Dân luật: Dân luật Bắc Kỳ (1931), Dân luật Trung Kỳ (1936) đã
dịch các mơ hình công ty dưới tên gọi "hội buôn", "hội người", "hội vố n",
"hội đồng lợi"… nhằm phân biệt chúng với các hội khác không kinh doanh.
Theo "Dân luật thi hành tại các tịa Nam án Bắc Kỳ" năm 1931, cơng ty hợp
danh dưới tên gọi "Hội người" được chia làm hai loại Hội hợp danh và Hội
hợp tư. “Hội người” tức là hình thức cơng ty chú trọng yếu tố con người, khác
với “hội vốn” quan tâm đến vốn góp nhiều hơn. Hội người được chia thành
hai loại là hội hợp danh và hội hợp tư. Hội hợp danh là hội gồm nhiều hội
viên chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới kết hợp một hoặc nhiều hội viên chịu
trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đóng góp vào hội.


Dưới thời chính quyền vua Bảo Đại, Bộ luật thương mại Trung phần
năm 1944 được ban hành và áp dụng tại miền Trung, tuy có sửa đổi bổ
sung nhưng về cơ bản những quy định về công ty hợp danh vẫn giống so
với quy định trong Luật Thương mại Pháp áp dụng tại Việt Nam.
Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam áp dụng Bộ luật thương mại Sài
Gịn, cơng ty hợp danh được gọi đúng như tên gọi hiện nay và những quy định
tương tự quy định trong Luật Thương mại Pháp. Cơng ty hợp danh là một hội
đồn thương sự (nhằm phân biệt với hội đoàn dân sự) được thành lập giữ hai
người, hay một số người nhiều hơn để làm thương mại dưới một hội danh.

4


Miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954, chủ trương của Nhà
nước là thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lấy kinh tế quốc
doanh làm chủ đạo nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không
được thừa nhận. Bắt đầu từ Hiến pháp năm 1959, mơ hình kinh tế Xơ - viết
từng bước được áp dụng ở Việt Nam. Ngồi các cơng ty tư sản, tay sai và
phản động được quốc hữu hóa, thì các công ty và cơ sở kinh doanh tư nhân
của người Việt Nam (chủ yếu hình thành sau năm 1954 khi thực dân Pháp
rút về nước) được chuyển sang hình thức công ty công - tư hợp doanh.
Nhưng do nhiều nguyên nhân, các cơ sở kinh doanh trên dần dần biến mất
vào năm 1960. Một nền kinh tế khép kín với việc khơng cơng nhận sở hữu
tư nhân, bên cạnh đó quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, nên cơ cấu ngành nghề không đa
dạng, kém phát triển cả về chất và lượng. Thuật ngữ “công ty” vẫn được
dùng để chỉ một số nhà máy, xí nghiệp quốc doanh. Các loại hình cơng ty
theo đúng nghĩa thương mại đã bị lãng quên trong các văn bản pháp luật và
không xuất hiện trong giai đoạn từ sau năm 1960 đến trước năm 1990.

Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) Nghị quyết của Đảng đã
định hướng lại chủ trương phát triển kinh tế đất nước, đó là chuyển nền kinh
tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở rộng các thành phần kinh tế, ghi nhận hình thức sở hữu tư nhân.

Sự ra đời của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990
đánh dấu sự ghi nhận chính thức của pháp luật về cơng ty. Tuy nhiên, Luật
Cơng ty năm 1990 có nhiều hạn chế do được ban hành trong những năm
đầu của công cuộc đổi mới. Các quy định của công ty chưa cụ thể và chưa
có cơng ty hợp danh trong các văn bản pháp luật trên.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 ra đời trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm trên thế giới, đồng thời khắc phục những hạn chế của các văn bản luật
trước đó, đã có sự phát triển vượt bậc về chất lượng. Một trong những điểm
mới của văn bản này là ghi nhận sự tồn tại của hai loại hình cơng
5


ty mới, công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Đây là thời điểm công ty hợp danh được ghi nhận chính thức của nhà nước
Việt Nam. Mặc dù được phổ biến trên thế giới nhưng vì loại hình cơng ty
hợp danh nay ở Việt Nam còn mới mẻ nên ban đầu các quy định của luật
còn chung chung và chưa đầy đủ. Trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 chỉ
có 4 điều luật quy định về công ty hợp danh (từ Điều 95 đến Điều 98),
những quy định này chưa đáp ứng được sự phát triển cũng như quy chế
quản lý của pháp luật đối với công ty hợp danh.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999
hoàn thiện các quy định về cơng ty hợp danh, tạo cho nó một chỗ đứng
vững vàng hơn trong môi trường pháp lý, từ chỗ chỉ được quy định khiêm
tốn trong bốn điều khoản tại Luật Doanh nghiệp 1999, đã được nâng lên
mười điều khoản trong Luật Doanh nghiệp 2005 (sửa đổi bổ sung 2009).

