Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.42 KB, 26 trang )

CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI
Câu 1.Phân hóa giàu – nghèo, phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Thế giới đang bước vào thế kỷ mới với kỳ vọng một cuộc sống mới phồn vinh
hạnh phúc. Làn sóng tồn cầu hố đang lan nhanh là động lực thơi thúc các quuốc
gia dân tộc vào một cuộc đua tranh vì sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính vì
vậy nền kinh tế thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, nhưng bên cạnh đó
nó cũng tạo ra hố ngăn giữa các quốc gia, các tầng lớp trong xã hội ngày càng
sâu.Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt hết sức quan trọng và cấp thiết đối với Việt
Nam – quốc gia đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.Thực tiễn đổi mới ở nước ta 20 năm qua cho thấy, với sự
chuyển đổi, xây dựng, và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, cùng
các chính sách mở cửa, hội nhập, đã đem lại nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, xã
hội, đời sống của mọi tầng lớp dân cư khơng ngừng được nâng cao. Đồng thời q
trình này cũng kéo theo những biến động về cơ cấu xã hội, trong đó phân hố giàu
nghèo diễn ra ngày càng rõ nét, nổi lên như một vấn đề thời sự cấp bách. Vì nó
cũng mang tính hai mặt: bên cạnh mặt tích cực là làm người dân giàu hợp
pháp...cịn mặt tiêu cực là liên quan đến bất bình đẳng XH. Nếu để quá trình bất
bình đẳng diễn ra một cách tự phát thì nó dẫn đến những bất ổn định khơng chỉ về
kinh tế, văn hố, xã hội mà trên cả lĩnh vực chính trị, thậm chí dẫn đến nguy cơ
chệch hướng XHCN. Chính vì vậy chúng ta phải có một giải quyết đúng đắn để
giải quyết vấn để phân hóa giàu nghèo sao cho xây dựng đất nước cơng bằng dân
chủ văn minh.
Trong những năm gần đây, trước những đòi hỏi bức bách của thực tiễn, vấn đề
về phân hoá giàu nghèo được rất nhiều nhà học giả, nhà báo...quan tâm và đã được
nhà nước, chính phủ, các cơ quan chức năng nghiên cứu. Tuy nhiên hầu hết các
hình thức nghiên cứu chỉ dừng lại ở những bài báo, những bài nghiên cứu nhưng
chỉ đề cập tới một số mặt của sự phân hố giàu nghèo như: xố đói giảm nghèo,
giảm bất bình đẳng xã hội, hoặc các giải pháp nhằm hạn chế sự PHGN. Để hiểu rõ
vấn đề này, trước tiên ta phải làm rõ một vài khái niệm liên quan tới vấn đề,
Trong một thời gian dài, các nhà kinh tế và nhiều nhà nghiên cứu đã điịnh nghĩa


giàu nghèo theo quan điểm định lượng, tức là đưa ra một chỉ số để đo lường chủ


yếu nhằm đơn giản hố việc hoạch định chính sách. Một số quan điểm về "nghèo":
Hội nghị về chống nghèo ở khu vực Châu á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức
tháng 9-1993 tại Bangkok, Thái Lan đã đưa ra định nghĩa về nghèo như sau : "
Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ
bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo
trình độ phát triển kinh tế xã hội phong tục tập quán của địa phương. Nhà kinh tế
học Mỹ Galbraith cũng quan niệm:"Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu
nhập của họ, ngay dù thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức
thu nhập cộng đồng. Khi đó họ khơng thể có những gì mà đa số trong cộng đồng
coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mực." Hội nghị thượng đỉnh
thế giới về phát triển xã hội tổ chức năm 1995 đưa định nghĩa về nghèo:"Người
nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới một đô la mỗi ngày cho mỗi
người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm cần thiết để tồn tại." Cịn
nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong cơng trình "Xố đói giảm
nghèo ở Việt Nam-1995" đã đưa ra định nghĩa:"Nghèo là tình trạng thiếu khả năng
trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh tế."
Xác định giàu nghèo là một việc khó vì nó gắn với từng thời điểm, từng quốc gia,
và được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau .Có thể hiểu nghèo tuyệt đối như
sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại.
Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các
thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng
tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta." Nghèo
tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật
chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so
với sự sung túc của xã hội đó. PHGN giàu nghèo là sự phân cực về kinh tế, là kết
quả tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế và đến lượt mình sự
phân hố đó lại trở thành ngun nhân kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển kinh

tế, là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành các nhóm xã
hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau, là phân tầng xã hội về mặt kinh tế, thể hiện
trong xã hội có nhóm giàu tầng đỉnh, nhóm nghèo tầng đáy. Giữa nhóm giàu và
nhóm nghèo là khoảng cách về thu nhập và mức sống. Có thể hiểu, PHGN là một
hiện tượng xã hội phản ánh q trình phân chia xã hội thành các nhóm xã hội có
điều kiện kinh tế và chất lượng sống khác biệt nhau; là sự phân tầng xã hội chủ yếu
về mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch giữa các nhóm này về tài sản, thu nhập, mức
sống.


biết. Đây là một trong những nguồn gốc của tệ nạn ma tuý xã hội mại dâm...và
tình trạng tội phạm gia tăng như hiện nay. Và chính sự tiêu xài hoang phí này cũng
làm ảnh hưởng tới những người nghèo, hoặc những ngưòi thuộc tầng lớp trung lưu.
Những người nghèo thì họ cảm thấy khơng cịn gì để mất vì vậy họ hành động
không như xã hội mong đợi là ăn cắp, trung gian trong những con đường buôn lậu,
vận chuyển ma tuý, bán dâm... nhằm mục đích giàu lên nhanh chóng, cịn người
khá giả, trung lưu dựa trên cơ sở sẵn có của mình ( của cải, vốn,mối quan hệ...)
moắc ngoặc với nhau làm ăn phi pháp. -Ảnh hưởng của PHGN còn lệch lạc các
định hướng giá trị và chuẩn mực đạo đức, lối sống của xã hội nhất là đối với thế hệ
trẻ: PHGN gây tình trạng thiếu hụt văn hoá trong phát triển. Những thanh niên
được sinh ra trong những gia đình khá giả, có quyền lực thường có tư tưởng " con
ơng cháu cha" coi thường luân lý, đạo đức xã hội, không chịu củng cố kiến thức.
Cịn những gia đình nghèo lại khơng đủ điều kiện để cho con ăn học chính vì vậy
nó gây nên tình trạng thiếu hụt văn hố trong xã hội. Nếu không sớm phát hiện và
nhận thức đầy đủ tác động tiêu cực của xu hướng này để sớm có giải pháp khắc
phục thì xã hội khơng thể đạt được sự phát triển bền vững. Như vậy, trong nền kinh
tế thị trường hiện nay, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo có xu hướng ngày càng
tăng lên và nó có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với xã hội. Vì vậy chúng ta
phải nhận diện rõ ảnh hưởng của nó để phát huy mặt tích cực, và giải quyết mặt
tiêu cực của sự PHGN. Nếu không giải quyết được mặt tiêu cực thì nó sẽ làm lệch

hướng đường lối xây dựng đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta và lây
nhiễm nặng dần bệnh "nan y" của CNTB.
Cách đây 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt
Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả nước chỉ còn
khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như khơng cịn hộ đói. Cũng cách đây 20
năm, có đến 2/3 tổng số hộ ở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ và cũng có
một tỷ lệ khơng nhỏ số hộ cịn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh.Tuy đạt
được những kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mơ số người nghèo ở Việt
Nam còn lớn. Việc phân bố số người nghèo không chỉ chênh lệch ở tỷ lệ cao thấp
qua các vùng, mà cịn ở quy mơ số người tuyệt đối.Theo số liệu thống kê của nhà
nước, vùng Đồng bằng sơng Hồng có khoảng 1,23 triệu người, vùng trung du và
miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền
Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người, Đơng
Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sơng Cửu Long có trên 1,84
triệu người.Đáng chú ý là với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như


