Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HAY cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học thành văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 166 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LƯU MINH DỰ

CỤM TỪ CÂN ĐỐI TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN ĐẾN
VĂN HỌC THÀNH VĂN
(KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI VÀ
TRUYỆN KIỀU NGUYỄN DU)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2017

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LƯU MINH DỰ

CỤM TỪ CÂN ĐỐI TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN ĐẾN
VĂN HỌC THÀNH VĂN
(KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI VÀ
TRUYỆN KIỀU NGUYỄN DU)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHẠM THỊ PHƯƠNG THÁI

Thái Nguyên – 2017

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


i

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Ngun,15 tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Lưu Minh Dự

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa
học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp

đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS Phạm Thị Phương Tháiđã ln tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên,15 tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Lưu Minh Dự

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 5
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6
Chương 1: CỤM TỪ CÂN ĐỐI – THÓI QUEN DIỄN ĐẠT CỦA NGƯỜI
VIỆT VÀ TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN .................................................... 7
1.1. Khái lược về cụm từ cân đối ...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm cụm từ cân đối ....................................................................... 7
1.1.2. Giá trị của cụm từ cân đối .................................................................... 10

1.2. Cụm từ cân đối từ lối diễn đạt trong văn hóa dân gian đến văn học
dân gian ....................................................................................................... 11
1.2.1. Cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm .................................................... 11
1.2.2. Khảo sát phân loại cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm ..................... 12
1.2.3. Ý nghĩa của cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm ................................. 16
1.3. Cụm từ cân đối trong văn học dân gian ................................................... 17
1.3.1. Cụm từ cân đối được sử dụng trong tục ngữ, thành ngữ ...................... 17
1.4. Cơ sở kiến tạo cụm từ cân đối.................................................................. 26
Tiểu kêt chương 1…………………………………………………………………..27
Chương 2: CỤM TỪ CÂN ĐỐI TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI....... 28
SỰ VẬN DỤNG VÀ SÁNG TẠO ................................................................. 28
2.1. Nguyễn Trãi và Quốc âm thi tập .............................................................. 28
2.1.1. Tác giả Nguyễn Trãi.............................................................................. 28
2.1.2. Sự nghiệp thơ văn .................................................................................. 30

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


iv

2.1.3. Quốc âm thi tập ..................................................................................... 31
2.2. Cụm từ cân đối trong Quốc âm thi tập ..................................................... 32
2.2.1. Sự vận dụng văn học dân gian và sáng tạo đa dạng cụm từ cân đối 4
chữ trong Quốc âm thi tập ........................................................................ 32
2.2.2. Sự vận dụng văn học dân gian và sáng tạo cụm từ cân đối 6 chữ trong
Quốc âm thi tập......................................................................................... 41
2.3. Ý nghĩa của việc sử dụng cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi... 46
Tiểu kết chương 2……………………………………………………………………47
Chương 3: CỤM TỪ CÂN ĐỐI TRONG TRUYỆN KIỀU– SỰ KẾ THỪA
TÀI TÌNH VÀ ĐIÊU LUYỆN ........................................................................ 49

3.1. Nguyễn Du với Truyện Kiều.................................................................... 49
3.1.1. Cuộc đời ................................................................................................ 49
3.1.2. Sự nghiệp thơ văn .................................................................................. 51
3.1.3. Truyện Kiều ........................................................................................... 51
3.2. Nghệ thuật sử dụng cụm từ cân đối trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ........ 54
3.2.1. Sự kế thừa tài tình của Nguyễn Du trong việc sử dụng cụm từ cân đối chéo 55
3.2.2. Vận dụng kết cấu của cụm từ cân đối chéo để kiến tạo ra tiểu đối trong
thơ lục bát ................................................................................................. 62
3.3. Ý nghĩa của việc sử dụng cụm từ cân đối trong Truyện Kiều Nguyễn Du...... 77
Tiểu kêt chương 3…………………………………………………………........... 80
Kết luận ……………………………………………………………………………...82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 83
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 85
PHỤ LỤC 1. .................................................................................................... 85
PHỤ LỤC 2. .................................................................................................. 129
PHỤ LỤC 3. ................................................................................................... 133
PHỤ LỤC 4. ................................................................................................... 136

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Như một quy luật nhất thành bất biến, các thi hào dân tộc bao giờ cũng
chịu ảnh hưởng và tiếp thu mạch nguồn ngôn ngữ dân gian. Dante – niềm tự
hào của nền thi ca Ý thế kỷ XIII đã coi ngôn ngữ dân gian Ý “đóng vai trị trụ
cột”; Lomonosov – thi hào vĩ đại nước Nga thế kỷ XIX xem ngôn ngữ dân gian
là nguồn ngữ liệu vô giá. Những tuyệt phẩm thơ Nơm của nhà văn hóa Đại Việt