Mô hình cơng ty này đã được quy định chi tiết rõ ràng hơn, phù hợp với
tình hình kinh tế đất nước. Tuy nhiên, những quy định ấy dường như vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, chưa phát huy được hết những điểm
mạnh vốn có của loại hình cơng ty hợp danh khi thực tế cho thấy tỉ lệ cơng
ty thành lập tại Việt Nam vẫn rất ít.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 tiếp tục được sửa đổi, bổ sung bởi Luật
Doanh nghiệp năm 2014, đánh dấu những quy định mới nhằm tháo gỡ
những hạn chế, bất cập của luật cũ, tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh
doanh thuận lợi. Trong đó, mặc dù quy định cơng ty hợp danh vẫn giữ
nguyên 10 điều khoản (từ Điều 172 đến Điều 182) nhưng Luật Doanh
nghiệp năm 2014 được soạn thảo và thông qua với nhiều thay đổi đột phá
về quyền kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, cải cách con dấu, bảo vệ
lợi ích của nhà đầu tư, dễ dàng trong tái cơ cấu doanh nghiệp đã gián tiếp
thúc đẩy q trình phát triển cơng ty hợp danh tại Việt Nam.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định
công ty hợp danh. Tuy vẫn giữ nguyên 10 điều (từ Điều 177 đến Điều 187)
6


nhưng đã bổ sung thêm quy định về điều hành kinh doanh của cơng ty,
trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty, chấm dứt tư cách thành
viên hợp danh trong công ty hợp danh… Các quy định trong Luật Doanh
nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, từ cải cách thủ tục gia
nhập thị trường chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng doanh nghiệp, xây
dựng được khung pháp lý về quản trị công ty. Với những đột phá này, các
doanh nghiệp hứa hẹn sẽ tận dụng thành cơng để tạo ra những đột phá mới,
góp phần cải cách thể chế kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của môi
trường đầu tư, kinh doanh, phát huy nội lực trong nước và thu hút đầu tư
nước ngồi nhằm duy trì tăng trưởng, góp phần giải quyết các vấn đề xã
hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo Luật Doanh nghiệp năm

2020, công ty hợp danh có những ưu điểm và hạn chế sau:
Về ưu điểm: Thứ nhất, Công ty hợp danh được thành lập trên cơ sở chủ
yếu là sự liên kết của những người có quan hệ quen biết nhau và do chế độ
liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh nên công ty hợp
danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Thứ
hai, Do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin
tưởng nhau nên việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp. Thứ ba,
Nếu điều lệ công ty không có quy định khác thì thành viên hợp danh trong
cơng ty hợp danh mặc nhiên được xem là có quyền ngang nhau trong việc
quyết định các vấn đề của công ty mà khơng quan trong việc số vốn góp của
ai nhiều hơn (Điều 181 Luật doanh nghiệp năm 2020).
Về hạn chế: Thứ nhất, Các thành viên hợp danh phải liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên này chịu trách
nhiệm một cách trực tiếp, cơ bản vì chủ nợ có quyền địi bất kỳ ai với tồn bộ
số tiền nợ. Quy định này tạo mức độ rủi ro rất cao đối với các thành viên hợp
danh. Bên cạnh đó, trong cơng ty hợp danh khơng có sự phân biệt rõ ràng giữa
tài sản riêng và tài sản công ty. Sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với khối tài
sản chung sang tài sản riêng rất đơn giản và khó kiểm sốt. Vì vậy
7


khả năng rủi ro và nguy hiểm đối với từng thành viên là rất lớn. Có thể nói,
đây là nguyên nhân lớn nhất khiến cho người thành lập doanh nghiệp ít chọn
loại hình doanh nghiệp này. Do đó, trong nền kinh tế thị trường như hiện nay,
hầu hết các nhà kinh doanh thường lựa chọn thành lập loại hình cơng ty Trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Thứ hai, Luật doanh nghiệp năm 2020
không cho phép công ty hợp danh phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Có
nghĩa là, cơng ty hợp danh khơng thể huy động vốn bằng cách phát hành các
loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu,… mà chỉ có thể huy động vốn từ
các tổ chức tín dụng, vay từ các tổ chức cá nhân khác, hoặc huy động từ các

