ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
ĐỀ TÀI: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và so
sách hợp đồng tín dụng với hợp đồng vay tài sản trong dân sự
HÀ NỘI - 2022
I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1. Khái niệm và đặc trưng của hợp đồng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn là một nhu cầu mang tính
khách quan. Nếu xét trong cùng một thời điểm luôn tồn tại những chủ thể dư
thừa vốn nhưng đồng thời cũng tồn tại những chủ thể khác đang thiếu vốn tạm
thời. Do đó, đặt ra vấn đề cần phải luân chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Yêu cầu này là lý do hoạt động tín dụng ra đời, mang bản chất là sự vay mượn
vốn lẫn nhau dựa trên sự tín nhiệm. Kể từ khi xuất hiện, hoạt động tín dụng đã
đóng vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế, đóng vai trị như một đòn bẩy,
một động lực to lớn của nền kinh tế quốc dân. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, quan hệ cho vay giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng được xác lập và
thực hiện thông qua cơng cụ pháp lý là hợp đồng tín dụng. Theo đó hợp đồng tín
dụng được hiểu như sau:
“Hợp đồng tín dụng là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (gọi
là bên cho vay) với khách hàng là tổ chức, cá nhân đáp ứng đủ điều kiện theo
luật định (gọi là bên vay), theo đó bên cho vay thỏa thuận ứng trước một số tiền
cho bên vay để sử dụng cho một mục đích nhất định trong một thời hạn nhất
định, với điều kiện có hồn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm”1
Từ định nghĩa này có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, về chủ thể: một bên tham gia hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tổ
chức tín dụng có đủ các điều kiện luật định với tư cách là bên cho vay, còn chủ
thể bên kia (bên vay) có thể là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thỏa mãn
những điều kiện vay vốn do pháp luật hoặc do tổ chức tín dụng quy định.
Hai là, về đối tượng: đối tượng của hợp đồng tín dụng là tiền (bao gồm tiền
mặt và giấy tờ có giá trị khác). Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng
bao giờ cũng phải là một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, ghi
rõ trong văn bản hợp đồng.
Ba là, hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng rủi ro rất lớn cho quyền lợi của
bên cho vay. Sở dĩ như vậy là vì theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho
vay chỉ có thể địi tiền của bên vau sau thời hạn nhất định. Thời hạn cho vay
càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
1 Võ Đình Tồn, Nxb. Cơng an nhân dân, Giáo trình luật ngân hàng việt nam, Hà nội, 2019, tr.161
Bốn là, về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: trong hợp đồng tín dụng,
nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho vay bao giờ cũng phải thực hiện
được trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên
vay. Do đó, chỉ khi nào bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao
tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng cho bên vay thì khi đó họ mới có quyền
u cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình.
2. Phân loại hợp đồng tín dụng
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân loại hợp đồng tín dụng
thành các loại khác nhau như sau:
- Căn cứ vào thời hạn có các loại hợp đồng tín dụng: (i) hợp đồng ngắn
hạn; (ii) hợp đồng trung hạn; (iii) hợp đồng dài hạn. Trong đó:
(i) Hợp đồng ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối
với khách hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là dưới
mười hai tháng.
(ii) Hợp đồng trung hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối
với khách hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận từ 12 tháng
đến dưới 60 tháng.
(iii) Hợp đồng dài hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối
với khách hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là trên 60
tháng nhưng khơng được q thời hạn hoạt động cịn lại theo quyết định thành
lập hoặc giấy phép hoạt động đối với pháp nhân.
- Căn cứ vào mục đích vay vốn có các loại hợp đồng tín dụng: (i) Hợp
đồng tín dụng có mục đích kinh doanh, sản xuất. Đây là loại hợp đồng có bên đi
vay vốn nhằm phục vụ nhu cầu kinh doanh, sản xuất. Thường có giá trị lớn và
phổ biến; và (ii)) Hợp đồng tín dụng có mục đích tiêu dùng. Đây là loại hợp
đồng có bên đi vay vốn nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng hàng ngày như mua
sắm đồ dùng. Thường có giá trị khơng lớn.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo có các loại hợp đồng: (i) hợp đồng tín dụng
có tài sản bảo đảm. Đây là hình thức hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng tài
sản, trong đó tổ chức tín dụng cam kết chuyển giao cho khách hàng vay sử dụng
số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hồn trả cả gốc và lãi
trên cơ sở bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của
người vay hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. (ii) Hợp đồng tín dụng khơng có
tài sản bảo đảm. Đây là loại hợp đồng tín dụng mà trong đó các khoản vay của
khách hàng không được bảo đảm trả nợ bằng bất cứ loại tài sản nào hoặc bất kỳ
sự bảo đảm trả nợ của bên thứ ba. Trong quan hệ hợp đồng tín dụng loại này,
các tổ chức tín dụng cần xem xét cẩn thận các điều kiện để vay vốn bao gồm rất
nhiều yếu tố phản ánh năng lực trả nợ của người này, như năng lực chủ thể, uy
tín của người vay, phương án sử dụng vốn và tình hình tài chính của họ,...
Trên đây chỉ là một số tiêu chí cơ bản thường được dùng để phân loại các
loại hợp đồng tín dụng. Ngồi ra, trên thực tế cịn có nhiều cách phân loại khác,
đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển cùng với xu hướng mở
cửa ngày càng sâu và rộng hơn. Do vậy các cách phân loại trên chỉ mang tính
tương đối
3. Hình thức của hợp đồng tín dụng
Xuất phát từ đặc thù của quan hệ tín dụng là ln tiềm ẩn rủi ro cao. Đồng
thời rủi ro trong các hợp đồng tín dụng khơng chỉ ảnh hưởng tới một bên chủ thể
cho vay mà còn có thể tạo nên hiệu ứng dây chuyền gây ảnh hưởng xấu đến các
tổ chức tín dụng khác và rộng hơn là tồn bộ nền kinh tế - tài chính của quốc
gia. Vì thế để đảm bảo tính an tồn trong hoạt động tín dụng pháp luật ở hầu hết
quốc gia trên thế giới đều quy định hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
đối với khách hàng phải được lập thành hợp đồng tín dụng bằng hình thức văn
bản. Pháp luật Việt Nam cũng không ngoại lệ với quy định thỏa thuận cho vay
phải được lập thành văn bản2. Sở dĩ bắt buộc phải sử dụng hình thức văn bản là
bởi ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản có thể được xem như một bằng
chứng cụ thể, công khai và minh bạch làm căn cứ cho quá trình thực hiện hợp
đồng cũng như xử lý các tranh chấp phát sinh giữa các bên chủ thể tham gia hợp
đồng. Việc này đồng thời cũng đảm bảo lợi ích cho bên thứ ba ngay tình bằng
cách thơng báo cho họ biết việc hợp đồng đã được xác lập để họ tránh những rủi
ro, ví dụ như xác lập giao dịch có đối tượng đã là tài sản đảm bảo của một hợp
đồng tín dụng. Mặt khác việc sử dụng hình thức văn bản cũng giúp cho các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện công vụ tốt hơn.