– Nguyễn Trãi và thi hào dân tộc Nguyễn Du cũng đều khởi nguyên từ ngôn
ngữ dân gian.
Xuất phát từ đặc trưng giàu âm thanh, tiết tấu của tiếng Việt, từ trước
đến nay người Việt Nam rất ưa lối nói vần vè, cân đối trong cách diễn đạt. Từ
giao tiếp thông thường đến sáng tác văn chương, người Việt đều có thói quen,
sở thích nói vần vè, cân đối, nhịp nhàng. Nhã thú diễn đạt đăng đối, vần điệu
của người Việt có lẽ bắt nguồn từ ưu thế đặc trưng của tiếng Việt – loại hình
ngơn ngữ đơn lập, biểu âm cùng hệ thống thanh điệu phong phú. Nhiều nhà thơ
đã vận dụng và phát huy thói quen, sở thích trong lối diễn đạt của dân tộc trong
sáng tác bằng tiếng Việt. Có lẽ, trong suốt hành trình 10 thế kỷ của văn học
trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai thi sĩ chú tâm vận dụng
nhiều hơn cả đặc điểm diễn đạt nói trên. Có thể nhận thấy, từ cách diễn đạt bằng
cụm từ cân đối vốn tồn tại trong lối diễn đạt dân gian, thi hào Nguyễn Trãi và
Nguyễn Du đã sáng tạo rất nhiều những cụm từ cân đối và cả những biến thể
của nó. Với khả năng thi cơng tài tình, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đã tạo nên
vẻ đẹp hài hịa của ngơn ngữ bác học với ngơn ngữ bình dân, gần gũi với lối
diễn đạt của người bình dân. Đồng thời, với làm giàu đẹp lên rất nhiều ngôn
ngữ dân gian, nâng ngôn ngữ giao tiếp đời sống hàng ngày thành ngôn ngữ văn
học. Đó là cách tốt nhất tự nhiên nhất và hiệu quả để góp phần đưa tiếng Việt
trở thành ngơn ngữ thống nhất của quốc gia.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


2

Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình
đánh giá, nhận định, nghiên cứu về thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều của
Nguyễn Du, tuy nhiên chưa có cơng trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu
về kế thừa, sáng tạo cụm từ cân đối trong sáng tác dân gian đến văn học thành

văn (khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du). Chúng
tôi cho rằng việc nghiên cứu Quốc âm thi tập và Truyện Kiều bằng việc đi sâu
khám phá cụm từ cân đối sẽ là hướng tiếp cận phù hợp và đáng tin cậy cho việc
đánh giá khách quan về những đóng góp của hai đại thi hào về nền thơ dân tộc
viết bằng tiếng Việt, về sự phát triển của ngơn ngữ, văn hóa Việt Nam. Đó là lí
do, chúng tơi lựa chọn đề tài “Cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học
thành văn (Khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du)”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những cơng trình đánh giá chung về Nguyễn Trãi và thơ Nôm Nguyễn Trãi
Với tập thơ vĩ đại Quốc âm thi tập gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem
là nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ
Nơm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Đây
cũng là lí do khiến các thi nhân và giới nghiên cứu cùng quan tâm viết bình
giảng, bình thơ, cảm thụ thơ Nôm Nguyễn Trãi chi tiết với từng đề tài, từng bài
thơ, thậm chí từng câu chữ. Ở phương diện ngôn ngữ dân gian trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi cũng đã được khá nhiều người nghiên cứu, nhưng cũng chỉ dừng
lại ở một khía cạnh hay phương diện nhất định nào đó, do vậy chưa những bài
nghiên cứu về vấn đề cụm từ cân đối.
Nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Trãi trong đó có nhiều bài viết đề cập
đến ảnh hưởng của ngôn ngữ dân gian trong thơ Quốc âm thi tập của những tác
giả lớn như: Hồng Trung Thơng, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Văn Đồng, Nguyễn
Văn Hoàn, Đặng Thai Mai, Bùi Văn Nguyên… mỗi nhà nghiên cứu có cách
tiếp cận và nhận định riêng nhưng điểm chung là vẫn khẳng định sự kế thừa có

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3

phần sáng tạo của Ức Trai khi sử dụng những từ ngữ bình dân, thành ngữ, tục

ngữ vào sáng tác của mình. Phần lớn các câu ca dao tục ngữ mà ơng dùng khơng
giữ ngun trạng thái vốn có, mà được nhào nhuyễn lại, được biến hóa một
cách tài tình để hình thành kết cấu nghệ thuật sinh động.
Bên cạnh đó tác giả Nguyễn Thiên Thụ cũng đã đề cập đến sự phong phú
về thành ngữ và tục ngữ trong Quốc âm thi tập, bài viết“Ảnh hưởng và địa vị
của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam” phần nào chứng tỏ Nguyễn Trãi đã
sử dụng tài nguyên phong phú của nền văn chương Việt Nam, đó là ca dao, tục
ngữ.
Song song đó Nguyễn Trãi và cuộc đời cũng đã được các nhà nghiên cứu
phê bình khai thác trên bình diện tác giả, tác phẩm hay nội dung, nghệ thuật.Đó
là nguồn tư liệu quý giá và thuận lợi cho người viết thực hiện khóa luận này.
Những sách báo tuy viết về về Nguyễn Trãi rất nhiều nhưng chỉ đi sâu nghiên
cứu một cách khái quát chung. Vì vậy, trong bài viết này chúng tơi tìm hiểu
cụm từ cân đối từ văn học dan gian đến thơ Nôm Nguyễn Trãi sẽ đi sâu vào
cách sử dụng, lựa chọn và sáng tạo cụm từ cân đối trong thơ Nơm.
2.2. Những cơng trình đánh giá chung về Nguyễn Du và Truyện Kiều
Truyện Kiềumột kiệt tác nghệ thuật của nền văn học nước nhà. Truyện
Kiều được nhân dân ta đón nhận một cách say mê, nhiều lúc đã trở thành vẫn
đề xã hội, tiêu biểu. Khơng chỉ được đón nhận ở tầng lớp thị dân, Truyện Kiều
còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận.
Ngày nay các nhà nghiên cứu trên thế giới vẫn đánh giá rất caoTruyện
Kiều. Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài
viết dài 96 trang, trong đó có đoạn: “Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh
một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kì quốc gia nào, thời đại nào” Ông so
sánh với văn học Pháp:“Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