thành viên góp thêm hoặc kết nạp thêm thành viên mới. So sánh với các loại
hình loại hình doanh nghiệp khác thì cơng ty hợp danh có khả năng huy động
vốn thấp hơn rất nhiều. Thứ ba, Thành viên hợp danh rút khỏi công ty vẫn
phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty hợp danh phát sinh từ
những cam kết của cơng ty trước khi thành viên đó rút khỏi công ty (Điều 181
Luật doanh nghiệp năm 2020). Thứ tư, Thành viên hợp danh giới hạn chủ thể
là cá nhân, nên pháp nhân sẽ không thể trở thành thành viên hợp danh trong
công ty hợp danh. Thứ năm, quyền của các thành viên góp vốn bị hạn chế, ý
kiến của các thành viên góp vốn chỉ mang tính chất tham khảo, thành viên góp
vốn khơng có quyền biểu quyết trong việc quản lý và điều hành kinh doanh
của công ty hợp danh (Điều 187 Luật doanh nghiệp năm 2020). Thứ sáu, trong
mơ hình cơng ty hợp danh, các thành viên hợp danh bị hạn chế một số quyền
nhất định khác (Điều 180 Luật doanh nghiệp năm 2020), do đó những quy chế
pháp lý khắt khe hơn đối với thành viên hợp danh so với các loại thành viên
trong loại hình doanh nghiệp như: khơng được làm chủ doanh nghiệp tư nhân,
không được làm thành viên hợp danh của công ty khác; không được nhân
danh cá nhân hoặc nhân danh người khác kinh doanh cùng ngành, nghề kinh
doanh của công ty để tư lợi; hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
thành viên hợp danh không được chuyển một phần hoặc

8


tồn bộ phần vốn góp của mình tại cơng ty cho tổ chức, cá nhân khác nếu
không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh cịn lại.
3. Ví dụ
3.1. Về điều hành kinh doanh của công ty hợp danh
Quy định tại Điều 184, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã đưa ra tư
cách pháp nhân của thành viên hợp danh, theo đó: các thành viên hợp danh
là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Doanh nghiệp cần phải có sự phân định cụ thể và rõ ràng về phạm vi
thẩm quyền đại diện của mỗi thành viên hợp danh để quy định trách nhiệm
của các thành viên hợp danh này. Trường hợp không dự liệu cụ thể nội
dung này tại Điều lệ công ty, các thành viên hợp danh sẽ có khả năng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với hành vi của một trong các thành viên hợp
danh khi thực hiện các hành vi pháp lý trên thực tế.
3.2. Về trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh

Tại điều 177, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định “Thành viên
góp vốn là tổ chức, cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong số vốn đã cam kết vào công ty”. Nội dung này đã được sửa
đổi so với nội dung được quy định trong Luật doanh nghiệp năm 2014 cụ
thể là: “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty”.
Đây là thay đổi có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của
thành viên góp vốn, bởi lẽ nếu thành viên góp vốn trong cơng ty hợp danh
mới chỉ thực hiện việc dự kiến góp vốn qua cam kết mà chưa góp trên thực
tế thì khi đó thành viên hợp danh chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản
nợ trong phạm vi số vốn đã góp. Xét dưới góc độ đối tác, khách hàng của
công ty hợp danh cũng cần phải lưu ý vấn đề vốn thực góp và vốn cam kết
góp để tránh trường hợp khi phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà
phạm vi số vốn góp của công ty hợp danh không đủ sẽ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
9


3.3. Về chấm dứt tư cách thành viên hợp danh trong công ty hợp danh

Điều 185, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bổ sung quy định: “Chấp
hành hình phạt tù hoặc bị tịa án cấm hành nghề hoặc làm cơng việc nhất

định theo quy định của pháp luật” là một trong những trường hợp thành
viên hợp danh bị chấm dứt tư cách.
Đây là quy định nhằm đảm bảo tư cách chủ thể của thành viên hợp
danh cũng như đảm bảo sự phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự năm
2015. Tuy nhiên, theo quy định của Điều 41, Bộ luật hình sự năm 2015 thì
đây là hình phạt bổ sung đối với người bị kết án khi tòa án xét thấy sau khi
người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính mà để họ tiếp tục làm cơng
việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội. Như vậy, việc Điểm d , Khoản 1
chỉ quy định không rõ ràng về việc chấm dứt tư cách thành viên khi: “Tịa
án cấm hành nghề hoặc làm cơng việc nhất định theo quy định của pháp
luật” điều này sẽ vơ hình làm bó buộc tư cách thành viên hợp danh.
Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn từ hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp. Qua nghiên cứu cho thấy, công ty hợp danh là loại
hình cơng ty có lịch sử lâu đời và khá phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã
hội cũng như tâm lý kinh doanh tại Việt Nam. Trong thời gian tới, một
trong những nhiệm vụ quan trọng mà các nhà lập pháp Việt Nam phải thực
hiện là nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý về loại hình cơng
ty hợp danh. Bởi lẽ, sự phát triển mạnh mẽ của cơng ty hợp danh có thể thu
hút và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và cả nước ngoài khi
đến kinh doanh tại Việt Nam./.

10



×