Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích nội dung cải tiến cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta thời kỳ 1976 1985 và tác động của nó đến tình hình kinh tế. Qua nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt của cơ chế quản lý kinh tế trước và sau 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.42 KB, 12 trang )

Phân tích nội dung cải tiến cơ chế quản lý kinh tế ở nước
ta thời kỳ 1976 - 1985 và tác động của nó đến tình hình kinh
tế. Qua nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt của cơ chế quản lý
kinh tế trước và sau 1986
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1. Bối cảnh kinh tế - xã hội tác động đến việc cải tiến cơ
chế quản lý kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976 - 1985
Sau khi thống nhất đất nước với chủ trương đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa
nhằm xác lập chế độ cơng hữu XHCN gắn với đó là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể, xóa bỏ các thành phần kinh tế phí XHCN. Nhưng trên thực tế khơng ít tổ chức
kinh tế quốc doanh và tập thể tồn tại chỉ có tính hình thức sản xuất kinh doanh yếu
kém, thua lỗ kéo dài. Đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các
nguồn lực, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc
đó gây ra rất nhiều hậu qủa xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó
khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền
kinh tế khơng đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như khơng có. Vốn đầu tư chủ yếu
dựa vào vay viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng
hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí
một số địa phương nạn đói đang rình rập.
Mặt khác cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài bộc lộ nhiều khiếu tật không
tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải
tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng
hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực xã
hội, cụ thể là:
Một là, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu
pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá
sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết


định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh
nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Hai là, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với
các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định khơng đúng gây
ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay
chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cịn các doanh nghiệp vừa
bị trói buộc, vì khơng có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì khơng bị ràng buộc
trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.
Ba là, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát - giao nộp”. Hạch tốn
kinh tế chỉ là hình thức.


Bốn là, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu. Chế độ
bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp như
vậy, coi như một phần những thứ đó được cho khơng. Do đó, hạch tốn kinh tế chỉ là
hình thức.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định chế độ
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo định mức
qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường
đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao
động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh
nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin

cho”.
Trong thời kỳ kinh tế cịn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có
tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích
chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong q trình cơng nghiệp
hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh
tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người
lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh
doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa
trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong bối đó, tháng 8-1979 Hội nghị
lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương, khố IV, đã bàn về tình hình và nhiệm vụ cấp
bách kinh tế - xã hội và Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ phát triển hàng tiêu
dùng và công nghiệp địa phương. Đây là, bước đột phá đầu tiên của q trình tìm tịi,
cải tiến quản lý kinh tế, thử nghiệm cách làm ăn mới. Hội nghị đã có những đổi mới tư
duy quan trọng, thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Hội nghị chủ trương xóa bỏ những chính sách lạc hậu, kìm hãm sản xuất và ban
hành những chính sách tiến bộ để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, trước hết là sản xuất nông nghiệp. Hội nghị chủ trương: ổn
định mức nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước theo giá
thoả thuận hoặc trao đổi tự do; sửa đổi lại thuế lương thực và giá lương thực, nông sản
để khuyến khích sản xuất; sửa đổi chế độ phân phối trong hợp tác xã nông nghiệp, bỏ
lối phân phối theo định suất, định lượng, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Hội nghị xác định rõ phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và
tập thể, kể cả kinh tế tư bản tư nhân để phát triển sản xuất, kết hợp ba lợi ích: tập thể,
cá nhân, xã hội.
Tư tưởng nổi bật của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá IV là:
Làm cho “sản xuất bung ra", nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm trong quản lý
kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, đề ra chủ trương phù hợp để phát triển lực

lượng sản xuất. Nghị quyết ra đời được nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bước đầu
đã xuất hiện những điển hình về cách làm ăn mới phát huy tác dụng tích cực. Tuy


nhiên Hội nghị Trung ương sáu cịn có những hạn chế, những giải pháp nêu ra chưa đủ
sức tháo gỡ khó khăn. Sau một thời gian thực hiện lại xuất hiện những khó khăn mới:
Sản xuất bung ra nhưng khơng đúng hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả
ngày càng cao.
2. Nội dung cải tiến cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn 1976 - 1985
Từ thực tế trên Đảng, Nhà nước ta đã tiếp tục cải tiến cơ chế quản lý kinh tế
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc cải tiến cơ chế quản lý được tiến hành trên rất
nhiều lĩnh vực trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề nông nghiệp, công nghiệp và
giá, lương, tiền. Cụ thể như sau:
a) Về cơ chế quản lý trong nông nghiệp
Đối mặt với sự sa sút của tình hình sản xuất nơng nghiệp, ngay từ dầu năm
1975 một số địa phương đã tự tìm kiếm mày mị cách làm mới. Điển hình là mơ hình
khốn đến hộ gia đình, cho xã viên mượn đất, khuyến khích khai hoang, phục hóa
đaats đại... Mặc dù khơng được chấp nhận song vì hiệu quả trên thực tế của việc làm
này mà ở một số địa phương đã tự động lan dần sang các địa phương khác ở các mức
độ khác nhau.
Tháng 8/1979, hội nghị TW6 đã ban hành nghị quyết về vấn đề kinh tế xã hội
cấp bách và chủ trương làm cho sản xuất bung ra. Ngay sau đó, hàng loạt chủ trương,
chính sách cụ thể nhằm khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp: Chủ trương cho
phép các hộ xã viên được mượn đất của hợp tác xã; ổn định mức nghĩa vụ giao nộp
lương thực; điều chỉnh thuế, giá mua nông sản, bài bỏ chế độ phân phối lương thực
theo định mức, thừa nhận sự tồn tại kinh tế hộ gia đình xã viên…
Để lựa chọn quyết định đúng đắn trước hiện tượng khoán hộ, ngày 21-10-1980,
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thơng báo số 22, cho phép các địa phương mở rộng
thí điểm khốn sản phẩm và khoán việc đối với cây lúa trong các hợp tác xã nơng
nghiệp. Ngay sau đó, cơ chế khốn hộ được triển khai rộng rãi ở nhiều hơp tác xã trên