4


phẩm nào được phổ thơng, được tồn dân sung kính và yêu chuộng bằng quyển
truyện này ở Việt Nam”.
Sở dĩ như thế là vì ngồi nội dung sâu sắc phong phú, Truyện Kiều còn là
một tác phẩm chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Ở Truyện Kiều ngôn
ngữ bác học và ngơn ngữ bình dân đã kết hợp với nhau bổ sung cho nhau, phát
huy cao độ những mặt tích cực của nó. Thơng qua Truyện Kiều người đọc phần
nào thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc cùng với tài năng bạc thầy của Nguyễn
Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Hệ thống từ ngữ được tác giả sử dụng rất tự
nhiên, dung dị, mang đậm hơi thở của cuộc sống.Trong đó các thành ngữ được
Nguyễn Du sử dụng rất hiệu quả. Thành ngữ là một đơn vị ngơn ngữ mang tính
dân tộc sâu sắc. Nó thường xuyên có mặt trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của
mỗi người dân trong cuộc sống. Bất kì ở nới đâu, trong hồn cảnh nào thì thành
ngữ cũng có thể xuất hiện. Thành ngữ là một tài sản quý báu, nói cách khác thành
ngữ được sáng tạo trong qua trình sinh hoạt quần chúng. Tất cả các đặc điểm
trên làm cho thành ngữ là một đối tượng hấp dẫn đối với giới nghiên cứu và trong
Truyện Kiều không là một ngoại lệ. Nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt nói
chung có thể nói đến cơng trình nghiên cứu vềTục ngữ ca dao của Phạm Quỳnh
được công bố vào năm 1921. Tuy nhiên những năm 60 của thế kỉ XX, việc
nghiên cứu thành ngữ mới có cơ sở khoa học nghiêm túc. Cái mốc quan trọng
trong việc nghiên cứu thành ngữ học Việt Nam xuất hiện bản từ điển Thành ngữ
tiếng Việt1976 của Nguyễn Lực và Lương Văn Đang. Cơng trình này tuy còn
chưa bao quát được hết tất cả các thành ngữ trong tiếng Việt nhưng nó đã cung
cấp cho các nhà ngôn ngữ học và những sai quan tâm đến vấn đế này một tài liệu
to lớn. Năm 1989, Nguyễn Lân xuất bản cuốn Từ điển tục ngữ và thành ngữ Việt
Nam Gần đây nhất là cuốn Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mơ hình cấu
trúc của Triều Nguyên. Như vậy cho đến nay thành ngữ vẫn đang được tiếp cận,
khám phá theo nhiều khía cạnh khác nhau nhằm làm sáng rõ những giá trị phong
phú của đơn vị từ này. Rất nhiều bài nghiên cứu vấn đề này trong các sáng tác


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


5

của các tên tuổi lớn như Hồ Chí Minh, Nguyên Hồng, Tản Đà, Tơ Hồi…đã
được tiến hành trong thời gian gần đây nhưng vẫn chưa có cơng trình nào tìm
hiểu kĩ lưỡng về nghệ thuật dùng thành ngữ, dùng Cụm từ cân đối của Nguyễn
Du trong Truyện Kiều. Trong cuốn Những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương
Truyện Kiều (2004) của Phạm Đan Quế cũng đã đề cập đến việc vận dụng thành
ngữ trong Truyện Kiều nhưng mới ở mức độ khái quát. Những ý kiến, những
đánh giá trên là định hướng quan trọng cho chúng tôi nghiên cứu cụm từ cân đối
từ văn học dân gian đến văn học thành văn (Khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi
và Truyện Kiều Nguyễn Du)
3.Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đối tượng là cụm từ cân đối trong văn học,
văn hóa dân gian đến văn học thành văn trên cơ sở khảo sát qua Quốc âm thi tập và
Truyện Kiều.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về cụm từ cân đối được sử dụng trong dân gian, đặc biệt
trong thành ngữ và văn khấn Nôm đến văn học thành văn, được Nguyễn Trãi
và Nguyễn Du vận dụng kế thừa sáng tạo trong sáng tác thơ ca bằng tiếng Việt
để thấy được mạch ngầm từ văn hóa dân gian đến sáng tác của hai đại thi hào
dân tộc Nguyễn Trãi và Nguyễn Du trong sự thống nhất phát huy giá trị ngôn
ngữ dân tộc.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra những yêu cầu chính sau:
- Khảo sát cụm từ cân đối trong văn học dân gian.

- Khảo sát cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


6

- Khảo sát cụm từ cân đối trong Truyện Kiều- Nguyễn Du.
- Nghiên cứu tác dụng của cụm từ cân đối trong văn học dân gian và
trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều Nguyễn Du.
- Nghiên cứu một số tài liệu liên quan là cơ sở lí thuyết, lý luận cho đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài trên, chúng tôi sử dụng một số phương
pháp sau:
+ Phương pháp thống kê phân loại: Sử dụng trong quá trình khảo sát và
thống kê số lần sử dụng cụm từ cân đối trong văn học dân gian và trong thơ
Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều-Nguyễn Du.
+ Phương pháp so sánh đối chiếu: Sử dụng thao tác đối chiếu giữa cụm
từ cân đối được sử dụng trong văn học dân gian và cụm tư cân đối được sử
dụng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều Nguyễn Du. So sánh tần số sử
dụng cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi với cụm từ cân đối được sử
dụng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
+ Phương pháp hệ thống: Nhằm hệ thống lại việc sử dụng và tác dụng
của cụm từ cân đối trong dân gian, trong sáng tác của tác giả Nguyễn Trãi và
Nguyễn Du.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở các thao tác phân tích, chúng
tôi tiến hành tổng hợp, đánh giá, đưa ra các luận điểm, các kết luận khoa học.
5. Phạm vi nghiên cứu
Cụm từ cân đối trong văn học dân gian, trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và
tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.