Ngồi hình thức văn bản viết, hợp đồng tín dụng cịn bao gồm cả hình thức
văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thơng qua phương tiện điện tử
dưới hình thức thơng điệp điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là
giao dịch bằng văn bản3. Vì vậy các hợp đồng điện tử có giá trị pháp lý tương
đương với hợp đồng viết thông thường
2 khoản 1 điều 23 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
3 khoản 1 điều 119 Bộ luật dân sự 2015
4. Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên
có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù
hợp với pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tại khoản 1 Điều 23 Thông tư
39/2016/TT-NHNN đã quy định cụ thể về các nội dung cơ bản cần phải có trong
hợp đồng tín dụng (hay nói cách khác là thỏa thuận vay). Cụ thể:
(1)
Điều khoản về thông tin của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
Thơng tin của các bên tham gia hợp đồng tín dụng bao gồm: Tên, địa chỉ,
mã số doanh nghiệp của tổ chức tín dụng cho vay; tên, địa chỉ, số chứng minh
nhân dân hoặc thẻ căn cước hoặc hộ chiếu hoặc mã số doanh nghiệp của khách
hàng. Ngồi ra, thơng tin về tên, chức vụ, giấy chứng thực cá nhân và văn bản
ủy quyền (nếu có) của người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy
quyền có đầy đủ thẩm quyền ký kết hợp đồng cũng được ghi nhận đầy đủ trong
hợp đồng tín dụng.
Điều khoản này nhằm mục đích ghi nhận năng lực pháp lý của các chủ
thể tham gia giao kết hợp đồng đảm bảo hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Khi
giao kết hợp đồng, các bên cần kiểm tra năng lực và thẩm quyền giao kết hợp
đồng tín dụng của nhau (bên vay và bên cho vay). Ví dụ: Đối với bên vay vốn là
pháp nhân sẽ do người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó ký kết và thực
hiện hợp đồng, cịn nếu bên vay là tổ chức khơng có tư cách pháp nhân (hộ kinh
doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân) thì sẽ do chủ hộ kinh doanh, chủ doanh
nghiệp tư nhân tham gia giao kết hợp đồng tín dụng. Đối với bên cho vay là
ngân hàng thương mại, thông thường sẽ do Giám đốc chi nhánh giao kết và thực
hiện hợp đồng tín dụng phải có văn bản ủy quyền của người đại diện theo pháp
luật của ngân hàng thương mại.
(2)
Điều khoản về điều kiện vay vốn
Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng tín
dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng
mới có hiệu lực. Cụ thể, tại Điều 7 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về
điều kiện vay vốn như sau:
“Tổ chức tín dụng xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các
điều kiện sau đây:
1. Khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định
của pháp luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp
luật.
2. Nhu cầu vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp.
3. Có phương án sử dụng vốn khả thi.
4. Có khả năng tài chính để trả nợ.
5. Trường hợp khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng theo lãi suất cho
vay quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư này, thì khách hàng được tổ chức tín
dụng đánh giá là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh.”
(3)
(4)
Điều khoản về số tiền cho vay; hạn mức cho vay đối với trường hợp cho
vay theo hạn mức; hạn mức cho vay dự phòng đối với trường hợp cho vay
theo hạn mức cho vay dự phòng; hạn mức thấu chi đối với trường hợp
cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán. Tùy từng khách
hàng mà tổ chức tín dụng xem xét hạn mức cho vay khác nhau phù hợp
với nhu cầu vốn cũng như khả năng trả nợ của khách hàng.
Điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay, đồng tiền cho vay, đồng tiền trả
nợ
Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào
mục đích vay vốn hợp pháp như: để đầu tư xây dựng nhà xưởng, công trình xây
dựng, mua bán hàng hóa để kinh doanh, tiêu dùng,... Những nhu cầu vốn mà tổ
chức tín dụng khơng được cho vay theo quy định tại Điều 8 Thông tư
39/2016/TT-NHNN thì đương nhiên khơng thể là mục đích sử dụng vốn vay
thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng tín dụng 4. Việc thỏa thuận điều khoản
này trong hợp đồng tín dụng được xem như giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn
cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử
dụng vốn một cách tùy tiện vào các mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác,
để đảm bảo lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử
dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có
4 Xem thêm Điều 8 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và
điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
Nội dung thỏa thuận về đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ: tại Điều 11
Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã quy định rõ về đồng tiền cho vay, đồng tiền trả
nợ. Theo đó, tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về việc cho vay bằng
đồng Việt Nam hoặc bằng ngoại tệ phù hợp với quy định tại Thông tư này và
quy định của pháp luật có liên quan. Đồng tiền trả nợ là đồng tiền cho vay của
khoản vay.
(5)
Điều khoản về phương thức cho vay
Đối với hoạt động cho vay phục vụ mục đích hoạt động kinh doanh, tổ
chức tín dụng thỏa thuận với khách hàng việc áp dụng các phương thức cho vay
như sau: Cho vay từng lần, cho vay hợp vốn, cho vay lưu vụ, cho vay theo hạn
mức, cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng, cho vay theo hạn mức thấu chi
trên tài khoản thanh tốn, cho vay quay vịng, cho vay tuần hoàn, và các phương
thức cho vay khác được kết hợp các phương thức trên phù hợp với điều kiện
hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khoản vay.