phạm vi cả nước. Tuy nhiên, ngay sau đó, hình thức khốn này cũng lập tức bộc lộ
ngay hạn chế đó là việc khơng gắn lợi ích và trách nhiệm của người lao động với kết
quả sản xuất.
Rút kinh nghiệm qua khốn thí điểm cây lúa trong các hợp tác xã nơng nghiệp,
ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT-TW về cơng tác khốn sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ thị
100). Chỉ thị 100 đề cập: mở rộng khoản sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
hợp tác xã nông nghiệp đối với các loại cây trồng, vật nuôi, ngành nghề khác trong
hợp tác xã. Khốn trong hợp tác xã nơng nghiệp, xã viên làm ba khâu (cấy, chăm bón,
thu hoạch) các khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm, vượt khốn thì xã viên được
hưởng. Phương hướng chủ yếu trong cải tiến khoán là khuyến khích lợi ích chính đáng
của người lao động làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất và
quản lý hợp tác xã đều gắn với sản phẩm cuối cùng. Nhờ đó, các hợp tác xã và tập
đoàn sản xuất đã phát huy được tốt hơn khả năng của người lao động, tận dụng được
điều kiện về vốn và vật tư, chú trọng các biện pháp thâm canh, tăng năng suất, tăng thu
nhập, giải quyết tốt việc kết hợp lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể, lợi ích của
người lao động.
b) Về cơ chế quản lý trong cơng nghiệp
Việc duy trì phát triển khu vực kinh tế quốc doanh trong cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp đã bộc lộ rất nhiều hạn chế cần phải nghiêm túc nhìn nhận đánh giá. Đó là
việc các xí nghiệp quốc doanh khơng thể tự chủ sản xuất kinh doanh mà hoàn toàn phụ


thuộc vào chỉ tiêu do nhà nước ấn định, trong khi nguồn lực của nhà nước thì rất hạn
chế, dẫn đến sản xuất cơng nghiệp trì trệ, kém phát triển, quy mô nhỏ bé; việc ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng trong điều kiện gần như các nguồn lực để đáp ứng thiếu;
năng suất chất lượng, hiệu quả đầu tư thấp, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế yếu,
kém…
Trên cơ sở tổng kết các hiện tượng "xé rào" và làm thí điểm nhằm phát triển
cơng nghiệp, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh và Long An, ngày 21-1-1981 Chính

phủ đã ban hành Quyết định 25-CP về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền
tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định nêu rõ: Cần lấy kế hoạch
làm chính, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, thị trường, kinh doanh có
lãi; cho phép các xí nghiệp quốc doanh có nhiều nguồn cân đối và kế hoạch ba phần
(phần Nhà nước giao, phần tự làm, phần sản xuất phụ). Cùng ngày 21-1-1981 Hội
đồng Chính phủ ban hành quyết định 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương
khốn, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất
kinh doanh của Nhà nước.
Trên cơ sở phân tích và kết luận về tình hình thực hiện Quyết định 25/CP, ngày
25/8/1982, Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 146/HĐBT sửa đổi bổ sung Quyết
định 25/CP để phát huy mặt tích cực và uốn nắn những lệch lạc phát sinh trong q
trình thực hiện Nghị quyết đó. Những chủ trương chính sách nêu trên đã giảm bớt
phần nào tính tập trung bao cấp trong cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các xí
nghiệp quốc doanh, tạo điều kiện cho “sản xuất bung ra”, giúp cơ sở tự giải quyết một
phần khó khăn, góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước.
c) Cải tiến cơ chế quản lý trong lĩnh vực giá, lương, tiền
Sau 30/4/1975 hai miền Nam - Bắc vẫn cịn có những khác biệt về thị trường,
giá cả hàng hóa cũng như tiền tệ, cụ thể trong thời gian đó, miền Nam được lưu hành
tiền của chính quyền Sài Gịn cũ, đến tháng 7/1975 mới đổi tiền cũ theo tỷ lệ một đồng
ngân hàng Việt Nam mới được phát hành bằng 500 đồng tiền của chính quyền Sài
Gịn. Đến tháng 5/1978, Chính phủ mới cho phát hành tiền ngân hàng cũ ở miền Bắc
và bằng 0,8 đồng ngân hàng miền Nam.
Khi cải tạo đối với thương nghiệp tư bản tư nhân và những người buôn bán nhỏ
diễn ra, thì đồng thời thị trường có tổ chức (mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua
bán) được mở rộng. Trên thị trường này, Nhà nước quy định giá mua thóc và các loại
nơng sản khác, giá tư liệu sản xuất mà Nhà nước bán cho nông dân miền Nam. Đồng
thời, quy định danh mục các loại hàng hóa cơng nghiệp do Nhà nước quản lý, những
hàng hóa thiết yếu cũng do Nhà nước quy định giá bán lẻ.
Sau một số lần điều chỉnh giá cả hàng hóa ở 2 miền, và sau khi đổi tiển để
thống nhất tiền tệ giữa 2 miền, Nhà nước quyết định mức giá thống nhất đối với các