Việt Nam thì ranh giới giữa mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy
cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra.
Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét
và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều
yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân
trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai.Ngồi ra, cịn xuất hiện một số đối
tượng nghèo mới ở những vùng đang trong q trình đơ thị hóa và nhóm lao động
nhập cư vào đơ thị, họ thường gặp khó khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu
nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những yếu tố làm gia tăng tình trạng tái
nghèo và tạo ra sự khơng đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng trong cả
nước.Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu/nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước đã
trải qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị trường của
chúng ta cịn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường hoang dã, đã

tạo ra những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng cơ chế để trục
lợi, tham nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng góp bao nhiêu để
chia sớt gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh tế ngày càng suy
giảm.Vì thế, nếu khơng nhanh chóng hồn thiện thể chế, nhất là thể chế dân chủ,
nhà nước pháp quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm, sở hữu chéo, lạm dụng
độc quyền… thì chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá lớn lại sẽ càng tăng
nhanh.Thách thức này đòi hỏi Nhà nước và cả xã hội, trong khi khuyến khích, tơn
vinh người làm giàu chính đáng, thì phải có biện pháp để tăng thu nhập của người
nghèo, đảm bảo hệ số chênh lệch sẽ được kiềm chế, tiến tới giảm dần khoảng cách
giàu – nghèo.Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích người giàu tham gia
vào đời sống xã hội bằng cách giảm thuế cho các đóng góp tự nguyện hoặc có các
quy định ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động từ thiện mà về lâu dài là
nhằm rút ngắn phần nào chênh lệch giàu nghèo.Cơng cụ điều tiết cơng bằng xã hội
có hiệu quả là khi tất cả mọi người đều đủ ăn đủ mặc, trẻ con được học hành, mọi
người đều có cơ hội làm việc, được sống tự do hạnh phúc, là những điều kiện cơ
bản phải đạt được. Và khi đó phân hóa giàu nghèo được trả lại vị trí của nó chỉ là
sự phát sinh tự nhiên trong thời buổi thị trường.
PHGN đã góp phần khơi dậy tính năng động xã hội trong con người ở nhiều
nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác cơ may, vận hội để phát triển
vượt lên. Kích thích sự sáng tạo của con người, nhằm tạo môi trường cạnh tranh
quyết liệt, qua đó sàng lọc và tuyển chọn những thành viên vượt trội, tạo động lực
cho sự phát triển của mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực hay mỗi địa phương. Đặc biệt
là số nhóm và nhóm người xã hội giàu lên do làm ăn đúng pháp luật. Và những hộ
đã giàu hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo làm cho nền kinh tế phát triển với
năng suất lao động cao, tăng phúc lợi xã hội cho người dân ( y tế, giáo dục ....)


thông qua thuế thu nhập của người giàu... Tuy nhiên, trên thực tế PHGN dẫn đến
làm trầm trọng hơn những bất bình đẵng xã hội. Đó là: Sự cách biệt giữa người
giàu và người nghèo ngày càng rộng. Những người giàu ngày càng có cơ hội phát

triển do có những điều kiện về vốn và kỹ thuật... còn người nghèo phải làm th và
bị bóc lột. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận và được đảm bảo những điều kiện sống cơ
bản ,tối thiểu. Mơt mặt vì họ q nghèo khơng đủ tài chính trang bị vốn, tri thức, kĩ
thuật...mặt khác trong cơ chế thị trường hoạt động dịch vụ cơ bản có xu hướng
phục vụ người giàu là chính. ở nơng thơn người nghèo thường thiếu vốn làm ăn,
muốn có vốn họ phải thế chấp nhà cửa ruộng vườn nên khơng có khả năng đảm
bảo tài chính nếu thiên tai xảy ra, chính vì vậy họ khơng dám đầu tư nên khơng
thốt khỏi tình trạng nghèo thâm niên. Chính vì vậy trong xã hội sự bất bình đẳng
ngày càng trầm trọng. Trong các hộ gia đình nghèo phụ nữ, trẻ em, người già lại là
những người thiệt thòi nhất , đặc biệt hộ nghèo thường rơi vào những gia đình là
đối tượng quan tâm của xã hội ( gia đình liệt sĩ, thương binh, người có cơng với
nước...) thì vấn đề này càng trở nên phức tạp hơn. Với nền kinh tế thị trường như
hiện nay, thì phân phối không thể công bằng. Đối với một số người giàu, giàu lên
nhanh chóng nhờ một số hoạt động siêu lợi nhuận như kinh doanh địa ốc, bất động
sản, một số loại hình hoạt động thương mại...nhưng họ phải có vốn có tri thức...tuy
nhiên bên cạnh đó có một số người làm giàu bất hợp pháp ( buôn lậu, trốn thuế,
tham nhũng...) Đặc biệt là tình trạng tham nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã hội
làm ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị- xã hội và khơng tạo động lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. PHGN góp phần tạo sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống.
Sự phát triển của lối sống tiêu dùng xa hoa, lãng phí trong bộ phận dân cư khá giả
có ảnh hưởng xấu tới các nhóm dân cư khác. Đặc biệt một số bộ phận gia đình mới
phất lên ( nhờ gặp may, hoặc do kế thừa...) sử dụng tiền theo lối sống buông thả,
bất chấp các chuẩn mực giá trị, đạo đức, hoặc không quan tâm đến con cái, để
chúng hư hỏng với cuộc sống xa đoạ, đồi truỵ mà không biết. Đây là một trong
những nguồn gốc của tệ nạn ma tuý xã hội mại dâm...và tình trạng tội phạm gia
tăng như hiện nay. Chính sự tiêu xài hoang phí này cũng làm ảnh hưởng tới những
người nghèo, hoặc những người thuộc tầng lớp trung lưu. Những người nghèo thì
họ cảm thấy khơng cịn gì để mất vì vậy họ hành động khơng như xã hội mong đợi
là ăn cắp, trung gian trong những con đường buôn lậu, vận chuyển ma tuý, bán
dâm... nhằm mục đích giàu lên nhanh chóng, cịn người khá giả, trung lưu dựa trên

cơ sở sẵn có của mình ( của cải, vốn,mối quan hệ...) moắc ngoặc với nhau làm ăn
phi pháp. PHGN còn ảnh hưởng tới định hướng giá trị và chuẩn mực đạo đức, lối
sống của xã hội nhất là đối với thế hệ trẻ. PHGN gây tình trạng thiếu hụt văn hoá
trong phát triển. Những thanh niên được sinh ra trong những gia đình khá giả, có
quyền lực thường có tư tưởng " con ông cháu cha" coi thường luân lý, đạo đức xã
hội, không chịu củng cố kiến thức. Cịn những gia đình nghèo lại khơng đủ điều
kiện để cho con ăn học chính vì vậy nó gây nên tình trạng thiếu hụt văn hố trong


xã hội. Nếu không sớm phát hiện và nhận thức đầy đủ tác động tiêu cực của xu
hướng này để sớm có giải pháp khắc phục thì xã hội khơng thể đạt được sự phát
triển bền vững. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo có xu hướng ngày càng tăng lên và nó có ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực đối với xã hội. Vì vậy chúng ta phải nhận diện rõ ảnh hưởng của nó để
phát huy mặt tích cực, và giải quyết mặt tiêu cực của sự PHGN. Nếu không giải
quyết được mặt tiêu cực thì nó sẽ làm lệch hướng đường lối xây dựng đất nước
theo định hướng XHCN ở nước ta và lây nhiễm nặng dần bệnh "nan y" của CNTB.
Câu 2. Vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn hiện nay
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể
nhất là kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn
nước ta có nhiều đổi thay, tuy nhiên bên cạnh những thành tựu ấy vấn đề việc làm
cho lao động nông thôn vẫ là một vấn đề xã hội bức bối ở đây. Nguồn nhân lực ở
nơng thơn đang bị lãng phí do không giải quyết được vấn đề việc làm. Tăng trưởng
kinh tế bị kìm hãm, thu nhập của người lao động giảm sút, tệ nạn xã hội và tội
phạm cũng vì thế mà len lỏi vào từng ngõ nhỏ của làng quê dẫn đến những bất ổn
về kinh tế - xã hội nông thôn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện nay vẫn còn gần 80% dân số sinh sống
ở vùng nông thôn, lực lượng lao động nông thôn chiếm 75% lực lượng lao động
của cả nước. Mỗi năm lực lượng này được bổ sung thêm khoảng 1 triệu người. Đất
canh tác ít, kinh tế nơng thơn kém đa dạng, tập trung chủ yếu là kinh tế nông

nghiệp bởi vậy, khả năng thu hút lao động cũng như giải quyết vấn đề việc làm gặp
nhiều khó khăn.
Khi bàn về lao động và việc làm ở nông thôn, bên cạnh việc là một nước đi lên
từ nghề trồng lúa nước, Việt Nam cịn là một nước có lực lượng lao động nông
thôn dồi dào. Lực lượng lao động mỗi năm ở nông thôn tăng nhanh, ruộng đất liên
tục bị chia nhỏ do hiện tượng tách hộ nhanh chóng dẫn đến tình trạng thiếu việc
làm ở nông thôn hiện nay khá trầm trọng và chủ yếu ở những người đang trong độ
tuổi lao động. Ngoài ra, hiện tượng thừa lao động cũng là một hiện tượng đáng bàn
tới khi nhắc đến vấn đề việc làm ở nơng thơn khi tình trạng tinh giảm biên chế
trong khu vực nhà nước những năm qua tăng lên – đây cũng chính là một trong
những nhuyên nhân gây sức ép lớn đối với vấn đề việc làm ở nông thôn hiện nay.