6. Đóng góp của luận văn
Chúng tơi hi vọng kết quả của luận văn sẽ có được những đóng góp sau:

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


7

+ Thông qua việc khảo sát thống kê các cụm từ cố định trong văn học
dân gian, thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều – Nguyễn Du, chúng tôi hi vọng
sẽ góp thêm một lời khẳng định sự phong phú trong kho tàng dân gian Việt
Nam; sự sáng tạo và những đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đối
với kho tàng ngôn ngữ văn học dân tộc thể hiện qua cụm từ cân đối.
+ Trong chừng mực nhất định, luận văn chứng minh một dấu ấn trong
thói quen diễn đạt rất đặc trưng của người Việt trong những tác phẩm được
đánh giá là kiệt tác của văn học Việt Nam thời trung đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cụm từ cân đối –thói quen diễn đạt của người Việt và trong
văn học dân gian
Chương 2. Cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi - Sự vận dụng
chọn lọc và sáng tạo
Chương 3.Cụm từ cân đối trong Truyện Kiều Nguyễn Du- Sự kế thừa tài
tình và điêu luyện

Chương 1
CỤM TỪ CÂN ĐỐI – THÓI QUEN DIỄN ĐẠT CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ
TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
1.1. Khái lược về cụm từ cân đối
1.1.1. Khái niệm cụm từ cân đối

Cụm từ cân đốilà cách gọi tên của ngữ có cấu trúc cân đối gồm hai vế.
Mỗi vế, ngoài số chữ trong bằng nhau, số chữ chẵn (có thể là bốn chữ, có thể

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


8

là sáu chữ), hài hòa cân đối về đối thanh đối ý, tạo ra tính nhạc trong câu. Cụm
từ cân đối yêu cầu phải đối về thanh điệu và đối về từ loại [25,tr.61].
Ví dụ:“Ăn vóc học hay”, “Ăn trơng nồi ngồi trơng hướng”.
Các câu trên có cấu trúc gồm hai vế với số chữ bằng nhau, đối thanh điệu
rất rõ ràng, ở cụm từ cân đối 4 chữ: “Ăn vóc học hay”, thanh trắc “vóc” đối với
thanh bằng “hay”. Trong cụm từ cân đối 6 chữ: “Ăn trông nồi ngồi trơng
hướng”, các chữ trong câu bằng nhau có sự cân đối hài hòa, bắt vần với nhau
và cùng thanh điệu: “nồi”- “ngồi”. Trong ví dụ cụm từ cân đối 6 chữ có xuất
hiện đối về từ loại: danh từ “nồi” đối với danh từ “hướng”
Hình thức của cụm từ cân đối khá đa dạng có thể là cụm từ cân đối 4
chữ, cụm từ cân đối 6 chữ, cụm từ cân đối 8 chữ.
Ví dụ: Cụm từ cân đối 4 chữ:
“Ăn chắc mặc bền”, “Cơm lành canh ngọt”, “ Con dại cái mang”, “Cờ bí dí
tốt”, “Cốc mị cị xơi”, “Chó treo mèo đậy”…
Cụm từ cân đối 6 chữ:“Bn có bạn bán có phường”, “Cơm chẳng lành,
canh chẳng ngọt”, “Của một đồng cơng một nén”, “Đâm bị thóc chọc bị gạo”…
Cụm từ cân đối 8 chữ: “Một lần ngại tốn, bốn lần chẳng xong”,“Nhà sạch
thì mát, bát sạch ngon cơm”, “Mỏng mơi hay hớt, trớt mơi nói thừa”…
Các từ trong cụm từ cân đối phải bắt vần với nhau, có thể là vần liền kề
hoặc cách vần. Vần liền kề có thể là 2 vần bằng, và có thể là 2 vần trắc. Trong
ví dụ về cụm từ cân đối 4 chữ, các chữ ở 2 vế có số tiếng bằng nhau. Các từ
trong câu là vần liền kề bắt vần với nhau.

Chẳng hạn, trong “Chó treo mèo đậy”, vần “eo” (treo – mèo) nằm liền
kề và bắt vần với nhau cùng vần bằng trong câu “Cốc mò cò xơi”. Hoặc trong
cụm từ cân đối, các chữ bắt vần liền kề với nhau và vần liền kề có thể là hai

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


9

vần trắc, có thể kể đến câu “Người sống đống vàng”, cùng bắt vần “ông” và
cùng vần trắc (sống – đống).
Có trường hợp các tiếng bắt vần với nhau nhưng khơng nằm liền kề
nhau.Ví như câu “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, kiện và kiến bắt vần với
nhau nhưng nằm cách nhau bởi chữ “như”. Hay như trong câu “Gần mực thì
đen gần đèn thì rạng”,“đen” và “đèn” bắt vần với nhau và cũng nằm cách nhau
bởi chữ “gần”.
Trong cụm từ cân đối cịn có sự hài thanh, hai từ gần nhau trong câu cùng
vần nhưng trái dấu. Trong câu “Ăn chắc mặc bền”, “chắc” và “mặc” cùng vần
“ăc” nhưng khác dấu, từ “chắc” là thanh trắc, từ “mặc” là thanh bằng. Trong
câu “Ăn cây táo rào cây bưởi” cũng có sự hài thanh như thế.
Về đối thanh:
Hai chữ vế sau cùng thanh nhưng trái thanh với hai chữ vế trước:
“Năm thê bảy thiếp”

BB TT.

“Nòi nào giống đấy”

BB TT.


“Khác máu tanh lòng”

TT BB.

“Thấy quế phụ hương”

TT BB.

Chữ thứ nhất vế trước đối chữ thứ nhất vế sau, chữ thứ hai vế trước với
chữ thứ hai vế sau cũng đối nhau như vậy:
“Bới lơng tìm vết”

TB BT.