Đối với hoạt động vay phục vụ nhu cầu đời sống thì tổ chức tín dụng thỏa
thuận với khách hàng việc áp dụng các phương thức cho vay như sau:
“1. Phương thức cho vay theo quy định tại khoản 1, 4 và 6 Điều 27 Thông
tư này.
2. Các phương thức cho vay khác được kết hợp các phương thức cho vay
quy định tại khoản 1 Điều này, phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của
tổ chức tín dụng và đặc điểm của khoản vay.” (Điều 30 Thông tư 39/2016/TTNHNN)
(6)
Điều khoản về lãi suất, thời hạn sử dụng vốn vay
Lãi suất cho vay theo thỏa thuận và mức lãi suất quy đổi theo tỷ lệ %/năm
tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế
đó theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Thông tư này; nguyên tắc và các yếu tố
xác định lãi suất, thời điểm xác định lãi suất cho vay đối với trường hợp áp dụng
lãi suất cho vay có điều chỉnh; lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc bị quá hạn; lãi
suất áp dụng đối với lãi chậm trả; loại phí liên quan đến khoản vay và mức phí
áp dụng.
Thời hạn cho vay; thời hạn duy trì hạn mức đối với trường hợp cho vay
theo hạn mức, thời hạn hiệu lực của hạn mức cho vay dự phòng đối với trường
hợp cho vay theo hạn mức cho vay dự phịng, hoặc thời hạn duy trì hạn mức
thấu chi đối với trường hợp cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh
toán. Cụ thể, các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm
trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia
hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín
dụng, cịn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện
hợp đồng tín dụng (nếu thấy cần thiết).
(7)
Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay và kỳ hạn trả nợ
Các bên phải thỏa thuận rõ rằng số tiền vay sẽ được hồn trả dần hàng
tháng (trả góp) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản
vay được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu
trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính
của bên vay khi trả nợ.
(8)
Điều khoản về hình thức bảo đảm khoản vay và giá trị tài sản dùng làm
bảo đảm khoản vay
Tại Điều 15 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về bảo đảm tiền vay
như sau:
“1. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện
pháp bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận. Việc thỏa
thuận về biện pháp bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng với khách hàng phù
hợp với quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm và pháp luật có liên
quan.
2. Tổ chức tín dụng quyết định và chịu trách nhiệm về việc cho vay không
áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay.
3. Khách hàng, bên bảo đảm phải phối hợp với tổ chức tín dụng để xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay khi có căn cứ xử lý theo thỏa thuận cho vay, hợp đồng
bảo đảm tiền vay và quy định của pháp luật.”
(9)
Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
Các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con
đường thương lượng, hòa giải, hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết
tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng khơng ghi điều khoản này, có
nghĩa là các bên khơng thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy
định của pháp luật.
5. Giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là q trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp
vụ - pháp lý do các bên thực hiện theo trình tự luật định.
Việc giao kết hợp đồng tín dụng được thực hiện theo trình tự sau: (1) Đề
nghị giao kết hợp đồng tín dụng; (2) Thẩm định hồ sơ tín dụng; (3) Chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng; và (4) Đàm phán các điều khoản của hợp
đồng tín dụng. Cụ thể:
(1) Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng
Đây là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính
thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp
đồng tín.
Theo quy định tại Điều 9 Thơng tư 39/2016/TT-NHNN quy định: “Khi có
nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi cho tổ chức tín dụng các tài liệu chứng
minh đủ điều kiện vay vốn theo quy định tại Điều 7 Thông tư này và các tài liệu
khác do tổ chức tín dụng hướng dẫn.” Như vậy, căn cứ theo câu chữ trong luật
định thì yêu cầu bên vay phải là bên khởi xướng gửi đề xuất bằng văn bản, hồ sơ
đề nghị vay vốn được gửi kèm theo các giấy tờ tài liệu chứng minh tư cách chủ
thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay gửi tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở đó, tổ chức tín dụng tiến hành xem xét, thẩm định và được coi như
bằng chứng đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng. Thực tiễn giao kết hợp đồng tín
dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, có nhiều trường hợp bên
chủ động đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là tổ chức tín dụng chứ
khơng phải khách hàng. Phương thức này được một số tổ chức tín dụng chủ
động thực hiện nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín
dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên phong trong việc lựa chọn phương
thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là thư
chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho các tổ chức, cá nhân có khả năng tài
chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên
mà tổ chức tín dụng lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị
thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng qt nhất kèm theo những ước
khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận.
(2) Thẩm định hồ sơ tín dụng
Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định mức độ thỏa mãn các điều
kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay khơng .
Trên thực tế, việc thẩm định này thường do các nhân viên chuyên trách của tổ
chức tín dụng thực hiện và kết thúc bằng việc lập báo cáo thẩm định hồ sơ tín
dụng và trình lên cho người quản lý có thẩm quyền của tổ chức tín dụng quyết
định về việc có cho vay hay khơng. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức
tín dụng phải thơng báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lý do từ
chối cho vay. Việc từ chối cho vay khơng có căn cứ xác đáng có thể là lí do để
khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của
pháp luật.
(3) Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng
Đây là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị (thông thường là tổ chức tín
dụng) thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia (bên gửi đề
nghị hợp đồng) với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng.
Hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng này chỉ có giá trị như
một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao
kết hợp đồng chính thức giữa các bên. Vì vậy, việc giao kết hợp đồng tín dụng
chỉ được coi là hồn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng,
đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng và người đại diện có thẩm
quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.
(4) Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng
Đây là giai đoạn cuối cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm trong q trình
giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán
các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi
đại diện của các bên đã chính thức ký tên và văn bản hợp đồng tín dụng.
6. Hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Dựa trên các quy định chung về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự tại Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng tín dụng với tư cách là loại
hình giao dịch dân sự đặc th chỉ có hiệu lực khi thoả mãn đầy đủ các điều kiện
sau đây:
Thứ nhất về chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng: Phải có đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với chủ thể của hơn đồng tín dụng là
tổ chức thì người đại diện cho tổ chức để cũng phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự
Thứ hai, có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng và tự do ý chí: Một hợp đồng tín dụng được coi là khơng có
sự đồng thuận và tự do ý chỉ khi sự thoả thuận đó giữa các bên bị các khiếm
khuyết t như sự nhầm lẫn; sự lừa dối, lường gạt hoặc sự ép buộc, cưỡng bức
trong khi giao kết hợp đồng. Trên nguyên tắc, không phải mọi sự nhầm lẫn, lừa
dối, lường gạt hoặc cưỡng bức, ép buộc của một bên đối với bên kia đều dẫn
đến hậu quả làm cho hợp đồng tín dụng vơ hiệu mà các khuyết tật này phải có
ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chi giao khi hợp đồng của các bên thì
mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng vơ hiệu.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng tín dụng khơng trải pháp luật
và đạo đức xã hội: Tính hợp pháp về mục đích tham gia giao dịch thể hiện ở
chỗ, mục đích cho vay và mục đích đi vay của các bên chủ thể hợp đồng nhất
thiết phải được thể hiện rõ ràng trong nội dung của hợp đồng và các mục đích
này khơng trái pháp luật, khơng trái đạo đức xã hội. Tính hợp pháp về nội dung
của hợp đồng tín dụng thể hiện ở chỗ, các điều khoản của hợp đồng tín dụng
khơng vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
Thứ tư, riêng đối với hình thức của hợp đồng tín dụng, việc ký kết hợp
đồng phải theo hình thức mà pháp luật ngân hàng quy định. Đối với hợp đồng
tín dụng, do tính chất rủi ro cao cho quyền lợi của các bên trong quá trình thực
hiện hợp đồng này. nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của hợp đồng tín
dụng phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng "
Tính hợp pháp về hình thức của hợp đồng tín dụng thể hiện ở chỗ hợp đồng tín
dụng phải được ký kết bằng văn bản hay tài liệu giao dịch hợp thức và có giá trị
chứng cứ chứng minh nội dung cam kết của các bên.
7. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng mang bản chất là sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể
tham gia nhằm xác lập nên quan hệ pháp luật mà trong đó các bên chủ thể có
quyền và nghĩa vụ hợp pháp đối với nhau. Việc tạo lập các quyền và nghĩa vụ
pháp lý vừa là mục đích của các bên tham gia khi giao kết hợp đồng vừa là hậu
quả pháp lý tất yếu khi một hợp đồng tín dụng có hiệu lực. Về ngun tắc,
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu
lực pháp luật. Với hợp đồng tín dụng, hiệu lực hợp đồng sẽ phát sinh sau khi
những bên tham gia thỏa thuận xong tất cả các điều khoản của hợp đồng và ký
tên (điểm chỉ) vào bản hợp đồng, không phát sinh thêm nội dung khác. Việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ sẽ được các bên tiến hành dần dần cho đến khi toàn
bộ số tiền vay và tiền lãi được hoàn trả lại đầy đủ cho phía tổ chức tín dụng.
Thực tế, do mỗi bên tham gia vào quan hệ vay tín dụng với vị trí pháp lý
khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sẽ khác nhau. Quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng với khách hàng ban hành kèm Quyết định 1627/QĐ-NHNN
của Ngân hàng Nhà nước đã có quy định cụ thể một số quyền và nghĩa vụ cụ thể
cho cả phía khách hàng và tổ chức tín dụng. 5 Tuy nhiên, khi Thơng tư
39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 được ban hành thì nội dung về quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng đã khơng cịn được quy định
thành một điều khoản cụ thể như trước. Như vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên
ngoài phát sinh từ những điều khoản nhà làm luật đã dự liệu sẵn mà còn phát
sinh từ những thỏa thuận do hai bên xác lập. Song, chúng đều có giá trị pháp lý
ràng buộc đối với các bên đã tham gia vào quan hệ hợp đồng
Một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của các chủ thể tương ứng với vị trí trong
quan hệ tín dụng gồm
●
Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
Với tư cách là bên cho vay trong quan hệ tín dụng, tổ chức tín dụng có
những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
-
Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng thời hạn và địa điểm cho khách
hàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân). Đây là một trong những nghĩa vụ cơ bản
quan trọng hàng đầu của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay vốn. Nghĩa vụ
này phát sinh do việc bên cho vay đã cam kết cho khách hàng vay được sử dụng
số tiền của mình trong thời hạn nhất định với điều kiện có hồn trả. Khi nghĩa
vụ này được thực hiện sẽ trở thành cơ sở làm phát sinh quyền và nghĩa vụ khác
của các chủ thể trong hợp đồng. Bởi lẽ, trên thực tế bên vay chỉ có thể thực hiện
5 Xem: điều 24, 25 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định 1627/QĐ-NHNN của
ngân hàng Nhà nước ngày 31/12/2001
-
-
●
được quyền sử dụng vốn vay và cũng chỉ có nghĩa vụ hồn trả tiền vay khi nào
có thể chứng minh rằng họ đã nhận được tiền vay do bên cho vay chuyển giao
đúng thời hạn đã thỏa thuận.Việc không thực hiện giải ngân hoặc thực hiện giải
ngân không đủ số lượng và đúng thời hạn của bên cho vay, theo pháp luật hiện
hành tại Việt Nam, được xem là hành vi vi phạm hợp đồng và có thể làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc phạt hợp đồng.
Quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách
hàng: Các tổ chức tín dụng khi tiến hành cho vay thơng qua hợp đồng tín dụng
có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng
nhằm đảm bảo vốn cho vay được sử dụng đúng mục đích và tránh trường hợp
khơng thể hồn trả lại của khách hàng. Cũng vì mục đích này, việc kiểm tra,
giám sát khơng chỉ là quyền của tổ chức tín dụng mà còn là nghĩa vụ mà chủ thể
này phải thực hiện một cách cẩn trọng và hiệu quả. Điều này được quy định tại
khoản 3,4 điều 94 Luật các tổ chức tín dụng 2010, khoản 2 điều 24 thơng tư
39/2016/TT-NHNN. Với quy định này, khách hàng vay cũng buộc phải chấp
nhận sự kiểm tra, giám sát này từ phía bên cho vay nhằm tạo điều kiện để bên
cho vay tiến hành các biện pháp quản trị tín dụng hiệu quả.
Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền
bồi thường thiệt hại (nếu có): Đây cũng là một quyền phát sinh tyuwf thỏa thuận
của các chủ thể nhưng thông thường sẽ được pháp luật bảo đảm thực hiện bằng
nhiều phương cách, vì khi thực hiện quyền này, tổ chức tín dụng (bên cho vay)
có tư cách là chủ nợ có vị trí đặc biệt quan trọng. Mặt khác việc khơng hồn trả
được nợ của khách hàng có thể gây ảnh hưởng xấu tới nhiều chủ thể khác. Do
đó, tổ chức tín dụng được pháp luật trao cho quyền chấm dứt cho vay, thu hồi nợ
trước hạn theo nội dung đã thỏa thuận khi phát hiện khách hàng cung cấp thông
tin sai sự thật, vi phạm quy định trong thỏa thuận cho vay và/hoặc hợp đồng bảo
đảm tiền vay; Quyền áp dụng các biện pháp thu hồi nợ theo thỏa thuận cho vay,
hợp đồng bảo đảm và quy định của pháp luật có liên quan nếu khi đến hạn trả
nợ mà khách hàng không trả; thương lượng hòa giải hoặc khởi kiện bên vay
trước một cơ quan tài phán có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết....
Quyền và nghĩa vụ của bên vay
Với tư cách là người hưởng tín dụng, đồng thời là con nợ trong quan hệ tín
dụng, bên vay có quyền và nghĩa vụ sau:
-
Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết, thực
hiện và thanh tốn hợp đồng tín dụng: Đây là quyền được pháp luật quy định
nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong khi tham gia giao kết hợp đồng.
-
-
-
Theo đó khách hàng có quyền từ chối các điều khoản bất hợp lý có thể gây bất
lợi cho mình đến từ phía tổ chức tín dụng. Cơ sở khoa học cho quyền này xuất
phát từ bản chất pháp lý của hợp đồng nói chung trong đó có hợp đồng tín dụng
là sự thỏa thuận trên cơ sở bình đẳng của các bên tham gia. Vì thế dù một số
điều khoản hợp đồng bị giới hạn bởi quy định của pháp luật nhưng sự bình đẳng
vẫn được đảm bảo bởi quyền từ chối của khách hàng;
Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối vay khơng có căn cứ hoặc các vi phạm
hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng: Quyền này được đặt ra với mục tiêu
nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho khách hàng vay trước những hành vi khơng
có căn cứ hợp pháp của tổ chức tín dụng. Theo đó tổ chức tín dụng khi từ chối
cho vay phải đưa ra căn cứ hợp pháp cho quyết định này. Tuy nhiên điều này có
thể vi phạm vào quyền tự chủ của tổ chức tín dụng được quy định tại điều 7
Luật tổ chức tín dụng 2010 ở chỗ hạn chế quyền quyết định cho vay hay khơng
của tổ chức tín dụng. Mặt khác, pháp luật tố tụng dân sự có quy định cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp khởi
kiện vụ án tại Tịa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.6 Do vậy khách hàng khi thấy rằng tổ chức tín dụng vi phạm hợp
đồng tín dụng dẫn đến hậu quả xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tới quyền và lợi ích
của mình thì hồn tồn có quyền khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo
vệ quyền lợi cho mình;
Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng: Quyền này của bên vay đồng thời cũng là nghĩa vụ của bên
cho vay, đều phát sinh trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Do có
quyền này mà bên vay được u cầu bên cho vay trả tiền bồi thường thiệt hại đã
xảy ra cho mình, trong trường hợp bên cho vay không thực hiện đúng nghĩa vụ
giải ngân theo thoả thuận mà gây thiệt hại.;
Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng: Mục đích sử dụng vốn vay là một trong những nội dung tối thiểu
phải có trong một hợp đồng tín dụng.7 Việc sử dụng đúng mục đích khoản vốn
đã vay của khách hàng có ý nghĩa quan trọng góp phần giảm thiểu rủi ro và tình
trạng lãng phí, sử dụng không hiệu quả vốn vay dẫn đến không thể trả được nợ.
Vì các rủi ro có tính nghiêm trọng cao nếu nghĩa vụ bị vi phạm nên nó có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng, buộc khách hàng phải chấp nhận bị đặt trong sự kiểm
tra giám sát của tổ chức tín dụng cũng như thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ này.
Khách hàng có trách nhiệm sử dụng vốn vay và trả nợ theo nội dung thỏa thuận;
6 Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự 2015
7 khoản 1 điều 23 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
-
báo cáo và cung cấp tài liệu chứng minh việc sử dụng vốn vay theo yêu cầu của
tổ chức tín dụng.8 Nếu vi phạm tổ chức tín dụng có quyền thu hồi nợ, chấm dứt
cho vay trước hạn. ;
Nghĩa vụ trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng và
tiền bồi thường thiệt hại cho bên vay (nếu có): Đây vừa là một trong những
nghĩa vụ quan trọng vừa là điều kiện để được vay vốn của bên vay. Nó phát sinh
trên cơ sở hợp đồng tín dụng hoặc phát sinh trên cơ sở phán quyết đã có hiệu lực
pháp luật của cơ quan tài phán có thẩm quyền. Thơng thường, nghĩa vụ hoàn trả
tiền vay cả gốc và lãi sẽ phát sinh khi hợp đồng tín dụng bắt đầu có hiệu lực và
chúng phải được bên vay thực hiện khi thời hạn sử dụng vốn vay đã hết. Còn
nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm hợp đồng hay tiền bồi thường thiệt hại thì chỉ
phát sinh khi xảy ra sự vi phạm hay sự thiệt hại mà các bên đã thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng hoặc phát sinh do phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của tịa
án hay trọng tài. Mục đích của việc đặt ra nghĩa vụ này cho bên vay nhằm đảm
bảo khả năng thu hồi vốn của tổ chức tín dụng. Bởi nếu bên vay khơng thanh
toán nợ sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức tín dụng, gây ra hiệu ứng dây
chuyền với hệ thống tài chính - ngân hàng và rộng hơn là ảnh hưởng xấu đến sự
phát triển của nền kinh tế. Nghĩa vụ này gắn liền với một số quyền năng đặc biệt
của tổ chức tín dụng trong vấn đề giải quyết nợ khơng trả, ví dụ như quyền phát
mại tài sản,....