Là một quốc gia có lực lượng lao động đơng đảo, tuy nhiên chất lượng nguồn
lao động nông thôn lại chưa đáp ứng những yêu cầu của thị trường lao động trong
bối cảnh hiện nay. Số lao động có chuyên môn nghiệp vụ qua đào tạo tại khu vực
nông thôn không đồng đều khi mà xã hội ngày một phát triển với một trình độ
khoa học kĩ thuật tiến tiến, địi hỏi một đội ngũ nhân lực có trình độ chun mơn
hóa cao. Cơng tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa thực sự được chú
trọng. Bức tranh về việc làm ở nông thôn hiện lên chủ yếu thong qua hình ảnh
những con người lầm lũi “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, dùng sức mạnh cơ
bắp của bản thân để đổi lấy đồng tiền, bát gạo. Có thể thấy, đây chính là ngun
nhân cơ bản dẫn tới việc chậm chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH –
HĐH ở nông thôn hiện nay cũng như là một thách thức đối với các nhà đào tạo
nguồn lực ở hiện ta hiện nay.
Luồng di dân tự do từ nông thôn ra đô thị ngày càng tăng. Trong luồng di dân
gồm có người di dân thơng thường và người di dân tạm thời: Ở những người di dân
thông thường: quá trình di dân của họ là để thay đổi về không gian sinh sống và
làm việc nhằm mục đích tạo ra một nơi sinh sống mới tốt đẹp hơn. Ở đây ta đặc
biết chú ý tới người di dân tạm thời, họ là những người di dân đến thành phố tìm

việc trong thời gian nơng nhàn, khi đến thời kỳ mùa vụ thì họ quay trở về quê cũ
để làm cơng việc đồng áng. Di dân nói chung và di dân tạm thời nói riêng ảnh
hưởng tới chất lượng và số lượng nguồn lao động nông thôn. Bên cạnh việc làm
giảm đi sức ép về việc làm ở khu vực nơng thơn cịn ảnh hưởng tới chất lượng: Di
dân tạm thời đa số là những người trong độ tuổi lao động, trẻ, có sức khoẻ, có khả
năng chấp nhận lao động nặng nhọc làm những công việc mà người dân đô thị
không muốn làm. Phần lớn người di dân tạm thời là nam giới, hệ số giới tính là
4,57 (cứ 457 nam thì có 100 nữ) trong khi hệ số này của di dân thông thường là
1,03 như vậy việc nặng nhọc ở nơng thơn sẽ khơng có nhiều người có sức lực cáng
đáng. Điều này làm cho chất lượng nguồn lao động ở nông thôn sẽ ngày càng suy
giảm nếu khơng có những giải pháp xử lý hữu hiệu. Hơn nữa, nếu không được
quản lý và tổ chức thì di dân tạm thời cũng là nguồn gốc của tệ nạn xã hội, như
người lao động ở chợ lao động bị các cai, trùm bóc lột tàn nhẫn thậm chí bị đe doạ
đến tính mạng và đây cịn là nguồn gốc của các tệ nạn xã hội ở thành phố.
Để giải quyết vấn đề lao động - việc làm ở nông thôn phải đặt trong bối cảnh
chung của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Coi trọng thực hiện
CNH-HĐH trong phát triển nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp - ngư nghiệp - diêm


nghiệp) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất
lớn là nhiệm vụ quan trọng cả ở trước mắt và lâu dài.
Phát triển kinh tế xã hội nói chung, phát triển nơng nghiệp và xây dựng nơng
thơn nói riêng nhằm tạo mở việc làm. Đây là nhánh hoạt động quan trọng nhất liên
quan tới vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, nó quyết định cơ bản tới
việc tăng hoặc giảm chỗ làm việc trong thị trường lao động. Do vậy, phải thực hiện
các hoạt động nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế. Trong giai
đoạn hiện nay, việc tập trung đầu tư cho các trung tâm phát triển, các cực phát triển
là rất cần thiết, song khơng vì thế mà chúng ta khơng quan tâm tới đầu tư, phát
triển nông thôn; bởi lẽ nếu không làm thế sẽ nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nông
thôn rất khó giải quyết. Các cơ hội việc làm ở nông thôn sẽ được tạo ra từ phát

triển và đa dạng hố các hoạt động nơng - lâm nghiệp, đồng thời phát triển các dịch
vụ cung cấp hàng hoá vật tư đầu vào cho các hoạt động này. Phát triển các hoạt
động chế biến, lưu kho, vận chuyển và thị trường trong một dây chuyền khép kín,
đồng bộ từ mặt ruộng đến thị trường trong nước hoặc xuất khẩu. Phát triển các
ngành nghề nông thôn và dịch vụ khác trên cơ sở đổi mới, củng cố phát triển kinh
tế hợp tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế trang trại nhất là phát triển trang trại hộ gia
đình ở các vùng chậm phát triển và các vùng đất hoang hoá, đồi núi trọc. Vấn đề
trước mắt là tạo ra càng nhiều việc làm cho người lao động nói chung và người lao
động khu vực nơng thơn nói riêng càng tốt. Phải coi giải quyết việc làm không phải
chỉ là nhiệm vụ của ngành lao động mà còn là trách nhiệm của các cấp, các ngành,
các đơn vị cơ sở cũng như của mỗi gia đình và của riêng cá nhân người lao động.
Chỉ có huy động đồng bộ trong một thể thống nhất mọi nguồn lực của xã hội mới
có thể tạo được môi trường và điều kiện thuận lợi về kinh tế, xã hội và pháp lý
nhằm khuyến khích duy trì chỗ làm việc và tạo mở thêm nhiều chỗ làm việc mới
nhằm phát triển việc làm thường xuyên, ổn định và có hiệu quả.
Giải quyết việc làm ở nơng thơn phải gắn bó hữu cơ với phát triển chất lượng
lực lượng lao động: Với mục đưa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng lên, chúng ta
cần phải gắn bó tổ chức đào tạo nghề với sản xuất và thị trường sức lao động. Hình
thức đào tạo nghề ngắn hạn cần phải được coi trọng với phương châm “cần gì học
lấy”. Ngồi ra đào tạo nghề cho nơng dân các vùng ven đơ để có thể cơ động
chuyển sang làm ở các ngành nghề và dịch vụ khác cũng hết sức quan trọng và cần
thiết.


Để giải quyết tốt vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn chúng ta cần tập
trung vào các giải pháp như: ưu tiên đẩy mạnh quy mô và tốc độ dạy nghề cho lao
động nông thôn, mà trước hết là cho lao động trẻ. Bên cạnh đó để nâng cao hiệu
quả dạy nghề, kế hoạch đào tạo nghề thì ta cần xuất phát từ chiến lược ngành nghề
của địa phương nhằm phát huy truyền thống, thế mạnh của từng vùng. Cần ưu tiên
giành tỉ lệ ngân sách thích đáng để chi cho dạy nghề ở nông thôn. Đây là một yêu

cầu cấp bách mà từ trước tới nay chưa được quan tâm thoả đáng tương xứng với
tiềm năng lao động to lớn của khu vực nơng thơn. Có tỷ lệ ngân sách thích đáng sẽ
giúp nâng cao cơ sở vật chất giành cho dạy nghề (trường lớp, tài liệu,...) giúp nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên, thợ lành nghề, tạo tâm lý yên tâm công tác cho
họ, tạo động lực khuyến khích giáo viên, lao động giỏi về nông thôn dạy nghề. Nhà
nước cần tăng cường công tác quản lý của mình đối với dạy nghề ở nơng thơn. Bên
cạnh đó cần có chính sách hỗ trợ trong việc tiêu thụ sản phẩm mà người lao động ở
khu vực nông thôn làm ra để các cơ sở sản xuất ở đây có thể trụ vững trước cơ chế
thị trường.
Vấn đề tạo việc làm cho lao động ở nông thôn không thể tách rời khỏi vấn đề
huy động vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh: Muốn tạo được số lượng lớn việc
làm nhằm thu hút lực lượng lao động nông thôn, cần phát huy nội lực, trước hết là
nguồn vốn. Hiện nay, các nguồn vốn đầu tư cho nơng thơn và nơng nghiệp có từ
ngân sách Nhà nước, từ vốn tín dụng đầu tư ưu đãi, từ vốn của doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, của dân cư và vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó
cần phải huy động vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, trước hết để tạo
sự liên thơng giữa nơng thơng với thị trường bên ngồi, sau nữa là kích thích sản
xuất, tạo việc làm, từng bước hiện đại hố nơng thơn.
Phát triển và đa dạng hố sản xuất nông nghiệp: Việt Nam với các điều kiện
thuận lợi của mình (truyền thống, điều kiện khí hậu, đất đai, con người,...) đã có
một lợi thế so sánh rất lớn đối với các nước trong khu vực và thế giới. Phát triển
nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp - ngư nghiệp - diêm nghiệp) ở Việt Nam cần phù
hợp với các lợi thế so sánh và những thay đổi của thị trường trong nước, quốc tế để
có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường, bằng không sản phẩm sẽ trở lên dư
thừa, không tiêu thụ được sản xuất sẽ bị thu hẹp dẫn đến tình trạng mất việc làm.
Vì vậy để phát triển và đa dạng hố sản xuất nông nghiệp chúng ta cần phải: Đẩy
mạnh thâm canh lúa, từng bước hình thành các vùng tập trung sản xuất lúa năng
suất, chất lượng cao gắn với chế biến, bảo quản sau thu hoạch để nâng cao hiệu