hàng hóa nhu yếu phẩm. Trước hết là đối với hai mặt hàng: gạo và thịt lợn bán cho
công nhân viên chức nhà nước theo giá cung cấp, đến đầu năm 1980-1981 mở rộng
hơn 9 loại hàng hóa cung cấp theo định lượng bằng tem phiếu. Ngồi ra, Nhà nước cịn
thực hiện chính sách 2 giá: giá cung cấp và giá kinh doanh thương nghiệp đối với
nhiều mặt hàng bán lẻ khác.
Ngoài ra, do thiếu hàng cung cấp, Nhà nước phải thực hiện chính sách 2 giá và
điều chỉnh nhiều lần tăng giá thu mua nông sản và giá hàng cung cấp. Nhưng Nhà
nước điều chỉnh tăng giá thì giá hàng trên thị trường tự do cũng tăng theo. Chính sách
hai giá về việc duy trì chế độ bao cấp qua giá đã phát sinh nhiều mâu thuẫn khó giải
quyết. Lạm phát ngày càng tăng.


Do vậy, tháng 6/1985, Hội nghị TW lần thứ 8 khóa V đã đề ra những chủ
trương lớn về giá, lương, tiền. Đây là một chủ trương có ý nghĩa cách mạng không chỉ
về giá, lương, tiền mà cả về tài chính thương nghiệp và kế hoạch hóa.
Sau Hội nghị TW 8, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền đã được thực hiện. Cụ
tể là: Thực hiện một giá kinh doanh, xóa bỏ hồn tồn giá cung cấp và chế độ tem
phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho cán bộ công nhân viên chức, lực lượng vũ trang và diện
đối tượng chính sách. Tổng điều chỉnh tồn bộ hệ thống giá Nhà nước chỉ đạo, lấy giá
lúa thị trường tháng 8/1985 làm cơ sở, đưa toàn bộ mặt hàng giá chỉ đạo lên khoảng 10
lần so với trước tháng 8/1985. Trên cơ sở của mức giá mới. tính lại tiền lương theo
mức tăng của giá. Tiến hành đổi tiền, 1 đồng tiền mới = 10 đồng tiền cũ (9/1985). Mỗi
người vẫn chỉ được đổi một lượng tiền giới hạn, vượt qua giới hạn đó thì được giữ ở
ngân hàng Nhà nước một thời gian khá dài sau đó mới được rút ra.
Thông qua đổi tiền, hy vọng sẽ hạn chế nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cán cân
tiền tệ trong nền kinh tế, tăng khả năng chi trả của ngân hàng lên 10 lần so với tiền
hiện có lúc đó để giải quyết yêu cầu cho việc tăng lương, tăng giá. Tỷ lệ giá hối đoái
cũng được điều chỉnh từ mức 17 đồng thành 210 đồng/rup chuyển nhượng.
Tuy nhiên, việc thực hiện chủ trương này không đạt được kết quả như mong
muốn. Thực tế, đổi tiền chủ yếu chỉ cắt giảm được lượng tiền mặt tích trữ và để ngồi