8. Thực hiện hợp đồng tín dụng và trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp
đồng tín dụng
Thực hiện hợp đồng và trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hai nội
dung pháp lý khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trách nhiệm
pháp lý của chủ thể phát sinh từ việc chủ thể đó vi phạm những quy tắc, điều
khoản đã được các bên tham gia thỏa thuận khi giao kết hợp đồng. Đối với hợp
đồng tín dụng, vấn đề này cũng khơng có ngoại lệ
Trước tiên, theo pháp luật dân sự hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. 9 Vì thế thực
hiện hợp đồng có thể được hiểu là việc các bên thực hiện các quyền, nghĩa vụ đã
phát sinh từ hợp đồng nên việc thực hiện hợp đồng tín dụng (một loại hợp đồng
cụ thể) chính là tổng hợp những hành vi hợp pháp của các chủ thể tham gia quan
8 khoản 1 điều 24 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngồi đối với khách hàng.
9 Xem; điều 385 Bộ luật dân sự 2015
hệ hợp đồng tín dụng nhằm thực hiện hóa các điều khoản đã được thỏa thuận
trong hợp đồng.
Khi thực hiện hợp đồng tín dụng, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc
thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định như nguyên tắc thực hiện đúng các
cam kết hợp đồng; thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có
lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau, khơng xâm phạm lợi ích cơng
cộng và quyền, lợi ích của chủ thể khác. Ngồi ra các bên tham gia hợp đồng tín
dụng cịn phải tn thủ nguyên tắc vay và cho vay do pháp luật ngân hàng quy
định một cách chặt chẽ trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng kể từ khi hợp
đồng có hiệu lực. Cụ thể hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng được thực hiện theo thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng phù
hợp với quy định của pháp luật và khách hàng vay vốn tổ chức tín dụng phải
đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, hồn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng
thời hạn đã thỏa thuận với tổ chức tín dụng.10
Thực tế cho thấy việc thực hiện hợp đồng tín dụng có thể xảy ra một trong
hai tình trạng sau đây:
-
-
Trường hợp các bên thực hiện đúng và đủ các cam kết trong hợp đồng tín dụng
thì hợp đồng sẽ chấm dứt hiệu lực khi tất cả các quyền, nghĩa vụ của các bên đã
được thực hiện xong và các bên có trách nhiệm thực hiện việc thanh lý để chấm
dứt hợp đồng.
Trường hợp một bên hoặc cả hai bên vi phạm các cam kết trong hợp đồng tín
dụng thì về ngun tắc bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với
hành vi vi phạm của mình. Trách nhiệm pháp lý trong trường hợp này sẽ được
áp dụng theo thoả thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Việc truy
cứu trách nhiệm pháp lý được xem xét trên các yếu tố thuộc về hành vi của bên
vi phạm
Thứ hai, về vấn đề vi phạm hợp đồng, pháp luật hiện hành quy định vi
phạm hợp đồng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thời hạn,
thực hiện không đúng nội dung hoặc thực hiện không đủ những nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng là những nghĩa vụ đã được
ghi nhận trong các điều khoản của hợp đồng hoặc được pháp luật điều chỉnh hợp
đồng đó quy định. Vi phạm hợp đồng có thể là hành vi của một bên hoặc cả hai
bên tham gia hợp đồng, do lỗi cố ý hoặc vô ý dẫn đến hậu quả xâm hại hoặc đe
10 Xem: Điều 4 Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
dọa xâm hại tới quyền và lợi ích của bên cịn lại hoặc lợi ích chung của Nhà
nước, xã hội.
Về phương diện lý thuyết, hành vi được coi là vi phạm hợp đồng tín dụng
khi hành vi đó thỏa mãn các điều kiện sau đây:
-
-
-
Chủ thể thực hiện hành vi phải là các bên tham gia hợp đồng tín dụng (bao gồm
bên vay và bên cho vay).
Hành vi phải trái với các điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng. Trong thực tiễn giao dịch tín dụng, hành vi làm trái với cam kết trong hợp
đồng tín dụng thường là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết (chẳng hạn, bên cho vay không thực hiện việc chuyển giao
tiền vay cho bên vay sử dụng; bên vay khơng hồn trả tiền vay đúng hạn cho
bên cho vay hoặc sử dụng vốn vay sai mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín
dụng...).
Bên thực hiện hành vi có lỗi xác định là cố ý hoặc vơ ý. Đối với hợp đồng tín
dụng, do nghĩa vụ của các bên là hết sức rõ ràng, cụ thể, xác định và bao giờ
cũng được ghi rõ trong văn bản hợp đồng nên bên có quyền lợi bị xâm hại chỉ
cần chứng minh rằng bên đối tác đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ như cam kết cũng đủ để dẫn chứng về lỗi của người đó. Ngược lại, bên
thực hiện hành vi trái với cam kết trong hợp đồng tín dụng phải chứng minh
rằng mình khơng có lỗi, bằng cách dẫn chứng về các sự kiện khách quan đã cản
trở mình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tín dụng (chẳng hạn, người vay rơi vào
tình trạng bất khả kháng nên khơng thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ tiền vay
như đã cam kết...) hoặc dẫn chứng về lỗi tuyệt đối của bên bị vi phạm khiến cho
mình khơng thể thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng tín dụng.
Hành vi đó nhằm xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên đối tượng hoặc
xâm hại tới các lợi ích khác như lợi ích chung của tồn xã hội, lợi ích của các tổ
chức và cá nhân khác.
Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm hợp đồng tín dụng đều phải chịu trách
nhiệm pháp lý, dù rằng mức độ, tính chất và loại trách nhiệm pháp lí có thể là
khác nhau, tùy thuộc vào hậu quả xảy ra bởi hành vi đó. Theo quy định của
thông tư 39/2016/TT-NHNN, nội dung xử lý vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại cũng là một trong những nội dung mà các bên chủ thể cần thỏa thuận
khi giao kết hợp đồng tín dụng. Căn cứ điều 25 quy định: “1. Tổ chức tín dụng
và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo
quy định của pháp luật đối với trường hợp tổ chức tín dụng hoặc khách hàng
không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp quy
định tại khoản 4 Điều 13 Thơng tư này.