quả sản xuất lúa gạo và đẩy mạnh xuất khẩu. Cần hình thành các vùng sản xuất tập
trung cây cơng nghiệp, rau quả, sử dụng các giống có chất lượng cao gắn liền với
công nghiệp chế biến và thị trường để nâng cao giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Tập trung bảo vệ có hiệu quả vốn rừng hiện có và làm
giàu rừng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phịng hộ. Hình thành các vùng sản xuất tập
trung gắn liền với chế biến nhằm nâng cao hiệu quả của nghề rừng. Cần đầu tư
đồng bộ cho chương trình ni trồng và đánh bắt thuỷ sản gắn với chế biến hiện
đại. Như vậy, phát triển và đa dạng hố sản xuất nơng nghiệp là một nguồn việc
làm vô cùng phong phú và hiệu quả đối với lao động nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và phát triển ngành nghề ở nơng
thơn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế với các chính sách khuyến khích tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế, các loại hình kinh tế phát triển tạo ra việc làm nhất là ở
các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất phi nơng nghiệp, lấy hộ gia đình làm đơn vị
kinh tế tự chủ,chính vì vậy mà q trình chuyển dịch cơ cấu lao động để phát triển
kinh tế hàng hố có một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc tạo mở việc làm và
phát triển nông thôn hiện nay. Hơn nữa từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực
và thực tiễn ở Việt Nam cho thấy chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển ngành
nghề và phát triển khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn là động lực để xố đói,
giảm nghèo, xây dựng nơng thôn phát triển, giảm cách biệt giữa thành thị và nơng
thơn giúp thực hiện tốt q trình cơng nghiệp hố nông thôn.
Trong nông thôn ở giai đoạn hiện nay đang diễn ra sự khôi phục các làng nghề
truyền thống và sự hình thành các làng nghề mới đáp ứng nhu cầu của thị trường
tạo ra việc làm và tạo ra thu nhập, nhiều làng nghề đã sử dụng tới 65-70% số lao
động của làng để tiến hành các hoạt động sản xuất, đồng thời thu hút lao động từ
các làng khác, xã khác. Nhìn thấy tương lai sáng sủa của phát triển ngành nghề,
chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn đối với việc làm và sự nghiệp CNHHĐH nơng thơn chúng ta cần: Có chính sách hỗ trợ khuyến khích các hộ chuyên,
các cơ sở nhỏ lẻ phát triển thành các hợp tác xã, các công ty để tăng sức cạnh tranh
và sản xuất có hiệu quả. Có chính sách ưu đãi trong vay vốn tạo việc làm, đổi mới
trang thiết bị, thời hạn vay vốn phù hợp với chu kỳ sản xuất. Có chính sách đầu tư
phát triển hạ tầng nông thôn, hỗ trợ đào tạo chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất

để tăng năng lực quản lý và chỉ đạo sản xuất. Bổ sung và điều chỉnh các chính sách
phát triển ngành nghề nơng thơng đang hiện hành để giúp cho ngành nghề ở nông


thơn có thể phát triển tối đa góp phần sử lý tốt những vấn đề lao động - việc làm và
đóng góp vào sự nghiệp phát triển nơng thơn theo hướng CNH-HĐH.

Câu 3. Vấn đề thanh niên
Thanh niên, tiếp cận từ góc độ xã hội học - dân cư có thể định nghĩa là một bộ
phận phức hợp của dân cư của một quốc gia - dân tộc bao gồm tất cả các cá thể ở
trong độ tuổi từ 15 đến 29. Như vậy, bộ phận dân cư được gọi là “thanh niên” này
chỉ phân biệt một cách tương đối với các bộ phận dân cư khác của quốc gia - dân
tộc ấy trên một tiêu chí duy nhất là giới hạn độ tuổi. Nếu sử dụng thuật ngữ “nhóm
xã hội” để chỉ tập hợp xã hội – dân cư “thanh niên” này thì có thể thấy “nhóm” này
có đường ranh giới nhóm (group boundary) rất mong manh, chẳng khác nào hai sợi
dây ảo chắn giữa hai đầu một khúc sơng ln ln chảy, bởi lẽ các thành viên của
nhóm liên tục vào ở đầu này và ra ở đầu kia do quy luật vận động tự nhiên của sự
“lớn lên” hay “già đi” của các thành viên. Và điều này cho thấy “thanh niên” là
một nhóm xã hội - dân cư “động” chứ khơng phải là một nhóm “tĩnh”, ổn định.
Đặc trưng này hàm chứa cả những ưu điểm và cả những nhược điểm của nhóm xã
hội - dân cư “thanh niên”. Một mặt, nhờ quy luật là nhóm “động” thường xun
cho nên nó ln là chủ thể chuyển tải liên tục các giá trị liên thế hệ, nhưng mặt
khác nó rất khó xác lập cho mình những giá trị xác định có thể tạo nên một bản sắc
nhóm bền vững (sustainable group identity). Vì vậy, việc nghiên cứu, khám phá
những định hướng giá trị, xác định những chiều cạnh khách quan và chủ quan của
văn hóa và lối sống của nhóm này hết sức khó khăn và ln hàm chứa độ dung sai
và rủi ro cao.
Với tính cách là một nhóm xã hội - dân cư, “thanh niên” không chỉ “động” và
phức hợp xét theo chiều dọc mà còn hết sức phức hợp theo chiều phẳng ngang, bởi
lẽ nó hàm chứa trong đó những cá thể ở độ tuổi thanh niên có nguồn gốc xuất thân

khác nhau, thuộc mọi giai tầng trong xã hội, với các trình độ học vấn, tơn giáo, sắc
tộc, giới tính, thành thị và nông thôn và với nhiều ngành nghề khác nhau, dưới sự
tác động của nhiều định hướng ý thức hệ, tư tưởng, truyền thống, mơ hình ứng xử
và với nhiều loại thói quen, tập tục vv... khác nhau. Hơn nữa, xét riêng về độ tuổi
thì nhóm xã hội - dân cư “thanh niên” cũng chỉ là một nhóm lớn, bao gồm trong đó


nhiều nhóm nhỏ thuộc các độ tuổi khác nhau. Một số người chia “thanh niên”
thành 3 tiểu nhóm (subgroup) ở các độ tuổi 14-17, 18-21, 22-25 (ở đây giới hạn
cho tuổi “vị thành niên và thanh niên” được tính từ 14 đến 25). Trong khi đó một
số nhà nghiên cứu khác lại chia “thanh niên” thành các tiểu nhóm theo các độ tuổi
15- 19, 20-24 và 25-29.2 Trong một chuyên khảo xuất bản gần đây, Đặng Cảnh
Khanh lại chia “dân số thanh niên” thành hai nhóm lớn theo các độ tuổi, 15 - 24 và
25 - 34 (ở đây giới hạn độ tuổi của thanh niên được tính từ 15 đến 34).
Ngồi tiêu chí độ tuổi, nhóm xã hội - dân cư “thanh niên” cịn có thể được chia
thành các tiểu nhóm khác nhau, như thanh niên thành thị, thanh niên nông thôn
(nếu lấy địa bàn cư trú làm tiêu chí phân biệt), hay thanh niên cơng nhân, thanh
niên nơng dân hoặc thanh niên trí thức (nếu lấy nghề nghiệp làm tiêu chí phân
biệt)... Ngồi ra, các yếu tố khác như tộc người, tơn giáo, giới tính, giàu - nghèo...
cũng có thể được coi là tiêu chí để phân biệt các tiểu nhóm trong nhóm lớn “thanh
niên”.
Qua đó có thể thấy “thanh niên” là một nhóm xã hội dân cư có tính phức
hợp(hetrogenousness) rất cao, hàm chứa trong đó nhiều sự đa dạng (diversities) về
độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú, định hướng giá trị, lợi ích, tâm linh
và các mơ hình ứng xử (modes of behaviors) và lựa chọn xã hội (social
preferences)... Vì vậy, trong nghiên cứu về văn hóa thanh niên và lối sống thanh
niên cần phải đặc biệt lưu ý đến tính phức hợp và tính đa dạng cao của nhóm xã
hội - dân cư này, đồng thời phải ln ln đặt nhóm đó trong mối liên hệ với các
nhóm xã hội - dân cư, xã hội - nghề nghiệp, xã hội - giai cấp hoặc những cộng
đồng dân cư khác nhau để xem xét, tham chiếu. Để khám phá và nhận diện đầy đủ

hơn tính phức hợp và đa dạng trong cấu trúc xã hội, trong định hướng giá trị, trong
mô thức ứng xử và trong lối sống của thanh niên thì nhất định các nghiên cứu,
khảo sát về thanh niên cần phải dựa trên hai cách tiếp cận căn bản là tiếp cận đa
chiều (multi-dimensional approach) và liên ngành (multi-disciplinary approach).
Đây là một địi hỏi có tính phương pháp luận trong nghiên cứu về thanh niên, và
thực tế đây là một đòi hỏi rất khó khăn mà nhà nghiên cứu khơng dễ gì đáp ứng
được, cho dù họ có ý thức đầy đủ và rõ ràng về tính chính đáng của địi hỏi này.
Dù là nhóm xã hội - dân cư có tính phức hợp và đa dạng rất cao như đã chỉ ra ở
trên, “thanh niên” vẫn có những đặc điểm, đặc trưng chung, tạo nên tính thống nhất