sổ sách của các xí nghiệp quốc doanh. Khi nguồn này bị triệt tiêu, tình trạng thiếu tiền
mặt đã làm ảnh hưởng đến sản xuất của các xí nghiệp.
Và để giải quyết tình trạng trên, Chính phủ buộc phải phát hành tiền để đảm
bảo hoạt động của các xí nghiệp quốc doanh và làm lượng tiền mặt lại nhanh chóng
tăng lên. Lạm phát tăng nghiêm trọng ngay sau khi đổi tiền. Trước khi điều chỉnh giá,
lương, tiền, bình quân một tháng giá thị trường tăng 3-4% nhưng sau khi điều chỉnh,
giá thị trường tự do quý IV/1985 tăng bình quân tới 18,1%/tháng. Lạm phát tăng cao,
tình hình lưu thơng, phân phối ngày càng rối ren.
Thực tế cải tiến cơ chế quản lý có tác động bước đầu đến sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp và giá, lương, tiền, tuy nhiên cải tiến chưa thốt khỏi tư duy kinh tế cũ mà
nó vẫn diễn ra trong mơ hình kinh tế cũ nên khơng thể khắc phục được khuyết tật của
mơ hình này, những vấn đề mới lạ được nẩy sinh với cơ chế quản lý. Điều đó dẫn đến
sự trì trệ khủng hoảng đến phát triển và đến giữa những năm 80 đã khủng hoảng đến
kinh tế xã hội, đời sống, việc làm gặp nhiều khó khăn, đói nghèo, tệ nạn xã hội ra tăng.
Cũng từ tác động của cải tiến cơ chế quản lý kinh tế đã dẫn đến những tác động của nó
đối với nơng nghiệp, cơng nghiệp, giá lương, tiền.
3. Tác động của việc cải tiến cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn 1976 - 1985
đối với sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và vấn đề giá, lương, tiền
a) Mặt tích cực
* Đối với lĩnh vực nơng nghiệp
Thực hiện Chỉ thị 100 và Nghị quyết Đại hội V của Đảng, nơng nghiệp nước ta
có những bước tiến mới. Đầu tư cho sản xuất nông nghiệp đươc nâng cao. Nhà nước
đã thực hiện chủ trương khai hoang, phục hóa, tăng vụ, diện tích gieo trồng được tăng
thêm 1,5 triệu ha, đã cung ứng thêm cho nông nghiệp gần 10.000 máy kéo các loại,
đưa tỉ lệ cơ giớ hóa làm đất lên 25% diện tích gieo trồng. Diện tích trồng rừng đạt
500.000 ha, thêm gần 1 triệu ha được tưới nước.
Sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 1981 -1985 đã được phát triển một bước
quan trong. Năm 1985, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 126,9% so với năm
1980, bình quân hàng năm tăng 4,9%; sản lượng lương thưc tăng 27%, đạt 18,2 triệu



tấn, bình quân đầu người đạt 304 kg (so với mức 268 kg năm 2008). So với giai đoạn
1976 - 1980, sản lượng bình quân năm 13,35 triệu tấn thì giai đoạn 1981 - 1985 là 17
triệu tấn, tăng 3,65 triệu tấn. Như vậy, với chủ trương tập trung cao độ cho sản xuất
nông nghiệp, coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”, đã ngăm chăn được tình trạng
giảm sút trong nông nghiệp, cơ bản đảm bảo được lương thực, thực phẩm.
* Đối với lĩnh vực công nghiệp
Giai đoạn này, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phát triển công
nghiệp, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Công cuộc
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn được tiếp tục đẩy mạnh. Nhà nước đã đầu tư
vào ngành công nghiệp gần 65 tỷ đồng (tính theo giá năm 1992), chiếm 40% tổng số
vốn đầu tư và khu vực sản xuất vật chất, có tốc độ tăng cao hơn mức tăng bình qn
của tồn bộ khu vực sản xuất vật chất. Trong đó, chúng ta đã đầu tư vào nhóm A trên
70% và nhóm B dưới 30%.
Từ 1979-1985 có nhiều cơng trình cơng nghiệp tương đối lớn đã được xây dựng
như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Hịa Bình, thủy điện Trị An; khu dầu khí
Vũng Tàu; các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên; nhà máy phân lân
Lâm Thao; nhà máy sợi Hà Nội, Vinh, Huế, Nha Trang; nhà máy đường Lam Sơn, La
Ngà; các nhà máy giấy Bãi Bằng, Tân Mai…Do đó giá trị tài sản của tồn ngành cơng
nghiệp đã được tăng lên đáng kể. Đồng thời năng lực sản xuất mới của nhiều ngành
công nghiệp cũng được nâng lên. Riêng thời kỳ 1981-1986, tăng thêm 456.000kwh
điện; 2,5 triệu tấn than; 2,1 triệu tấn xi măng; 330.000 tấn sợi, giấy 58.000 tấn, đặc biệt
dầu mỏ cũng bắt đầu được khai thác.
Đại hội IV đề ra kết quả thực hiện trong giai đoạn đó về công nghiệp trong giai
đoạn này là: giá trị sản lượng cơ khí đạt 80%; sản lượng điện đạt 3.680 triệu kwh đạt
73,6 %; than 52%, khai thác gỗ tròn là 1,577 triệu m3, đạt 45%; vải mặc là 182 triệu
mét, đạt 40,4%; đánh bắt cá biển là 399 ngàn tấn, đạt 39,9%; giấy bìa là 48,3% ngàn
tấn, đạt 28%; sản lượng thép là 62,5 ngàn tấn, đạt 25%.Thời kỳ 1981-1985: Sản xuất
cơng nghiệp vượt qua thời kỳ suy thối và khủng hoảng, bắt đầu có bước phát triển
đều đặn, rõ ràng, năm sau cao hơn năm trước. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1983