“Đứt tay hay thuốc”

TB BT.

“Bồi ở lở đi”

BT TB.

“Suy chín xét xa”

BT TB.

Trong trường hợp cụm từ có ba chữ cùng thanh thì chữ cuối cùng của
chữ chia vế nhất thiết phải đối nhau:

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



10

“Đất phàm cõi tục “

TB TT.

“Ngòi nguyệt ngàn mai” BT BB.
Đối về từ loại:
Danh từ và tính từ đối với danh từ và tính từ: “Cần tái cải nhừ”; “Liễu
yếu mai oằn”.
Động từ và danh từ đối với động từ và danh từ: “Vạch lá tìm sâu”;“Qua
đị khinh sóng”.
Lượng từ và danh từ đối với lượng từ và danh từ:“Năm thê bảy thiếp”;
“Một cơng hai việc”.
Cụm từ cân đối cịn xuất hiện trường hợp cân đối chéo. Trong trường
hợp cân đối chéo nghĩa là tách từng tiếng kép ra thành hai, rồi lồng vào nhau
làm thành một bộ, gọi là cụm từ kết hợp chéo cân đối, như cụm từ cân đối chéo
“Ong bướm lả lơi” tách ra thành “Bướm lả ong lơi” (“Biết bao bướm lả ong
lơi”– Truyện Kiều). Hay “Bồi ở lở đi”, “Bỏ kinh bỏ kệ”, “Cày ruộng cuốc vườ”,
“Đường danh lối lợi”.
Các cụm từ cân đối có hình ảnh và mang tính chất tái hiện. Về mặt ngữ
nghĩa, chúng có thể tương ứng với một từ hoặc những cụm từ tự do, về mặt cấu
trúc, chúng tương ứng với một cụm từ, một câu đơn.
Về mặt cấu trúc, cụm từ cân đối là một chính thể phức hợp, trong đó
các thành tố được người nói tái hiện như là những từ độc lập, là những đơn vị
có sẵn trong ngơn ngữ, có cấu trúc cố định vững chắc.
1.1.2. Giá trị của cụm từ cân đối
Từ ngàn xưa, người Việt ln có thói quen nghe lời nói êm tai, vần vè

nhịp nhàng. Đặc thù ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam không chỉ giàu nhạc điệu,
cùng với lối chơi chữ cịn tạo ra nhạc tính trong diễn đạt. Cụm từ cân đối giúp

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


11

cho cách diễn đạt vần vè, nhằm nhấn mạnh và gợi ấn tượng với người đọc người
nghe, biểu đạt cảm xúc và ý nghĩa. Chúng ta đã biết, cụm từ cân đối thường là
ngôn ngữ thông tục của nhân dân, được nhào nặn thành thứ ngôn ngữ trau chuốt
về ý nghĩa, âm thanh, nhịp điệu. Bởi thế cho nên cụm từ cân đối tạo ra tính nhạc
trong câu. Việc tạo ra tính nhạc trong câu cũng là thói quen của người Việt.
Trong câu nói, câu thơ khi sử dụng cụm từ cân đối giúp câu thơ giàu nhạc điệu,
tạo ấn tượng đối với người nghe người đọc. Thậm chí như cách nói vần vè giàu
nhạc tính trong ngơn ngữ diễn đạt hiện này của giới trẻ, dường như người sử
dụng chỉ còn chú trọng đến ngữ âm, bất chấp ngữ nghĩa: “Buồn như con chuồn
chuồn”, “Nhí nhảnh cá cảnh”, “Nhọ như đội Phú Thọ”, “Chán như con
gián”…Cách diễn đạt vần vè, nhịp nhàng của cụm từ cân đối được thể hiện rất
rõ trong văn học dân gian. Sau này đến văn học thành văn, Nguyễn Trãi và
Nguyễn Du là hai tác giả kế thừa và thể hiện rất thành công cụm từ cân đối
trong sáng tác, mang hồn cốt của người Việt
Xét ở bình diện bên ngồi, nghĩa là cấu trúc hình thức của cụm từ cân
đối, thì cụm từ cân đối là đơn vị ngơn ngữ, bản thân nó là cụm từ cố định. Xét
ở bình diện bên trong, tức là ngữ nghĩa, cụm từ cân đối là đơn vị ngơn ngữ có
ý nghĩa được tái tạo mang tính hình ảnh cao.
1.2. Cụm từ cân đối từ lối diễn đạt trong văn hóa dân gian đến văn
học dân gian
1.2.1. Cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm
1.2.1.1. Giới thuyết văn khấn Nôm

Văn khấn Nôm là những bài văn khấn được viết bằng chữ Nôm sau này
được dịch lại bằng chữ quốc ngữ để người dân dễ dùng trong các buổi lễ cúng.
Những từ ngữ trong văn khấn Nôm là thành tâm chứ chẳng sử dụng từ ngữ hoa