(unity), những sự tương đồng (similarities) là cơ sở cho độ cố kết của nhóm (group
cohesion).
Cái chung, cái thống nhất căn bản nhất của “thanh niên” chính là ở tuổi trẻ, ở
độ tuổi “thanh niên” của tất cả các thành viên. Trong cuộc đời của mỗi con người
thì tuổi thanh niên có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Xét từ góc độ tâm - sinh lý thì
đây là giai đoạn con người chuyển biến từ một đứa trẻ thành một người trưởng
thành với sự hoàn thiện cơ thể về mặt sinh học và những chuyển biến về tâm - sinh
lý, tình cảm rất điển hình của “tuổi dậy thì”. Xét từ góc độ “con người -xã hội” thì
tuổi thanh niên chính là giai đọan mỗi con người chuẩn bị hành trang cho tồn bộ
cuộc đời mình: học vấn, nghề nghiệp, thử nghiệm và lựa chọn văn hóa, kinh
nghiệm, lối sống trên cở sở định hình dần hệ giá trị của riêng mình, trở thành cơng
dân thực thụ với đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định, lựa chọn bạn
đời và lập gia đình (hay khơng lập gia đình)...
Với ý nghĩa nhóm xã hội - dân cư thì thanh niên cũng có vai trị và ý nghĩa vơ
cùng quan trọng trong đời sống của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia - dân tộc. Hồ Chí
Minh từng nói: “Một năm bắt đầu bằng mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ.
Tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc.” Thanh niên là nhóm xã hội - dân cư có sứ mệnh
đón nhận sự “trao truyền” giá trị, bàn giao nhiệm vụ, ủy thác trách nhiệm, gửi gắm
niềm tin của thế hệ đi trước (thế hệ già đã và đang giữ vai trị lãnh đạo gia đình cộng đồng - quốc gia dân tộc). Vì vậy, có thể nói thanh niên chính là tương lai của

tồn cộng đồng, dân tộc. Nếu thế hệ thanh niên không được chuẩn bị chu đáo để
tiếp nhận sự bàn giao sứ mệnh, kế tục các thế hệ đi trước thì số phận và tương lai
của toàn bộ cộng đồng quốc gia - dân tộc sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.
Chính vì vậy mà các thế hệ đi trước đều thường rất quan tâm tới việc đào tạo,
rèn luyện, gây ảnh hưởng với thanh niên bằng nhiều phương thức khác nhau, chuẩn
bị để họ nhận lãnh trách nhiệm với dân tộc và cộng đồng, kế tục sự nghiệp của các
thế hệ đi trước. Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và nhân dân
ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”.
Do tầm quan trọng của mối quan hệ liên thế hệ này mà sự giao phó - nhận lãnh,
bàn giao - kế tục, trao truyền - tiếp nhận giữa các thế hệ “già” và thanh niên cũng


luôn luôn nảy ra những xung đột phức tạp, đôi khi khá gay gắt. Về phía các thế hệ
“già”, họ thường có xu hướng trở nên bảo thủ, coi những lựa chọn, những chế định
và những mơ hình, chính sách, quan niệm... của thế hệ đi trước là tuyệt đối đúng,
lo ngại thế hệ kế tục sẽ chỉnh sửa hoặc thay đổi, phủ nhận tất cả, mà quên rằng đó
là lựa chọn và quyết định có tính lịch sử của thế hệ của họ mà thôi. Hơn nữa, họ
cũng thường coi thanh niên là những người non nớt, không đủ bản lĩnh và kinh
nghiệm để thay thế cho thế hệ của họ, cho dù họ cũng từng trải qua thời thanh niên
và ý thức đầy đủ được rằng việc họ nhường chỗ cho thế hệ trẻ hơn là một tất yếu
khách quan.
Về phía thanh niên thì khơng được qn rằng sứ mệnh của họ là người kế tục,
nhận lãnh trách nhiệm, sứ mệnh và các giá trị của các thế hệ già. Tuy nhiên, vì họ
là thế hệ của những người trẻ tuổi, là sản phẩm đích thực của thời đại mà họ đang
sống chứ không phải thuần túy chỉ là sản phẩm đào tạo, bồi dưỡng của thế hệ
“già”. Vì vậy họ là lớp người vơ cùng năng động, khơng bị động mà ln ln chủ
động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho tương lai của bản thân mình và
của quốc gia - dân tộc. Vì vậy, bên cạnh những gì họ bị ảnh hưởng do tiếp nhận
những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi trước thì họ ln ln có lựa chọn của

riêng mình và thế hệ mình. Ngồi ảnh hưởng của thế hệ “cha chú” trong cộng đồng
gia đình hay quốc gia - dân tộc, trong thời đại tồn cầu hóa, họ cịn chịu ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng
đồng và cá nhân khác trên thế giới. Với tất cả những điều kiện đó, thanh niên
thường có xu hướng thử nghiệm nhiều khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ
còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho những thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có
phạm sai lầm vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm lại. Và vì vậy, phần đơng thanh
niên thường có xu hướng hồi nghi, kiểm chứng lại những lựa chọn, chế định và
quan niệm của thế hệ đi trước, thậm chí cố tình phủ nhận, làm khác, coi đó như
một phương thức để khẳng định tư cách “người lớn” của mình. Đó là nguyên nhân
thường dẫn đến những “lệch chuẩn” trong ứng xử văn hóa của thanh niên. Khi
những thử nghiệm bị thất bại, những “lệch chuẩn” bị lên án thì thanh niên sẽ rơi
vào tình trạng bi quan, chán nản, phản kháng và thậm chí là phạm tội.
Tính trẻ, năng động, ưa thử nghiệm và dễ phạm sai lầm và xung đột với thế hệ
đi trước chính là mẫu số chung, là đặc điểm chung của thanh niên ở mọi thời đại,


mọi quốc gia - dân tộc. Hơn nữa, càng về sau và càng ở các quốc gia - dân tộc văn
minh, hiện đại, tình trạng này càng bộc lộ rõ, phức tạp và gay gắt hơn. (Trong các
xã hội thời cổ đại và trung đại thì khoảng thời gian dành cho tuổi “thanh niên” của
con người thường rất ngắn, bởi khi đó con người “chưa kịp lớn đã phải già”, vừa
bước qua tuổi vị thành niên đã buộc phải làm người lớn với đầy đủ chức phận của
mình. Cịn ở các nước chậm phát triển hiện nay thì nhìn chung tốc độ thay đổi tri
thức, kinh nghiệm, kinh tế và văn hóa là chậm hơn so với các nước phát triển. Vì
vậy sự khác biệt thế hệ giữa thanh niên và thế hệ già thường nhỏ hơn, đơn giản hơn
nên các “xung đột thế hệ” cũng dường như ít gay gắt và phức tạp hơn.)
Qua những phân tích ở trên thì có thể khẳng định tính trẻ và năng động là một
trong những đặc trưng chung của thanh niên ở tất cả các quốc gia - dân tộc và
trong các thời đại lịch sử khác nhau. Lịch sử đã chứng minh rằng các hệ tư tưởng,
tơn giáo, học thuyết, chính sách, chế định, pháp luật và luật tục thường là sản phẩm