đã vượt năm 1977 (năm cao nhất của thời kỳ kế hoạch 5 năm 1976 - 1980), năm 1984
đã vượt 20% so năm 1977. Đến năm 1985, tồn ngành Cơng nghiệp đã sản xuất được
105 tỷ đồng giá trị sản lượng, tăng trên 61,3% so với năm 1976 và 57,4% so với năm
1980. Trong thời kỳ 1981-1985, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 57,4%, tốc độ tăng
bình qn hàng năm đạt 9,5%, trong đó nhóm A tăng 6,4% và nhóm B tăng 11,2%,
cơng nghiệp trung ương tăng 7,8% và địa phương tăng 10,4%, tiểu thủ công nghiệp
tăng 11,4%. Cơ cấu công nghiệp thay đổi như sau: nhóm A/B năm 1980 là
37,8%/62,2% và năm 1985 là 31,4%/68,6%; cơng nghiệp quốc doanh/ngồi quốc
doanh năm 1980 là 60,2%/39,8% và năm 1985 là 56,3%/43,7%9. Cơ cấu ngành công
nghiệp cũng có những biến đổi nhất định.
Vào năm 1985, một số chỉ tiêu sản phẩm cơng nghiệp chủ yếu tính bình quân
đầu người đạt như sau: điện phát ra 87,2 kWh, so với 62,7 kWh (1976); than sạch đạt
93,9 kg, so với 115 kg (1976); xi măng đạt 25,1 kg, so với 15,1 kg (1976); gạch đạt 49
viên, so với 75 viên (1976); gỗ tròn đạt 0,024 m3, so với 0,031 m3 (1976); giấy đạt
1,31 kg, so với 1,53 kg (1976); muối ăn đạt 11,2 kg, so với 11,9 kg (1976); cá biển đạt
10,5 kg, so với 12,3 kg (1976); đường mật đạt 6,7 kg, so với 1,5 kg (1976); vải lụa đạt
6,2 mét, so với 4,5 mét (1976).
* Đối với vấn đề giá, lương, tiền


Sau Hội nghị TW8, khóa V, nước ta đã tiến hành cuộc tổng điều chỉnh giá,
lương, tiền, nâng tổng mặt bằng giá của các mặt hàng do các đơn vj doanh nghiệp nhà
nước sản xuất, tiền lương của cán bộ, công nhân viên chức của nhà nước, kể cả khối
doanh nghiệp nhà nước và tiến hành cải cách tiền tệ. Mặc dù kết quả của cuộc tổng
điều chỉnh này chỉ diễn ra được vỏn vẹn trong vòng 3 tháng nhưng cũng đã có những
tác động nhất định đỗi với việc ổn định thị trường tài chính, tiền tệ và cải thiện đời
sống nhân dân.
b) Hạn chế
* Về nông nghiệp
Nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm

những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách
khuyến khích. Cơ chế khốn sản phẩm sau một thời gian thực hiện đã phát sinh những
hiện tượng tiêu cực, làm giảm động lực. Có tới 80% tổng số hợp tác xã đã xảy ra tình
trạng khốn trắng cho cho nơng dân. Tình trạng khê đọng sản phẩm tăng lên. Chẳng
hạn ở Hà Nam Ninh, sau ba năm thực hiện khốn, nơng dân nợ Nhà nước lên tới
22.500 tấn thóc, đến cuối vụ chiêm năm 1984 lên tới 33.811 tấn. Phương thức giao
khoán, định mức khoán, phương án phân phối sản phẩm không thống nhất dẫn đến tuy
tiện trong vận dụng, làm thiệt hại lợi ích của người nhận khốn. Nông dân trả bớt
ruộng, cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã không được sử dụng tốt, thậm chí bị giảm
sút.
Tình trạng “rong cơng tính điểm” diễn ra phổ biến ở nhiều hợp tác xã, làm cho
thu nhập của xã viên giảm đi. Ở miền bắc giá trị ngày công trong nhiều hợp tác xã từ
trên 2 kg/công giảm xuống cịn 1 kg đến 0,7-0,8 kg/cơng, thậm chí có nơi giảm xuống
cịn 0,3-0,4 kg/cơng. Ngồi ra, hợp tác xã và xã viên còn phải gánh chịu quá nhiều
khoản “bao cấp cho xã hội”, “bao cấp qua gia” và nạn chun quyền, độc đốn, mất
dân chủ, tham ơ, lợi dụng của cán bộ quản lý ngày càng phổ biến. Tất cả những vấn đề
đó làm cho nơng nghiệp chững lại và bắt đầu đình trị.
* Về cơng nghiệp
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2
và thứ 3 không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho những năm đều khơng
đạt được, thậm chí tỷ lệ hồn thành ở mức độ rất thấp. Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50-80% so
với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, lương thực, chăn nuôi lợn, than và nhà ở) còn 8
chỉ tiêu khác chỉ đạt 25-48% (trồng rừng, gỗ trịn, vải lụa, cá biển, giấy, xi măng, phân
hóa học và thép). Kế hoạch 5 năm lần thứ 3 đề ra thấp hơn song cũng có 6 trong 9 chỉ
tiêu khơng hồn thành so với kế hoạch. Điều đó ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh
tế và đời sống của nhân dân lao động.
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp,
vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp
thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm lớn là đã hầu như không sắp
xếp lại các cơ sở sản xuất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý, không tập trung