2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa
vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa
phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tổ chức tín
dụng và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về
việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Như vậy, có hai loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do việc vi phạm hợp
đồng tín dụng, tuỳ thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra:
-
-
Trách nhiệm nộp phạt vi phạm hợp đồng tín dụng: Loại trách nhiệm này được
áp dụng theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng tín dụng hoặc nếu khơng có
thoả thuận thì áp dụng theo quy định của pháp luật. Đây là loại trách nhiệm
pháp lí có đặc tính như một chế tài xử phạt vi phạm nhằm nâng cao tính kỷ luật
hợp đồng nên có thể áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng tín dụng mà khơng
cần phải chứng minh hậu quả thiệt hại vật chất xảy ra cho bên bị vi phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng tín dụng: Loại trách
nhiệm này chỉ áp dụng đối với bên vi phạm khi bên bị vi phạm chứng minh
được rằng bên vi phạm đã gây ra thiệt hại vật chất thực tế và xác định cho mình,
do hành vi có lỗi của họ trong khi thực hiện hợp đồng tín dụng. Về nguyên tắc,
số tiền bồi thường thiệt hại có thể được xác định bởi ý chí của các bên tham gia
hợp đồng (thơng qua con đường thương lượng, hòa giải) hoặc bởi một phán
quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan tài phán có thẩm quyền (thơng qua
con đường tài phán).
Đồng thời từ quy định trên có thể thấy bên vi phạm chỉ phải chịu một trách
nhiệm hay hai trách nhiệm cùng lúc phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên
tham gia hợp đồng
9. Tranh chấp pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng và các phương thức
giải quyết tranh chấp
Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được hiểu là tình trạng pháp lý
của quan hệ hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất
đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp
đồng tín dụng. Một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung
đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên
ngồi (mặt khách quan) thơng qua những bằng chứng cụ thể và xác định được.
Vì thế, khơng phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì khi đỏ có tranh chấp mà
đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện
diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Thậm chí có sự vi phạm hợp
đồng tín dụng nhưng khơng hề có tranh chấp bởi các bên khơng bày tỏ ra bên
ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi
phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ
Tùy thuộc vào việc lựa chọn pháp luật điều chỉnh mà ở mỗi quốc gia có
những quy định khác nhau về vấn đề giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng có thể được giải quyết bằng những phương thức sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng phương thức
thương lượng hoặc hoà giải qua trung gian. Theo quy định của pháp luật để giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, trước hết các bên có quyền tự thương lượng
với nhau về các mâu thuẫn, xung đột, bất đồng nhằm tiến tới sự dung hịa về lợi
ích cho cả hai bên. Trong trường hợp việc thương lượng không đạt kết quả, các
bên có thể lựa chọn giải pháp hồ giải với nhau qua trung gian hoà giải. Việc
quy định các cơ chế này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và giúp
cho các bên tránh được những chi phí khơng cần thiết do phái theo kiện trước
tịa. Tuy vậy, nếu các bên không thể tự giải quyết được tranh chấp cho mình
bằng con đường thương lượng, hịa giải thì theo luật định họ có quyền đưa tranh
chấp ra xét xử tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng cơ chế tài phán.
Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tài
phán được xem như giải pháp cuối cùng để phân định quyền lợi gia các bên theo
quy định Luật tố tụng dân sự.
Thứ ba, ngoài ra nếu các bên có thỏa thuận của các bên về việc lựa chọn cơ
quan tài phán là trọng tài thương mại thì tranh chấp này được giải quyết theo thủ
tục tố tụng trọng tài.
10.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hợp đồng tín dụng
Trong thực tiễn, tùy thuộc vào sự đánh giá của tổ chức tín dụng đối với khả
năng trả nợ và mức độ uy tín của khách hàng mà tổ chức tín dụng sẽ lựa chọn
hình thức hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản hoặc hợp đồng tín dụng
khơng có bảo đảm bằng tài sản. Tuy nhiên việc sử dụng loại hình hợp đồng tín
dụng có bảo đảm bằng tài sản vẫn được ưu tiên lựa chọn bởi quá trình ký kết
hợp đồng tín dụng khơng có đảm bảo địi hỏi tổ chức tín dụng phải thực hiện các
hoạt động phân tích và điều tra tín dụng của khách hàng để kiểm tra đánh giá
mức độ thỏa mãn điều kiện vay vốn khơng có bảo đảm (vốn đã rất khắt ke)
Với bản chất là một hợp đồng, có tới chín biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ mà các bên tham gia hợp đồng có thể sử dụng theo quy định tại Bộ luật
Dân sự 2015.11 Điều này cho phép khách hàng và tổ chức tín dụng có nhiều cơ
hội lựa chọn các biện pháp bảo đảm bằng tài sản. Song, trong mối quan hệ tín
dụng, các khách hàng là những người đang thiếu vốn có nhu cầu vay nên việc sử
dụng các biện pháp ký quỹ, đặt cọc hay ký cược là điều khó thực hiện trên thực
tế. Vì vậy, ba biện pháp cầm cố thế chấp và bảo lãnh vẫn được xem là những
biện pháp dễ áp dụng trong thực tế.
Trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm luôn tồn tại nội dung về bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ tiền vay. Căn cứ khoản 5 điều 3 Nghị định 21/2021/NĐ-CP thì giao dịch
bảo đảm có thể được ghi nhận ngay trong hợp đồng tín dụng hoặc tách biệt
thành hợp đồng riêng bên cạnh hợp đồng tín dụng. Việc tách riêng biện pháp
bảo đảm thành một hợp đồng riêng hiện vẫn được cho là giải pháp thường được
các bên áp dụng vì những đảm bảo pháp lý cho các bên mà nó đem lại. Đồng
thời do pháp luật hiện chưa có chỉ dẫn cụ thể nào nên các bên khơng nhất
thi9etes phải giao kết hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm cùng một thời
điểm. Trong thực tiễn vẫn tồn tại nhiều trường hợp hợp đồng tín dụng đã được
ký kết một thời gian thì hai bên mới xác lập giao dịch bảo đảm. Mặt khác mối
quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và giao dịch bảo đảm tuy có liên quan chặt trẽ
nhưng lại độc lập về mặt hiệu lực. Căn cứ Điều 29 Nghị định 21/2021/NĐ-CP,
hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện
không làm chấm dứt hợp đồng tín dụng (tức hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm). Ngược lại, Trường hợp hợp đồng tín dụng bị vơ hiệu hoặc bị hủy bỏ, bị
đơn phương chấm dứt thực hiện thì giải quyết như sau:
Trong trường hợp các bên chưa thực hiện hợp đồng tín dụng thì hợp đồng
bảo đảm chấm dứt;
Trong trường hợp các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng tín
dụng thì hợp đồng bảo đảm khơng chấm dứt.