của các thế hệ lớn tuổi, nhưng các khởi xướng (initiative) xã hội, văn hóa, lối sống
các trào lưu và các phản kháng xã hội – chính trị, các giáo phái, các dòng thời
trang và âm nhạc… thường xuất hiện trong thanh niên, bắt nguồn từ thanh niên.
Cuối cùng đời sống các cộng đồng, các quốc gia - dân tộc và toàn nhân loại chỉ tái
lập được sự ổn định tương đối, sự hài hòa và phát triển bền vững khi sự tương tác
liên thế hệ và giữa thanh niên và nhóm người “già” tìm được tiếng nói chung và
đạt được những sự nhân nhượng thích hợp (rational compromise), đồng thời những
xung đột “bề ngang” giữa các giai cấp và các nhóm xã hội khác nhau tìm được sự
thỏa thuận về lợi ích. Ngồi đặc trưng chung có tính bao trùm nói trên, trong mỗi
cộng đồng cư dân và mỗi quốc gia - dân tộc và ở từng thời kỳ lịch sử thanh niên
cịn có những đặc điểm chung khác. Để khám phá những đặc điểm chung này cần
có những khảo sát liên ngành cụ thể.
Văn hóa thanh niên cũng là một phạm trù được bàn luận khá sôi nổi trên văn
đàn khoa học ở Việt Nam và nước ngồi. Mặc dù phần đơng các nhà nghiên cứu
đều có thể đồng ý với nhau về sự tồn tại khách quan của văn hóa thanh niên, nhưng
cách tiếp cận và định nghĩa về văn hóa thanh niên thì lại rất khác nhau.
Một cách tiếp cận và quan niệm được chấp nhận khá rộng rãi hiện nay là coi
văn hóa thanh niên là một loại “tiểu văn hóa” (subculture).5Người khởi xướng cách
tiếp cận này chính là nhà xã hội học người Anh Dick Hebdige với tác


phẩm Subculture in the Meaning of Style (Tiểu văn hóa trong ý nghĩa của phong
cách) xuất bản lần đầu tiên vào năm 1979.6 Sau đó, một số học giả khác cũng cơng
bố những nghiên cứu về văn hóa thanh niên theo hướng tiếp cận này. Có thể kể đến
các cơng trình sau đây là tiêu biểu nhất: Brake, Michael (1985)Comparative Youth
Culture: The sociology of youth culture and youth subcultures in America, Britain
and Canada, Routledge, New York; Hall, Stuart & Jefferson, Tony
(1993) Resistance Through Rituals: Youth Subcultures in Post-war Britain,
Routledge, London và cơng trình của R. White, Youth Subculture: Theory, History
and the Australian Experiencexuất bản tại Australia năm 1993.

Xuất phát từ những khảo sát về phong trào “Punk” xuất hiện trong thanh niên
Anh vào những năm 70 của thế kỷ trước, Hebdige cho rằng văn hóa thanh niên là
một loại tiểu văn hóa được nhận biết bởi tính đặc trưng của phong cách, ứng xử và
các sở thích. Theo Hebdige thì các thành viên của tiểu văn hóa này thường báo
hiệu/ bộc lộ tư cách thành viên của mình thơng qua những lựa chọn vật thể / hữu
hình có tính biểu tượng và rất điển hình vềphong cách ăn mặc, đầu tóc và giày
dép… Bên cạnh đó các yếu tố phi vật thể/ vơ hình như sở thích chung, phương
ngữ, tiếng lóng, loại hình âm nhạc và cả những khơng gian tụ tập được ưa thích
cũng đều là những yếu tố nhận biết quan trọng.
Theo Michael Brake thì các “tiểu văn hóa thanh niên” có thể được định nghĩa là
những hệ thống biểu đạt ý nghĩa (meaning systems), những mô thức tự bộc lộ bản
thân mình (modes of expression) hay phong cách sống (lifestyle) do các nhóm yếu
thế trong xã hội tạo nên nhằm để đối phó với các hệ thống đang chiếm vai trò chủ
đạo trong xã hội - và điều này phản ánh những nỗ lực nhằm giải quyết những mâu
thuẫn có tính cấu trúc hình thành từ những môi trường xã hội rộng lớn hơn.7Cũng
theo hướng này Stuart Hall và Tonny Jefferson cho rằng các tiểu văn hóa thanh
niên là các nỗ lực có tính nghi lễ và biểu tượng phản kháng lại quyền uy của bá
quyền tư sản (power of bourgeois hegemony) thông qua việc tiếp nhận một cách có
ý thức những cách ứng xử tỏ ra có thể đe dọa tới sự tồn tại của trật tự hiện tồn.8
Do vậy, các nghiên cứu về văn hóa thanh niên theo cách tiếp cận đối tượng này
với tính cách là một loại hình “tiểu văn hóa” thường tập trung vào phân tích các
biểu tượng văn hóa gắn với cách phục trang, loại hình âm nhạc được ưa thích hoặc
là những tác động hữu hình lên các thành viên của tiểu văn hóa đó. Đơi khi người


ta cũng so sánh tác động và ý nghĩa của những biểu tượng văn hóa đó đối với các
thành viên của nền văn hóa chủ đạo. Đây là cách tiếp cận và thao tác nghiên cứu
của trường phái xã hội học chức năng (functionalist sociology) khá thịnh hành ở
phương Tây sau Thế chiến II.
Lý thuyết về tiểu văn hóa và cách tiếp cận này đã mang lại cho việc nghiên cứu

và những khảo sát có tính thực chứng về thanh niên nói chung và văn hóa thanh
niên nói riêng một cơ sở học thuật và cơng cụ phân tích khá sắc bén, đặc biệt là khi
đề cập tới những trào lưu mới lạ xuất hiện trong giới trẻ phương Tây như phong
trào hippies, punk, skinheads, kể cả phong trào hòa bình, phản chiến và những
dịng nhạcpop, rock, techno…
Tuy nhiên, từ khi xuất hiện cho tới nay lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận
này trong nghiên cứu thanh niên đã ngày càng bị phê phán mạnh mẽ. Có thể nhận
thấy ngay một số “tử huyệt” của lý thuyết về tiểu văn hóa thanh niên. Thứ
nhất, theo cách tiếp cận này thì bản chất của “tiểu văn hóa thanh niên” chỉ là sự
phản kháng xã hội của thanh niên đối với những chế định hiện tồn, hàm ý do thế hệ
“già” áp đặt cho xã hội. Đó là cách tiếp cận sẽ dẫn đến những ngộ nhận về xung
đột thế hệ như đã phân tích ở trên. Những xung đột mang tính phản kháng đó là có
thực, khơng ít khi hiện hữu bởi những phong trào thanh niên rộng lớn, nhưng đó
chỉ là một mặt của mối quan hệ liên thế hệ giữa thanh niên và các thế hệ đi trước.
Bên cạnh mặt phản kháng, phủ nhận, chối bỏ thì xu hướng tiếp nhận có chọn lọc
vẫn là xu hướng mang tính chủ đạo. Nếu khơng thừa nhận hoặc xem nhẹ xu hướng
này thì người ta sẽ khơng hiểu được tính liên tục của lịch sử nhân loại nói chung và
lịch sử của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc nói riêng, từ truyền thống tới hiện đại, từ
quá khứ đến tương lai và thậm chí cũng khơng phân tích được tính liên tục và tính
đứt đoạn trong sự phát triển nhân cách của mỗi con người.
Hơn nữa, như Shane Blackman chỉ ra trong một bài nghiên cứu gần đây, rằng
cách tiếp cận này không thể chỉ ra những biến đổi có tính cấu trúc của thanh niên
và văn hóa thanh niên. Như đã phân tích ở trên, mỗi thanh niên khơng chỉ mang
trong mình “tư cách” là một thanh niên, mà đồng thời anh/ chị ta còn đại diện cho
gia đình mình, cộng đồng mình, tơn giáo mình, sắc tộc của mình và giai cấp của
mình. Vì vậy, thật là sai lầm nếu quan niệm thanh niên chỉ là thanh niên, và chỉ là
sản phẩm, đồng thời là đại diện của “tiểu văn hóa thanh niên”.


