Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Báo cáo tốt nghiệp "Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.76 KB, 54 trang )







Báo cáo tốt nghiệp

"Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam "
Lời mở đầu


Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tín dụng hoạt động đa năng, đầy sôi
động. Sự thay đổi cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn diễn ra hàng ngày cộng thêm
sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, lạm phát khiến cho hoạt động ngân hàng trở nên vô
cùng mạo hiểm, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
ở các nước kinh tế phát triển, rủi ro ngân hàng là điều không thể tránh khỏi,
ngân hàng được ví ngân hàng như là một chỗ trũng cho rủi ro ở mọi hướng đổ về.
ở nước ta, thực tế cho thấy hoạt động rủi ro trong ngân hàng càng cao hơn, bởi lẽ:
môi trường kinh tế chưa ổn định, kinh nghiệm tiếp cận của các tổ chức tín dụng
còn non yếu, tình trạng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh không lành
mạnh, kém văn minh diễn ra khá phức tạp. Chính vì vậy, bất kỳ một nứơc nào
cũng phải có một hệ thống luật pháp và đưa ra các biện pháp để quản lý, điều
chỉnh hoạt động của ngân hàng, giữ cho hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh,
an toàn và có hiệu quả. Từ thực tế trên cho thấy, sự ra đời của tổ chức tín dụng có
vai trò hết sức quan trọng, nó bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo cho các tổ chức tín
dụng hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả.
Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm tiền gửi Việt Nam vừa mới thành lập (ttháng
7/2000) còn rất non trẻ, nhưng đã từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền
kinh tế quốc dân và trong tương lai thị trường bảo hiểm tiền gửi sẽ là một thị


trường đầy triển vọng với những tiềm năng được khai thác triệt để. Mặt khác, thị
trường bảo hiểm tiền gửi thế giới cũng khá phát triển trong vài thập kỷ qua với
nhiều hình thức khác nhau. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ
lưỡng và đưa ra phương hướng phát triển thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước và hoà nhập với thị
trường bảo hiểm tiền gửi thế giới.
Trên cơ sơ đó, em chọn đề tài:
"Bảo hiểm tiền gửi và thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam ".
Ngoài phần mở đầu và kết luận ra bài viết gồm ba phần:
CHƯƠNG I: Những vấn đề cơ bản của bảo hiểm tiền gửi
CHƯƠNG II: Thị trường bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
CHƯƠNG III: Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường bảo hiểm tiền
gửi ở Việt Nam

chương I: những vấn đề cơ bản về bảo hiểm tiền gửi

I. giới thiệu chung về bảo hiểm tiền gửi

1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi

Trong hoạt động kinh tế, tín dụng là một trong những hoạt động phát triển khá
mạnh mẽ. Mặc dù hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận, cao nhưng những "rủi ro
tín dụng " như rủi ro mấtt khả năng thanh toán, rủi ro lãi suấtt, rủi ro do tỷ giá hối
đoái. . . có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào gây tổn thất cho các quỹ tín dụng như mất
mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập. . . làm cho quỹ tín dụng bị thua lỗ, thậm chí bị
phá sản.

Rủi ro tín dụng có thể do nhiều nguyên nhân:

-Do môi trường kinh tế chưa ổn định làm cho một số doanh nghiệp không đứng

vững trên thị trường;

-Do quản lý nhà nước còn sơ hở, tạo điều kiện cho một số cá nhân, doanh
nghiệp có hành vi lừa đảo;

-Do trình độ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế v. v. .

Cùng với những nguyên nhân trên, khách hàng cũng góp phần tạo ra rủi ro tín
dụng. Chẳng hạn: khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, sản xuất kinh doanh thua
lỗ; hoặc người vay cố tình không trả nợ; hoặc tài sản thế chấp, giấy tờ pháp lý của
khách hàng không đảm bảo.