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


12

mĩ cầu kỳ và lúc khấn người ta không khấn to cho người xung quanh nghe thấy
mà chỉ khấn lâm dâm trong miệng đủ để cho mình và những cụ nghe thấy.
Văn khấn là lời trình bày với tổ tiên và những người đã khuất lý do về lễ
cúng ngày hơm đó. Thường có từng bài văn khấn cho từng ngày lễ và các bài
này không giống nhau như: Văn khấn thần tài, văn khấn ngày giỗ ông bà cha
mẹ, văn khấn mùng một và ngày rằm hàng tháng, văn khấn ở chùa, văn khấn lễ
giao thừa trong nhà, văn khấn chúng sinh, cúng ông địa…
1.2.1.2. Ý nghĩa của văn khấn Nôm cổ truyền Việt Nam
Theo truyền thống từ ngày xưa để lại, trong một năm mang hầu hết ngày
lễ tết mà tất cả người, mọi nhà bắt buộc tuân thủ theo để làm tròn đạo mang
Trời, Đất. Đây cũng được coi là một nét văn hóa vơ cùng đặc biệt của người
Việt. Những lễ tết và nghi thức trong lễ tết như: tìm lễ, thắp hương, cầu khấn
bằng văn khấn luôn được những thế hệ đi sau thay những thế hệ đi trước giữ
gìn, tơn trọng và truyền đạt lại cho con cháu thế hệ mai sau.
Việc cầu khấn bằng văn khấn nhằm bày tỏ lòng thành tâm hướng về tổ
tiên của người làm lễ dâng hương trước các đấng vơ hình, linh thiêng như: vong
linh Tổ tiên, mẫu tộc, Thần thánh, những chư vị Thánh hiền, chư vị Bồ Tát, chư
Phật mười phương tám hướng. Lời lẽ trong văn khấn của người xưa luôn bao
hàm mong muốn một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc bình an. Văn khấn là một
nét văn hóa rất đặc trưng của người Việt Nam, thuộc loại hình văn hố dân gian.
Điều đáng nói ở đây là trong câu văn khấn Nôm, người Việt thường dùng cụm

từ cân đối với tần số khá cao.
1.2.2. Khảo sát phân loại cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm
1.2.2.1. Cụm từ cân đối 4 chữ trong văn khấn Nôm

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


13

Khảo sát Văn khấn cơ Bơ với 30câu thì đã có đến 10 cụm từ cân đối loại
4 chữ. Ví dụ: “Non xanh nước biếc”, “Cung cao mạng dài”, “Đồng tươi lính
tốt”, “Cờ vàng lộng tía”, “Hoa tươi quả tốt”…
Khảo sát Văn khấn Quan Tuần Tranh với 16 câu, có 10 cụm từ cân đối
4 chữ: “Cứu dân hộ quốc”, “Lẫm liệt oai hùng”, “Đắp lũy xây thành”, “Nước
chảy hoa trôi”,” Sơn cùng thủy kiệt”…
Các cụm từ cân đối 4 chữ trong văm khấn Nơm có cấu trúc hai vế với số
chữ bằng nhau, đối về thanh điệu rất rõ ràng.
Về đối thanh, trong cụm từ khấn Nôm “Non xanh nước biếc”, thanh
bằng “xanh” đối với thanh trắc “biếc”.
Hai chữ vế sau cùng thanh nhưng trái thanh với hai chữ vế trước:
“Đắp lũy xây thành” - TT BB
“Sơn cùng thủy kiệt” - BB TT
Chữ thứ nhất của vế trước đối với chữ thứ nhất của vế sau, chữ thứ hai
của vế trước với chữ thứ hai của vế sau cũng vậy:
“Ong bướm lả lơi” - BT TB
Với trường hợp cụm từ có ba chữ cùng thanh thì chữ cuối của hai vế
nhất thiết phải đối nhau:
“Tốt hay xấu dở” – TB TT
Đối về từ loại:
Danh từ và tính từ đối với danh từ và tính từ:

“Mưa dầu nắng dãi”
“Non xanh nước biếc”
Động từ và danh từ đối với động từ và danh từ:

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


14

“Đắp lũy xây thành”
“Nước chảy hoa trôi”
Trong việc tạo ra cụm từ cân đối 4 chữ ở văn khấn Nôm, tác giả dân gian
còn dùng lối kết hợp chéo, tách từng tiếng kép ra làm hai rồi lồng vào nhau
thành một bộ, đó chính là cụm từ kết hợp chéo cân đối, như “Đắp lũy xây
thành”, “Tốt hay xấu dở”.
Đặc biệt, hiện tượng kết nối các cụm từ cân đối 4 tiếng thành một đoạn,
thậm chí một đoạn văn dài khá phổ biến trong Văn khấn như: “Phù hộ độ trì,
vuốt ve che chở, ăn ngoan chóng lớn, vơ bệnh vô tật, vô tai vô ương, vô hạn vô
ách”Văn cúng mụhay “Tồn gia lớn bé, già trẻ bình an thịnh vượng, ln ln
mạnh khỏe, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hịa thuận”Văn khấn tất
niên “Tồn thể gia chủ năm mới tốt lành, sức khỏe dồi dào, tấn tài tấn lộc, vạn
sự tốt lành, vạn sự như ý”Văn khấn giao thừa trong nhà; “Gặp nhiều may mắn,
tấn tài tấn lộc, tai qua nạn khỏi” Văn khấn Thần Linh trong nhà; “Đầu năm chí
giữa, cuối năm chí cuối, sự nghiệp hanh thông, sở cầu như ý, sở nguyện tịng
tâm”Văn khấn Thần Linh trong nhà,“Bốn mùa khơng hạn ách, tám tiết được
hưởng điềm lành”Văn khấn tổ tiên,“Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành
mang đến, điều dữ xua đi”Lễ vong linh ngồi mộ; “Ln ln mạnh khoẻ, mọi
sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hịa thuận, trên bảo dưới nghe” Văn khấn
tết Hàn Thực; “Luôn ln mạnh khỏe, mọi sự bình an, lộc tài vượng tiến, gia
đạo hung long, gia đình hịa thuận, vạn sự tốt lành”Văn khấn Rằm tháng Bảy

1.2.2.2. Cụm từ cân đối 6 chữ và 8 chữ trong văn khấn Nôm
So với loại cụm từ cân đối 4 chữ, cụm từ cân đối 6 chữ, 8 chữ được dùng
ít hơn. Ví dụ: “Nhất tâm phụng thỉnh kêu cầu” Văn khấn Cô Bơ
“Chỉ ngón tay xoay ngịi bút” Văn khấn Quan Tuần Tranh
“Ra tay phù ngả tay trị” Văn khấn Quan Giám Sát.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