Tài sản được đem ra để làm đối tượng của giao dịch bảo đảm bao gồm Tài
sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, trừ trường hợp Bộ luật Dân
sự, luật khác liên quan cấm mua bán, cấm chuyển nhượng hoặc cấm chuyển
giao khác về quyền sở hữu tại thời điểm xác lập hợp đồng bảo đảm, biện pháp
bảo đảm; Tài sản bán trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu;
Tài sản thuộc đối tượng của nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ bị vi phạm đối với
biện pháp cầm giữ; Tài sản thuộc sở hữu toàn dân trong trường hợp pháp luật
liên quan có quy định.12 Tài sản đảm bảo có thể được mô tả chung nhưng phải
11 Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015
12 Điều 8 Nghị định 21/2021/NĐ-CP
xác định được giá trị. Ví dụ khách hàng sử dụng tài sản là Giấy tờ có giá, chứng
khốn, số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì việc mơ tả tài sản bảo đảm phải phù hợp với quy
định của pháp luật về giấy tờ có giá, chứng khoán, ngân hàng và phải xác định
được giá trị cụ thể của tài sản. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có nhưng
cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai với giá trị bằng hoặc hơn
khoản vay mà bên vay có nghĩa vụ phải trả
Khi giao kết hợp đồng tín dụng có kèm theo giao dịch bảo đảm bằng tài
sản tổ chức tín dụng ln có quyền đối kháng với bên thứ ba kể đối với khối tài
sản bảo đảm kể từ khi giao dịch bảo đảm có hiệu lực. Theo đó tổ chức tín dụng
có quyền ưu tiên trong việc truy đòi các khoản nợ bằng cách theo đuổi tài sản
bảo đảm bất kể nó đang ở đâu và do ai quản lý. Việc này cũng cho phép tổ chức
tín dụng được quyền ưu tiên thanh toán các khoản nợ từ số tiền có được từ tài
sản bảo đảm trước những chủ nợ khác có biện pháp bảo đảm được đăng ký sau
hoặc chủ nợ khơng có tài sản bảo đảm.
Ngoài ra, các vấn đề cụ thể về giao dịch bảo đảm hiện nay đang được quy
định tương đối rõ ràng trong hệ thống các văn bản pháp luật về giao dịch bảo
đảm
II.
Tiêu chí
SO SÁNH HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VỚI HỢP ĐỒNG VAY
THƠNG THƯỜNG
Hợp đồng tín dụng
Hợp đồng vay tài sản
Căn
cứ Pháp luật về ngân hàng
pháp luật
Pháp luật dân sự
Khái
niệm
Hợp đồng tín dụng là sự thỏa
thuận bằng văn bản giữa tổ chức
tín dụng (bên cho vay) với tổ
chức, cá nhân có đủ điều kiện
do luật định (bên vay), theo đó
tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng
trước một số tiền cho bên vay sử
dụng trong một thời hạn nhất
định, với điều kiện có hồn trả
cả gốc lẫn lãi dựa trên sự tín
nhiệm
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên
cho vay giao tài sản cho bên
vay; khi đến hạn trả, bên vay
phải hoàn trả cho bên cho vay
tài sản cùng loại theo đúng số
lượng, chất lượng và chỉ phải
trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc
pháp luật có quy định
Chủ thể
Bắt buộc bên cho vay phải là tổ Bên cho vay là bất cứ cá nhân,
chức tín dụng được nhà nước tổ chức có tài sản có thể cho
cấp phép hoạt động
chủ thể khác vay
Bên vay là cá nhân, tổ chức đáp Bên vay là bất cứ cá nhân, tổ
ứng đầy đủ các điều kiện để chức có nhu cầu cho vay tài sản
được vay vốn theo quy chế cho
vay và quy định của pháp luật
Đối tượng Tiền tệ
Tiền và các vật cùng loại khác
Hình thức Bắt buộc phải giao kết bằng hợp Có thể giao kết bằng hình thức
đồng tín dụng và thể hiện dưới văn bản hoặc hợp đồng miệng
hình thức văn bản
Mức độ
điều
chỉnh của
pháp luật
Pháp luật quản lý chặt chẽ, chi
tiết hơn. Ví dụ như các nội dung
về thời hạn vay, mức lãi suất, số
tiền cho vay, mục đích sử dụng
vốn,…
Ít chặt chẽ hơn, khơng quy định
cụ thể, chủ yếu dựa trên sự thỏa
thuận và tự do ý chí của các bên
chủ thể tham gia vào quan hệ
trong khuôn khổ rongoj
Nguồn
Từ các nguồn vốn khác nhau Tài sản thuộc sở hữu của bên
tiền cho của ngân hàng nhưng chủ yếu từ cho vay, không thường xun
vay
nguồn vốn huy động, có tính với số lượng thường không lớn
chất thường xuyên và số lượng
lớn
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ luật dân sự 2015
2. Bộ luật tố tụng dân sự 2015
3. Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi bổ sung 2017)
4. Thơng tư số 39/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
5. Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định 1627/QĐ-
NHNN của ngân hàng Nhà nước ngày 31/12/2001
6. Văn bản hợp nhất số 20/VBHN-NHNN ngày 22/05/2014 của ngân hàng Nhà
nước về ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng
7. Võ Đình Tồn, Nxb. Cơng an nhân dân, Giáo trình luật ngân hàng việt nam, Hà
nội, 2019
8. Nghị định 21/2021/NĐ-CP Quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