được nguồn năng lượng, nguyên liệu, vật tư có hạn vào những cơ sở trọng điểm nhằm
khai thác tốt nhất năng lực sản xuất hiện có. Mặt khác, trong xây dựng cơ bản, tuy đã
đình, hỗn một số cơng trình tương đối lớn, tập trung hơn cho các trọng điểm, nhưng
về căn bản, vẫn chưa điều chỉnh hợp lý, không kiên quyết đình, hỗn những cơng trình
chưa thật cấp bách và kém hiệu quả, cịn ham xây dựng nhiều cơng trình quy mơ lớn.
Khối lượng xây dựng dở dang q nhiều, khiến cho vốn bị đọng quá lâu. Các địa
phương và các ngành cịn xây thêm nhiều cơng trình ngồi kế hoạch, làm tăng thêm sự


phân tán về tiền vốn và vật tư.
Mặc dù có những tiến bộ, nhất là trong thời kỳ 1980-1985, nhưng nhìn chung,
cơng nghiệp Việt Nam hãy cịn nhỏ bé. Năm 1985, ngành công nghiệp mới chiếm
10,7% tổng số lao động xã hội, và chủ yếu là lao động thủ công với năng suất thấp.
Tuy chiếm khoảng 40% giá trị tài sản cố định của cả nền kinh tế quốc dân, nhưng công
nghiệp chỉ tạo ra chưa tới 30% thu nhập quốc dân, hiệu quả trên đồng vốn đầu tư còn
rất thấp. Công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu trong nước về trang thiết bị hiện đại hoá
cho nền kinh tế và các hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân. Tuy đầu tư của Nhà
nước cho công nghiệp rất lớn và không ngừng tăng lên qua các năm, số lượng xí
nghiệp cơng nghiệp cũng tăng nhanh, nhưng sản xuất công nghiệp và giá trị sản lượng
lại tăng chậm.
* Về vấn đề giá, lương, tiền
Việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền đã phạm sai lầm, điều đó được thể hiện
rất rõ:
Chi ngân sách Nhà nước cho tiền lương tăng vọt, nhưng thu ngân sách lại
không tăng bao nhiêu do giá vật tư không tăng bằng mức Ban Chỉ đạo đề nghị. Mặc dù
nguồn thu từ viện trợ và nước ngồi khơng nhỏ, nhưng ngân sách vẫn trong tình trạng
thiếu hụt và phải bù đắp bằng phát hành tiền. Bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1%,
năm 1985 là 36,6%, dẫn đến bội chi tiền mặt.
Thực tế đổi tiền chủ yếu chỉ cắt giảm được lượng tiền mặt tích trữ và để ngồi
sổ sách của các xí nghiệp quốc doanh. Khi nguồn này bị triệt tiêu, tình trạng thiếu tiền

mặt đã làm ảnh hưởng đến sản xuất của các xí nghiệp. Để giải quyết tình trạng này
Chính phủ buộc phải phát hành tiền để đảm bảo hoạt động của các xí nghiệp quốc
doanh và làm lượng tiền mặt lại nhanh chóng tăng lên. Lạm phát tăng nghiêm trọng
ngay sau khi đổi tiền. Trước khi điều chỉnh giá, lương, tiền bình quân 1 tháng giá thị
trường tăng 3-4%. Sau khi điều chỉnh, giá thị trường tự do quý IV năm 1985 tăng bình
quân tới 18,1%/tháng. Lạm phát tăng cao, tình hình lưu thông phân phối ngày càng rối
ren.
Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985.
Do đồng tiền mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt,
cịn nhanh hơn cả tăng giá hàng hóa.
Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là đối với cán bộ công nhân viên,
lực lượng vũ trang và một bộ phận nơng dân. Tiền lương thực tế bình qn hàng tháng
của cán bộ công nhân viên chức so với năm 1980 chỉ bằng 51,1%; năm 1984 bằng
32,7%.
Tuy cải cách giá, lương, tiền không diễn ra như kế hoạch do sự chắp vá giữa cải
cách với mơ hình cũ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong thời gian cuối năm
1985 và năm 1986, song chính sự khủng hoảng này đã làm cho các cấp các ngành
nhận ra rằng đã cải cách là phải cải cách triệt để. Mơ hình cũ phải bị đoạn tuyệt hồn
tồn. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt
Nam tháng 12 năm 1986 đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi mới lịch sử.
* Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế đó xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách
quan, những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Về khách quan, chúng ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là chủ
yếu, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá và chịu nhiều hậu quả của chủ nghĩa thực dân cũ
và mới. Năm 1979, chiến tranh Ở biên giới phía tây nam và phía bắc làm cho bức


tranh kinh tế càng xấu hơn. Thiên tai vào những năm 1977, 1978 cũng góp phần làm
cho sản xuất nơng nghiệp giảm sút .v.v...