15

Với cụm từ cân đối 6 chữ của các câu trong văn khấn Nơm cũng có số
chữ trong mỗi vế đăng đối bằng nhau, hài hòa, bắt vần với nhau và cùng thanh
điệu. Ví như trong câu Chỉ ngón tay xoay ngòi bút, tay và xoay bắt vần với nhau
và cùng thanh bằng, đối về từ loại danh từ tay đối với động từ xoay.
+ Cụm từ cân đối 8 chữ:
“Con giàu một bó con khó có tâm” Văn khấn cô Bơ
“Nhất tâm thưởng Phật thật tâm với Thánh” Văn khấn cơ Bơ
“Cơ thương cho trót cơ vót cho trịn” Văn khấn cô Bơ
“Đường xa bái ngái thân gái dặm trường” Văn khấn quan Tuần Tranh
“Qua đền Phong Mục lại chơi đồi chè” Văn khấn cô Bơ
“Qua đền cây thị lại về đồi Ngang” Văn khấn cô Bơ
Các câu văn khấn Nơm có cụm từ cân đối có số chữ bằng nhau, mỗi vế
4 chữ hài hòa. Trong các câu ở văn khấn Nôm với cụm từ cân đối 8 chữ, các
chữ trong câu khơng chỉ có số chữ ở hai vế bằng nhau mà còn bắt vần với nhau
và cùng thanh điệu. Ví dụ trong câu “Nhất tâm với phật thật tâm với thánh” số
chữ trong hai vế bằng nhau, từ “phật” và từ “thật” bắt vần với nhau và có cũng
thanh điệu cùng là thanh trắc. Bên cạnh đó, trong câu văn khấn Nơm có cụm từ
cân đối 8 chữ “Nhất tâm với phật thật tâm với thánh” cịn có đối về từ loại,
“phật” là danh từ đối với “thật” là tính từ.

Tuy nhiên, trong văn khấn Nơm cịn có hiện tượng cụm từ cân đối lên
tới 12 tiếng, mỗi vế 6 tiếng như:
+ “Cô ngoảnh mặt đi con dại, cô ngoảnh mặt lại con khôn” Văn khấn cơ
Bơ.
+ “Biết cơ thì nhẹ như tên, hễ mà khơng biết thì nặng như thuyền mỏ
neo”Văn khấn cơ Bơ.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


16

+ “Ngài rẽ mây giáng xuống, rẽ nước giáng lên, chứng đền chứng phủ,
chứng đủ lô nhang” Văn khấn quan Đệ Tam.
+ “Trai gái, trẻ già sức khỏe dồi dào, an khang thịnh vượng vạn sự tốt
lành”Văn khấn ông Táo lên chầu trời.
+ “Phụng sự trong tiết xuân thiên, báo đáp ân thâm, tỏ lịng hiếu
kính”Văn khấn lễ chạp.
1.2.3. Ý nghĩa của cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm
Văn khấn Nôm thường được sử dụng trong những ngày cúng lễ, tạ ơn,
kêu cầu để thờ phụng tổ tiên, tổ nghề, các quan, các cô, các cậu. Các bài văn
khấn Nôm được lưu truyền trong dân gian để thể hiện lịng tri ân đối với cơng
ơn của tổ tiên, ơng bà cha mẹ đã khuất. Con cháu bày tỏ lòng thành kính và biết
ơn đối với các thế hệ đã có cơng sinh thành và ni dưỡng con cháu nên người
như ngày nay.Các bài bài văn khấn sở dĩ được lưu truyền bằng hình thức truyền
miệng qua thời gian và khơng gian là bởi nó vần vè nhịp nhàng, các câu văn
khấn bắt vần với nhau nên dễ nhớ dễ thuộc. Đặc biệt trong các bài văn khấn
Nơm cịn xuất hiện rất nhiều các cụm từ cân đối làm cho bài văn khấn trở nên
đăng đối, cân xứng hài hòa.
Câu văn khấn Nơm có vần điệu, tuy niêm luật khơng chặt chẽ như một

bài thơ nhưng khi đọc lên mọi người đều cảm nhận được chất thơ của bài văn,
sự đăng đối của các cụm từ cân đối được sử dụng trong bài:
“Cô ngoảnh mặt đi con dại, cô ngoảnh mặt lại con khơn”Văn khấn cơ Bơ
“Biết cơ thì nhẹ như tên, hễ mà khơng biết thì nặng như thuyền mỏ neo”
Văn khấn cơ Bơ.
Bên cạnh đó lời bài văn khấn Nơm khơng chỉ là lời khun bảo mà cịn là
lời ban phước cho nhân gian, thể hiện những tâm nguyện, khấn cầu, mong ước:

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


17

“Năm mới an khang, mọi bề thuận lợi, sự nghiệp hanh thông” Văn
khấn tổ tiên.
“Bốn mùa không hạn ách, tám tiết được hưởng điềm lành” Văn khấn
tổ tiên.
“Cô thương cho trót cơ vót cho trịn” Văn khấn cơ Bơ
Như vậy ta có thể khẳng định, văn khấn Nơm là một loại hình văn hóa
dân gian của Việt Nam tồn tại từ ngàn xưa. Với cụm từ cân đối, nhịp nhàng, lời
bài văn khấn Nơm trang nhã hài hịa, các chữ bắt vần và cân đối với nhau tạo
nên nhạc tính nhạc cảm trong lời khấn. Đây chính là nét độc đáo trong bài văn
khấn Nơm, nét đẹp trong văn hóa dân gian người Việt.
1.3. Cụm từ cân đối trong văn học dân gian
1.3.1. Cụm từ cân đối được sử dụng trong tục ngữ, thành ngữ
1.3.1.1. Khái lược về tục ngữ, thành ngữ
Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh
nghiệm, một luân lí, một cơng lý, có khi là một sự phê phán.Tục ngữ là một thể
loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức
dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh,dễ