Thứ ba, lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận này dường như chỉ quan tâm tới

những yếu tố bề mặt của văn hóa thanh niên, như cách phục trang, ngơn ngữ, loại
hình vui chơi và một số phong cách sống điển hình... Như vậy, những nghiên cứu
theo hướng này tuy có làm được việc rất tốt là nhận dạng thanh niên và sự biến đổi
của văn hóa và lối sống thanh niên. Nhưng dường như cách tiếp cận này không cho
phép người ta khám phá những chiều sâu của văn hóa thanh niên, đặc biệt là sự
biến đổi của hệ giá trị văn hóa và các yếu tố làm nảy sinh và định hướng các xu
hướng biến đổi đó.
Do những “tử huyệt” như trên mà lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận văn
hóa thanh niên dựa trên cơ sở của lý thuyết này chỉ có thể được coi như một hướng
bổ trợ đặc biệt. Theo chúng tơi, văn hóa thanh niên trước hết phải được coi là một
bộ phận khơng tách rời của văn hóa dân tộc. Nó có mối liên hệ hữu cơ với các bộ
phận và các thành tố khác của văn hóa dân tộc (suy rộng ra là cả nền văn hóa nhân
loại) theo cả ba chiều: chiều dọc, chiều phẳng ngang và chiều sâu. Văn hóa thanh
niên, vì vậy, trước hết cũng phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc, với những đặc điểm
chung của nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thanh niên là một
nhóm xã hội - dân cư đặc thù của cộng đồng quốc gia - dân tộc. Vì vậy nó cũng
cịn có những đặc điểm, đặc trưng và sắc thái riêng của nó. Tuy nhiên, trước khi
nói về cái riêng, cái đặc thù của văn hóa thanh niên thì cần phải nhấn mạnh thêm
một lần nữa, rằng văn hóa thanh niên là một bộ phận hữu cơ của văn hóa dân tộc,
xét theo tất cả các chiều cạnh.
Những đặc điểm, đặc trưng và sắc thái riêng của văn hóa thanh niên bắt nguồn
từ chính vị thế đặc biệt của nhóm xã hội - dân cư thanh niên. Như đã chỉ ra ở trên,
nhóm này có đặc điểm là trẻ và năng động, nơi hệ giá trị chưa định hình và đang
kiểm nghiệm và thử nghiệm những gì họ nhận được từ thế hệ đi trước, tiếp thu
được từ thế giới bên ngoài, cọ xát lẫn nhau để sáng tạo ra hệ giá trị mới, mô thức
ứng xử mới, với những lựa chọn sống ln ln mới. Tất cả những q trình và
hiện tượng này cũng xuất hiện ở các nhóm xã hội – dân cư khác, kể cả nhóm người
già, nhưng khơng tiêu biểu như ở thanh niên.
Đặc điểm này khiến cho những nhà nghiên cứu, đặc biệt là những người theo lý
thuyết “tiểu văn hóa”, ngộ nhận, cho rằng văn hóa thanh niên là một lọai hình khu

biệt, thậm chí tương phản đối với nền văn hóa chủ đạo của quốc gia - dân tộc.


Một vấn đề có tính quy luật là: bất cứ nền văn hóa nào cũng ln ln biến đổi
cùng với thời gian, bởi văn hóa vừa là sản phẩm, lại vừa là nền tảng và phương tiện
cho hoạt động sáng tạo khơng ngừng của nhân loại. Trong q trình biến đổi đó,
những hệ giá trị văn hóa ln ln được kiểm nghiệm và thử thách. Trong khi một
số giá trị và hệ giá trị này được duy trì, hồn thiện thì những giá trị khác, hệ giá trị
khác có thể bị xói mịn, thậm chí biến mất hồn tồn. Sự thay đổi hệ giá trị văn hóa
vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của sự biến đổi của ứng xử văn hóa.
Tuy nhiên, sự biến đổi đó khơng ngang bằng nhất lọat về cường độ và không
diễn ra dưới những hình thức giống nhau trong các nhóm xã hội - dân cư. Riêng ở
thanh niên thì quá trình này bộc lộ ra rõ nét hơn, nhất là tại các xã hội chuyển đổi
như xã hội Việt Nam hiện nay. Bởi vậy nên mật độ của những thử nghiệm, kiểm
nghiệm, phủ nhận và tiếp thu các giá trị văn hóa thông qua sự thay đổi đa dạng của
ứng xử văn hóa tỏ ra dày đặc và sơi nổi, gay gắt hơn ở thanh niên. Văn hóa thanh
niên chính là cầu nối giao lưu, là bộ phận tiên phong của nền văn hóa dân tộc trong
q trình “tự làm mới bản thân” của nền văn hóa đó.
Qua đó, có thể thấy trong nghiên cứu về văn hóa thanh niên, vừa phải đặt nó
trong mối liên hệ hữu cơ với nền văn hoá dân tộc, vừa phải đặc biệt chú trọng đến
việc khám phá những cái riêng, cái đặc thù của văn hóa thanh niên.
Về lối sống thanh niên
Do có những quan niệm và cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu về thanh
niên và văn hóa thanh niên nên cách tiếp cận, nhận diện và phân tích về lối sống
thanh niên cũng rất khác nhau. Trước hết là cách định nghĩa và tiếp cận trong
nghiên cứu về lối sống nói chung. Ở đây cũng có nhiều cuộc tranh luận sơi nổi với
nhiều kiến giải và đề xuất khác nhau. Trên cơ sở tiếp thu có phê phán quan điểm
của những người đi trước, trong một nghiên cứu gần đây tôi đã đề xuất một định
nghĩa mới về lối sống như sau: “Lối sống của con người là các chiều cạnh chủ
quan của văn hóa, là q trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thơng qua họat

động sống của con người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và
phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc tồn thể
nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian


tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện
hữu và trong các mối liên hệ lịch sử của chúng”
Điểm cốt lõi trong cách tiếp cận của tôi ở đây là việc chỉ ra cái ranh giới mong
manh, tương đối giữa lối sống và văn hóa. Theo tơi, lối sống chỉ là những chiều
cạnh chủ quan (subjective dimensions) của văn hóa được bộc lộ ra trong q trình
hiện thực hóa các giá trị văn hóa thơng qua hoạt động sống của con người. Như
vậy, lối sống chỉ là những giá trị văn hóa, những mơ hình và phương thức ứng xử
được đa số cá thể của một cộng đồng người xác định nào đó chấp nhận (cái được
lựa chọn) và hiện thực hóa trong hoạt động sống hằng ngày của họ. Trong số đó có
cả những giá trị, những truyền thống và những cách ứng xử được trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác, nhưng cũng bao gồm cả những giá trị ngoại sinh, những
cách ứng xử và những biểu tượng… ngoại nhập.
Vận dụng cách tiếp cận trên khi nghiên cứu về lối sống và các xu hướng biến
đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và tồn cầu hóa với tốc độ ngày càng gia tăng hiện nay, một mặt cần chú ý đến tác
động và ảnh hưởng của những giá trị văn hóa, chế định và phương thức ứng xử
truyền thống đối với các nhóm thanh niên hiện nay. Mặt khác, cần phải đặc biệt
chú trọng việc khảo sát và phân tích ảnh hưởng của các giá trị và các phương thức
ứng xử văn hóa từ bên ngồi đối với các nhóm thanh niên Việt Nam. Đồng thời cần
phải đặt tất cả những sự khảo sát và phân tích đó trong mối liên hệ ba chiều: chiều
dọc: nhằm khám phá tác động của những yếu tố đó và sự hiện thực hóa các tác
động đó trong từng “tiểu nhóm” của thanh niên Việt Nam được phân chia theo độ
tuổi; chiều phẳng ngang: nhằm tiếp cận và khám phá tác động của các yếu tố văn
hóa truyền thống - nội sinh và các yếu tố hiện đại - ngoại nhập đối với mỗi tiểu
nhóm thanh niên chia theo địa bàn cư trú, nghề nghiệp, sắc tộc hay tôn giáo;

và chiều sâu: nhằm khám phá mối liên hệ giữa những biến đổi của hệ giá trị văn
hóa với những biến đổi “bề mặt” của lối ứng xử, lối phục trang, ngôn ngữ, lối lao
động… của thanh niên. Trên cơ sở của cả ba cách tiếp cận đó sẽ cho phép nhận
diện và đánh giá xu hướng và mức độ biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam
trong bối cảnh đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội
nhập quốc tế.


Câu 5. Khó khăn, thách thức khi hội nhập
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là
việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã
diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mơ tồn cầu đã diễn ra
từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang
mạng lưới giao thơng, thúc đẩy lưu thơng hàng hóa trong tồn bộ lãnh địa chiếm
đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi. Hội nhập
kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa
các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ thập niên
1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ
hơn, hội nhập kinh tế là q trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt,
gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông
qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và
mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và tồn cầu.
Hội nhập kinh tế có nhiều cấp độ như: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu
vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh
kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức
là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa
phương - tức là có quy mơ tồn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương
mại Thế giới đang hướng tới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi
hàng hóa, tự do hóa thương mại và đầu tư:Về thương mại hàng hóa: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như