Về chủ quan, trong công tác xây dựng và quản lý kinh tế của Đảng, Nhà nước
còn có một số sai lầm:
Một là, đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên mô lớn
trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã
khơng sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số
ngày càng một gia tăng. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc
doanh. Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa
nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Hai là, thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép:
khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân
phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
Ba là, việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các cơng cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến khơng thích hợp với u cầu tự do lựa chọn của người
sản xuất và người tiêu dùng đã khơng kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao
động. Cịn thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lý, chưa chú trọng tổng kết kinh
nghiệm.
4. Những khác biệt cơ bản của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập
trung giai đoạn 1976 - 1985 với cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta từ 1986 đến nay
Sau 10 năm cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975-1985),
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, song tình
hình kinh tế- xã hội cịn nhiều khó khăn gay gắt, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh
tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm. Trong khi đó tình hình thế giới đang có những
biến đổi nhanh chóng và phực tạp. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật Đại hội Đảng VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới tồn diện đất nước,
trong đó coi trọng đổi mới kinh tế. Đại hội chỉ ra phương hướng đổi mới cơ chế quản

lý kinh tế là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phát triển kinh tế thị trường
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những
đặc trưng chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế mới là: tính kế hoạch là đặc trưng số một
và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng số hai. Nền kinh tế phải
được quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu, khơng coi nhẹ các biện pháp
hành chính và tư tưởng. Cơ chế quản lý kinh tế mới có sự biệt với cơ chế quản lý kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, đó là:
Một là, về vai trị quản lý kinh tế của nhà nước
Cơ  chế  quản lý kinh tế  kế  hoạch hóa tập trung: Nhà nước quản lý nền kinh tế
chủ yếu bằng công cụ hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp dụng
từ trên xuống dưới. Nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế thông qua các kế
hoạch, chỉ tiêu, các công cụ kinh tế không được coi trọng sử dụng. Nhà nước đề cao
tính kế hoạch, xem nhẹ vai trò của thị trường, kế hoạch của nhà nước xây dựng nhiều
khi không bám sát thị trường. Cho nên khơng có sự kết hợp giữa kế hoạch và thị
trường. Thông qua kế hoạch, chỉ tiêu định hướng cho nền kinh tế phát triển, quyết định


tất cả từ sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, giá cả sản phẩm, thị trường tiêu thụ … mà
khơng tính đến quan hệ cung cầu về hàng hóa trên thị trường và năng lực thực tế, hiệu
quả của từng doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa: Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo
môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và sử
lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội.
Nhà nước quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp giữa kế hoạch với thị
trường, trong đó nhà nước tơn trong những quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường để đề ra kế hoạch phát triển cho kinh tế. Nhà nước kết hợp hài hịa giữa cơng
cụ hành chính và cơng cụ kinh tế trong quản lý và điều tiết nền kinh tế. Trong đó, cơng
cụ kinh tế được coi trọng hơn. Kế hoạch, chỉ tiêu chỉ mang tính chất định hướng dẫn

dắt. Sự kết hợp giữa kế hoạch với thị trường được thể hiện rõ nét ở cả tầm vĩ mô và vi
mô.
Ở tầm vi mô, thông qua sự biến động của quan hệ cung - cầu và giá cả trên thị
trường các doanh nghiệp có quyền lựa chọn được phương án sản xuất, kinh doanh
nhằm mục đích thu lợi nhuận cao nhất. Nếu khơng bám sát thị trường thì, các mục
tiêu, kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sẽ khơng có hiệu quả và khơng
thể thực hiện được.
Ở tầm vĩ mô, các kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước đều dựa
cơ sở thị trường. Kế hoạch vĩ mô của Nhà nước đảm bảo những cân đối lớn, tổng thể
của nền kinh tế như cung - cầu; sản xuất - tiêu dung; hàng hóa - tiền tệ…Kế hoạch vĩ
mơ có thể tác động đến cung cầu, giá cả nhằm uốn nắn những lệch lạc của sự phát
triển do tính tự phát của thị trường gây ra, thơng qua đó mà hướng hoạt động của thị
trường để ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhà nước quản lý thơng qua cơng cụ tài chính, tiền tệ, thuế và hệ thống các
chính sách, pháp luật… Cùng với đó là các qui hoạch kinh tế vùng, lãnh thổ, qui hoạch
đô thị, qui hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực, kế hoạch
lựa chọn công nghệ mới.
Hai là, về hoạt động của các doanh nghiệp
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung các doanh nghiệp hoạt động trên
cơ sở các kế hoạch, chỉ tiêu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các doanh nghiệp
khơng có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, đều bình đẳng
trước pháp luật. Thị trường định hướng giúp các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực và
phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Ba là, về thị trường
Cơ  chế  quản lý kinh tế  kế  hoạch hóa tập trung khơng thừa nhận sự  tồn tại của
các loại thị  trường. Nhà nước thiết lập hệ  thống thị  trường phân phối từ  trên xuống
dưới, trong đó Nhà nước ấn định giá và Nhà nước bán các sản phẩm của mình theo số

lượng bắt buộc, phân phối theo đầu người. Chính do khơng thừa nhận thị  trường nên
thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sản xuất, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao
động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh
và người lao động.


Cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thừa nhận sự tồn tại khách quan của các loại thị trường như: thị trường hàng hóa, dịch
vụ, thị trường khoa học cơng nghệ, thị trường lao động, thị trường tài chính.. Giá cả
hàng hóa dịch vụ cơ bản do thị trường điều tiết theo quan hệ cung - cầu, Nhà nước chỉ
điều tiết giá của một số ít loại mặt hàng quan trọng để ổn định giá cả, nhằm bảo đảm
đời sống nhân dân.
Nhờ sự hoạt động của các loại thị trường nên các chủ thể kinh kế vừa hợp tác
vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Cạnh tranh trở thành một trong những động lực
quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khoa học công
nghệ được coi trọng và quan tâm đầu tư phát triển đúng mức tạo nên tính năng động
của nền kinh tế và thúc đẩy lực lượng sản suất phát triển.
Bốn là, về quan hệ tài chính ­ tiền tệ
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi
nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu, Nhà nước quản lý kinh tế thông qua
chế độ “cấp phát - giao nộp” nên nhiều hàng hóa như sức lao động, phát minh sáng
chế, tư liệu sản xuất quan trọng khơng được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
quan hệ hàng hóa - tiền tệ đươc coi trọng đúng mức. Giá cả của hàng hóa do thị trường
quyết định, giá cả hàng hóa lên xuống theo quan hệ cung - cầu trên thị trường. Sức lao
động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất được coi là hàng hóa. Các cơng cụ tài chính,
tiền tệ được sử dụng một cách linh hoạt trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Như vậy, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế quản lý kinh
tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự  khác nhau căn bản
về chất. Trong đó rõ nét nhất là sự khác nhau về vai trị quản lý kinh tế của Nhà nước.

Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung đề cao vai trị của Nhà nước xem
nhẹ vai trò của thị trường, nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế thông qua các
kế hoạch, chỉ tiêu dẫn đến vi phạm các quy luật kinh tế khách quan, phân phối lưu
thông rối ren. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đề cao vai trò
của thị trường, Nhà nước can thiệp vào kinh tế trên cơ sở tôn trọng quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế và các
loại thi trường. Nhà nước thơng qua các chính sách vĩ mô, hệ thống pháp luật và các
công cụ kinh tế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mà không can thiệp trực tiếp vào hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
5. Bài học kinh nhiệm rút ra từ cải cách cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn
1976 - 1985
Từ thực cải tiến cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn 1976 - 1985, có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm sau đây:
Một là, đổi mới, cái tiến cơ chế quản lý kinh tế luôn phải luôn xuất phát từ thực
tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Để khắc phục được khuyết điểm,
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phải đổi mới tư duy trước hết là tư duy kinh tế. Cải tiến,
đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế là một q trình lâu dài, khơng thể một
sớm một chiều có thể hồn thiện. Vấn đề quan trọng là phải nhận thức đúng đắn và
hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, dám nghĩ, dám làm, dám nhìn
thẳng vào sự thật để đổi mới. Thực tế cho thấy khi điều kiện hoàn cảnh thay đổi, việc
duy trì kéo dài cơ chế tâp trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến tình trạng trì trệ của nền
kinh tế. Do vậy, cải tiến, đổi mới là một tất yếu đặt ra.


Hai là, luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong
sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới, trong đó nhấn mạnh: Đổi mới khơng phải là
thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết
quả, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Ngun tác này địi hỏi
q trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đơi với tăng cường vai

trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội. Nhà nước phải sử dụng hệ thống cơng cụ,
chính sách với nhiều cách làm sáng tạo để tiến hành quản lý kinh tế xã hội, hạn chế và
khắc phục những hậu quả tiêu cực của kinh tế thị trường, giữ cho công cuộc đổi mới đi
đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Ba là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có trọng tâm, trọng
điểm, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Thực tiễn đồng thời với đổi mới
kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy
ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực.
Những cải tiến về cơ chế quản lý trong giai đoạn 1976-1985 mặc dù đã giải quyết
được một số vấn đề, tuy nhiên đây chỉ là những giải pháp mang tình trình thế, thiếu
đồng bộ, chắp vá, nặng về yếu tố kỹ thuật. Do vậy, không thể khắc phục được hạn chế
cố hữu trước đó. Do vậy, để đoạn tuyệt với cơ chế cú chúng ta phải đồng loạt giải
quyết tất cả các vấn đề trên tất cả các lĩnh vực, giải quyết phải đi từ gốc của vấn đề là
cải tạo quan hệ sở hữu, đồng thời phải gắn với tổ chức quản lý và phân phối sản
phẩm… Q trình đó, chú trọng tập trung vào các lĩnh vực, các ngành có điều kiện,
phù hợp với một nước nơng nghiệp lạc hậu, tránh chủ quan máy móc, dập khuôn học
theo con đường của các nước khác.
Bốn là, tiêu chuẩn đánh đúng đắn của cơ chế quản lý là sản xuất phát triển, lưu
thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định
và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày
càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố.
Năm là, quá trình tiến hành cải tiến, đổi mới, phải quan tâm dự báo tình hình,
kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh, chú trọng thông
tin về những biến động của đời sống kinh tế-chính trị.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử kinh tế, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2013
2. Giáo trình Kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2011
3. Nguyễn Quốc Quý, Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 2008.

4. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2006.
5. Một số chuyên đề Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, tập II, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2007.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V,
VI.



×