nhớ, dễ truyền. Ví dụ: “Tre già măng mọc”, “Nói ngọt lọt đến xương”, “Quan
thấy kiện như kiến thấy mỡ”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Về nội dung, tục ngữ là sự kết tinh kinh nghiệm và tri thức thực tiễn vô
cùng phong phú và quý giá của nhân dân.Không một lĩnh vực nào của đời sống
và cuộc đấu tranh sinh tồn của nhân dân mà không được phản ánh trong tục ngữ.
Khác với cách ngôn, tục ngữ không bao giờ hàm ý khuyên răn trực tiếp.
Về cấu trúc ngôn từ, tục ngữ chủ yếu được diễn đạt theo hình thức những
câu ngắn có vần hoặc khơng có vần (đa số là loại câu từ bốn đến mười tiếng)

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


18

có tính chất tương đối bền vững. Nhưng cũng có một bộ phận tục ngữ được
diễn đạt theo hình thức câu dài gồm hai ba vế (từ 10 tiếng trở nên, có khi trên
20 tiếng). Ví dụ: “Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân
để ngoài ngõ” Hoặc“Lươn ngắn lại chê trạch dài, Thờn bơn méo miệng chê
trai lệch mồm,…” Nhưng dù ngắn hay dài thì mỗi đơn vị tục ngữ đều được gọi
là “câu” chứ khơng gọi là “bài”. Có một bộ phận những câu mang tính chất
nhập nhằng, “lưỡng tính” vừa gần với tục ngữ, vừa gần với ca dao, ví dụ: “Tin
bợn mất bò”; “Tin bạn mất vợ nằm co một mình”; “Ở sao cho vừa lịng người/Ở
rộng người cười ở hẹp người chê”.
Việc xác định đặc trưng thể loại những câu như vậy nói chung là khó.
Nhưng nếu đặt chúng trong những trường hợp cụ thể của phát ngôn thì vẫn có
căn cứ để xác định được. Khi chúng được ngâm, hát lên, để thổ lộ tâm tình của
người sử dụng, thì chúng được coi là ca dao, cịn khi chúng được nói tới để nêu
lên một kinh nghiệm, một nhận xét lí trí, khách quan, thì chúng là tục ngữ.
Về nguồn gốc tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời
sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác, được

tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn
học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn
nước ngồi.Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ.
Thành ngữ là một phần câu có sẵn, nó là một bộ phận của câu mà nhiều
người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó khơng diễn được một ý trọn vẹn.Về
hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu
hoàn chỉnh.
Cụm từ hay ngữ cố định, bền vững, có tính ngun khối về ngữ nghĩa
khơng nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể hiện một
quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. Ví dụ: “Vui như mở cờ
trong bụng”; “Đen như cột nhà cháy; “Đẹp như tiên”; “Xấu như ma lem”;

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


19

“Vắng ngắt như chùa Bà Đanh”…Ý nghĩa của thành ngữ không phải là tổng số
nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là khơng có “nghĩa đen”. Thành ngữ
hoạt động nhự một từ trong câu.Dù dài hay ngắn, xét về nội dung ý nghĩa cũng
như về chức năng ngữ pháp, thành ngữ cũng chỉ tương đương như từ, nhưng là
từ đã được tô điểm và nhấn mạnh nghĩa bằng sự diễn đạt sinh động, có nghệ
thuật. Chẳng hạn thành ngữ“Cò bay thẳng cánh” tương đương với từ “rộng”
được nhấn mạnh (có nghĩa là rất rộng), thành ngữ“Lừ đừ như ông từ vào đền”
tương đương với từ “chậm chạp” được nhấn mạnh (có nghĩa là rất chậm chạp).
Vì thế mà khi đã dùng thành ngữ thì khơng cần và khơng thể dùng các phó từ
tu sức như rất, lắm đển nhấn mạnh nghĩa.
1.3.1.2. Cụm từ cân đối trong thành ngữ và tục ngữ có cấu trúc cân đối gồm
hai vế và đối về thanh điệu
Tục ngữ và thành ngữ không chỉ là tiếng nói chứa đựng tâm tư, tình cảm

của con người lao động mà còn là những kho tàng kinh nghiệm sống quý giá
của muôn đời. Làm nên giá trị đó của tục ngữ và thành ngữ, một yếu tố tiên
quyết quan trọng phải kể đến đó là yếu tố cụm từ cân đối được sử dụng trong
thành ngữ và tục ngữ.
Thành ngữ và tục ngữ thường dùng rất nhiều trong đời sống hằng ngày, tạo sự
gắn bó mật thiết trong đời sống cộng đồng. Sử dụng cụm từ cân đối trong thành
ngữ, tục ngữ giúp người truyền đạt và người lĩnh hội dễ hiểu dễ nghe, bởi dường
như thành ngữ tục ngữ đã rất gần gũi quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày,
và cụm từ cân đối cũng có ý nghĩa quen thuộc như thế.
Cụm từ cân đối có đối về thanh điệu tạo ra tính hình tượng trong tục ngữ
và thành ngữ. Đây là đặc trưng cơ bản của thành ngữ và tục ngữ. Thành ngữ và
tục ngữ được cấu tạo dựa vào quy tắc ngữ pháp, quy luật âm thanh, những quy
luật trên đều do sự chi phối của quy tắc ngữ nghĩa, đó là cơ sở tạo nên tính hình
tượng. Bởi vì, thành ngữ tục ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa: nghĩa đen là do

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×