QUOTA, giấy phép xuất khẩu…, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm
dần theo lịch trình thỏa thuận…- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị
trường cho nhau với các bốn phương thức: cung cấp qua biến giới, sử dụng dịch vụ
ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh.
Về thị trường đầu tư: Không áp dụng đối đầu với đầu tư nước ngoài yêu cầu về
tỉ lệ nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ
khuyết khích tự do hóa đầu tư…
Thuận lợi và thách thức khi Việt Nam hội nhập kinh tế.Việt Nam tham gia tổ
chức thương mại Thế giới (WTO) ngày 7/11/2006. Đây là dấu mốc quan trọng của
Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập quốc tế luôn tồn tại
hai mặt đối lập. Đó là hội nhập kinh tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ
thuận lợi và đem lại khơng ít những thách thức. Kiểm chứng cho nhận định chính
là tình hình thực tế sau 3 năm hội nhập kinh tế của nước ta.I. Thuận lợi khi Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế.1. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi


trong thị trường xuất nhập khẩuViệt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan , xóa bỏ
hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hòa
của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng
thị trường xuất khẩu và trong tương lai. Cùng với sự dần lớn mạnh của doanh
nghiệp và nền kinh tế nước ta là mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới
quốc gia. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn.
Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của
người lao động. Thực tế cho thấy những gì chúng ra đã đạt được rất khả quan. Năm
2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006;
Năm 2008 ước tính đạt khoảng 63 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Thị
trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm
nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, .2. Hội
nhập kinh tế quốc tế góp vấn thu hút vốn đầu từ nước ngồi.Chúng ta đã và sẽ tiếp
tục thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài.Với cơ chế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy
định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây
là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần
kinh tế trong nước mà cịn thu hút mạnh đầu tư nước ngồi. Từ đó tạo ra cơng ăn
việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển. Thực tế
trong những năm qua đã cho thấy năm 2008, dù tình hình kinh tế thế giới xấu đi,
nhưng vốn FDI cam kết đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007. Mặt
khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt
Nam 2cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển
công nghệ.4. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học, công nghệ tiên tiến. Trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế, với đường lối đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp nhận
vốn, tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức
quản lý tiên tiến của nước ngồi để nhanh chóng tăng cường năng lực KH&CN
quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Lao động Việt Nam có cơ hội
tham gia sâu rộng vào phân công lao động toàn cầu, tiếp cận với khoa học kĩ thuật
tiên tiến, nâng cao trình độ, tăng thu nhập…3. Hội nhập quốc tế (gia nhập WTO) sẽ
nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao . Thực tế
cho thấy vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM
và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao (giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN…).5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện
thuận lợi cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Tận dụng những
thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào
những cơng nghệ hiện đại để rút ngắn q trình CNH, HĐH và khoảng cách phát
triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một


chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số
lĩnh vực của kinh tế tri thức.6. Hội nhập kinh tế thế giới tạo ra những điều kiện

thuận lợi cho sự phát triển KH&CN trong thời gian tới.Quá trình đổi mới đất nước
đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển KH&CN của nước ta trong thời gian
tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là
điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi
mới công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN trong nền kinh tế, nhất là trước sức
ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.3II. Thử thách khi
Việt Nam hội nhập kinh tế, quốc tế.Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh
tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị
trường nước ngồi để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị
trường trong nước. Lấy một thí dụ thực tế như: Nhiều siêu thị lớn do các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư đã mọc lên. các siêu thị này, với tiềm lực tài chính mạnh,
mạng lưới cung cấp hàng liên kết tồn cầu, kinh nghiệm kinh doanh cả trăm năm .
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và phong phú của người tiêu
dùng. Do đó Những cửa hàng tạp hóa nhỏ lẻ hoặc những siêu thị nội phải cạnh
tranh khốc liệt để tồn tại, thậm chí bị phá sản vì khơng thể cạnh tranh với siêu thị
ngoại. Sau khi gia nhập WTO Việt Nam có thị trường rộng hơn, cơ hội rộng hơn
nhưng thách thức cũng nhiều hơn. Rất nhiều doanh nghiệp đã gặp phải nhiều khó
khăn trong việc xuất khẩu sản phẩm của mình. Bởi để có thể xuất khẩu sản phẩm
sang các thị trường khó tình như Nhật Bản , EU… thì yêu cầu được đặt ra rất cao
như về chất lượng sản phẩm, giá cả…Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự
chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và
dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức
ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm
sốt vĩ mơ, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của tồn bộ nền
kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những
khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được mơi trường để q trình chuyển
dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách sn sẻ, với chi phí thấp. Ba là,
hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ
sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để
hồn thiện khn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng

chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hồn thiện mơi
trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành
phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo
đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hộp nhập. Bốn là, hội
nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc
gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi
gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo
hướng cơng khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính


vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh
nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục
mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vơ trách nhiệm. Nếu khơng tạo ra được một nền hành
chính như vậy thì chẳng những khơng tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh
tế 4nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng khơng chống được
tham nhũng, lãng phí nguồn lực. Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu
quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý
nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối
với Việt Nam do phần đơng cán bộ của ta cịn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành
nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngồi. Nếu khơng có sự chuẩn bị
phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc
phục. Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa.
Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ
thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi
hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa,
biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản…C. Một số kiện nghị nhằm
phát huy những thuận lợi và đối đầu với những thách thức đặt ra.Thứ nhất, cần tiếp
tục thay đổi một cách sâu sắc nhận thức và tư duy trong xây dựng chính sách và
điều hành quản lý nhà nước theo hướng từ trực tiếp, hành chính, mệnh lệnh sang

gián tiếp thông qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chí và các
địn bẩy kinh tế.Thứ hai, để góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ, cần áp dụng các chính
sách để hạn chế nhập siêu và thâm hụt thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu, khuyến khích việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước.Thứ ba, tiếp
tục nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên cả ba cấp độ nhà nước,
doanh nghiệp và ngành hàng. Phát huy nội lực, bảo vệ thị trường trong nước, xây
dựng chiến lược và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế.Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh vận động các nước công nhận Việt
Nam có nền kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào vịng đàm phán Ðơ-ha, tiếp
tục thực thi đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, tận dụng tốt những quyền lợi mà
thành viên WTO được hưởng, xử lý hài hòa, thống nhất mối quan hệ giữa cam kết
gia nhập WTO với khuôn khổ pháp lý hiện hành, tạo nhiều thuận lợi cho các doanh
nghiệp và nhà đầu tư.Thứ năm, thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với
bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; xây dựng, hoàn
thiện các cơ chế, chính 5sách an sinh xã hội, giảm khoảng cách giàu - nghèo trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.Thứ sáu, các bộ, ngành và các địa phương cần
nâng cao chất lượng nội dung các Chương trình hành động sau khi gia nhập WTO,
xác định rõ nguồn lực cần thiết để bảo đảm cho việc triển khai thực hiện những
nhiệm vụ đề ra; xử lý hài hòa các vấn đề có tính chất liên ngành, liên vùng như
chiến lược, quy hoạch phát triển của địa phương, bảo đảm hiệu quả đầu tư, phát


triển cơ sở hạ tầng; bảo vệ môi trường sinh thái, .; xây dựng thể chế và cơ chế theo
dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá và điều chỉnh việc triển khai Chương trình hành
động của Chính phủ và các chương trình hành động của bộ, ngành và địa phương
sao cho thiết thực, hiệu quả và phù hợp với thực tế của bộ, ngành và địa
phương.Thứ bảy, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý,
công chức, viên chức, các doanh nhân và người lao động, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.(((Tiếp tục phát huy tinh thần độc
lập, tự chủ, tự cường, với phương châm chủ động, hiệu quả và linh hoạt, phát huy

những thành tựu đã đạt được trong hai năm qua, chúng ta tự tin và năng động vượt
qua mọi thách thức, phấn đấu giành những thắng lợi mới trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.- Xây dựng
cơ sở vật chất hạ từng nhằm thu hút đấu tư nước ngồi. Ứng dụng cơng nghệ khoa
học kỷ thuật vào sản xuất nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu và trì trệ trong sản
xuất ở các doanh nghiệp.- Đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng
cường khả năng kiểm sốt vĩ mơ, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng
nhanh của tồn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội
để khắc phục những khó khăn ngắn hạn.- Phải liên tục hồn thiện mơi trường kinh
doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế.
Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một
môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. - Tạo ra được một
nền hành chính cơng khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn, một nền hành
chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và
doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc
phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm - Cần phải đào tạo một đội ngũ
cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh, có năng lực và phẩm
chất tốt.- Các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính
trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha
hóa, biến 6chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản…))) III. Kết luận Việt
Nam tham gia hội nhập và liên kết quốc tế là một tất yếu khách quan. Việc hội
nhập kinh tế quốc tế đưa đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới trong sự nghiệp
phát triển của đất nước, đặc biệt trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình
hội nhập cũng khơng tránh khỏi những khó khăn, thử thách. Thời đại ln tiềm ẩn
trong nó những thách thức. Để có thể đạt được mục tiêu đưa Việt Nam trở thành
nước cơng theo hướng hiên đại vào năm 2010 thì chúng ta phải đương đầu với
thách thức, không bỏ lỡ thời cơ của mình. Qua những phân tích về thuận lợi và
thách thức khi hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần nghiên cứu đưa ra các biện
pháp để làm sao trong thời gian tới có những điều chỉnh phù hợp tận dụng được

những thuận lợi mà hội nhập đã tạo ra cho chúng ta, khắc phục những khó khăn mà
hội nhập mang lại.


×