Bản thân ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng gây ra những rủi ro như:
không chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm quá trình xét duyệt cho
vay; không kiểm tra được việc sử dụng vốn của người vay; quá chú trọng về lợi
nhuận, đặt tiêu chuẩn về lợi nhuận lên trên các nguyên tắc, điều kiện của tín dụng;
việc xem xét cho vay không chuẩn xác như cho vay sai mục đích, chẳng hạn vay
để đánh quả hoặc để đầu cơ tích luỹ hàng hoá chờ giá tăng, cho vay không có biện
pháp đảm bảo thích hợp.

Ngoài ra còn có nhuyên nhân khác tác động đến rủi ro tín dụng như có sự thay
đổi, điều chỉnh về chính trị, chính sách, chế độ luật pháp của Nhà nước, thay đổi
địa giới hành chính của các địa phương. . .

Những rủi ro tín dụng xảy ra có thể để lại hậu quả khôn lường.
-Đối với kinh tế:hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng có liên quan
trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các tổ chức, các doanh nghiệp, người
gửi tiền. Nếu có rủi ro gây thiệt hại lớn hoặc làm phá sản một vài tổ chức tín dụng
sẽ tạo tâm lý không an tâm đối với nhân dân, họ đua nhau rút tiền làm phá sản
hàng loạt ngân hàng và tổ chức tín dụng, làm cho nhiều doanh nghiệp mất vốn làm

ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung.

-Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động kinh doanh của họ như: giảm lợi nhuận, thua lỗ hoặc mất khả
năng chi trả.
-Đối với khách hàng: có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh
doanh. . .

Để đối phó với những rủi ro tổn thất khong lường trước được do các rủi ro gây
ra, có rất nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là bảo hiểm, nghĩa là
chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. Chính vì
vậy, sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi là một tất yếu khách quan.

2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi

Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là sự đảm bảo bằng vật chất đối với các khoản tiền
gửi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (TCTD) trong trường hợp tổ chức
tín dụng gặp rủi ro không thanh toán được tiền cho người gửi. Hoạt động BHTG
dựa trên cơ sở xác lập và sử dụng quỹ bảo hiểm của các tổ chức BHTG mà các
TCTD tham gia. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi bao gồm:

Thứ nhất: BHTG bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Điều đó được thực hiện trực
tiếp thông qua việc sử dụng quỹ bảo hiểm để bồi thường cho người gửi tiền khi
TCTD tham gia bảo hiểm bị vỡ nợ. Thông thường, các tổ chức BHTG chỉ bồi
thường số tiền trong một giới hạn nhất định. Đối với người gửi tiền vượt quá mức
giới hạn nào đó (như ở Mỹ là 100. 000 USD) cũng được bồi thường một phần.
Hoạt động của BHTG cũng mang tính trợ giúp hạn chế, ngăn ngừa rủi ro xảy ra
đối với các TCTD chính là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.

Thứ hai: BHTG bảo vệ các TCTD tham gia bảo hiểm. Thể hiện trực tiếp thông

qua hoạt động ngăn ngừa, trợ giúp các TCTD tham gia bảo hiểm khi gặp khó khăn.
Sự trợ giúp có thể dưới hình thức cho vay, khuyến khích các TCTD khác cho vay,
yêu cầu thay đổi về quản lý, mua nợ các TCTD khó khăn.

Mặt khác, sự bảo vệ đó còn thể hiện gián tiếp thông qua việc tổ chức BHTG
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Khi người gửi tiền không được bảo hiểm, nếu
một TCTD bị phá sản thì gửi tiền sẽ không đòi lại được đầy đủ giá trị tiền gửi,
thậm trí có khả năng bị mất trắng. Nếu vì một lý do nào đó, những người gửi tiền
nghi ngờ về sự vỡ nợ của TCTD họ sẽ rút tiền ngay lập tức. Điều này dễ dẫn đến
một phản ứng dây chuyền mọi người đổ xô đến rút tiền làm cho TCTD đó bị phá
sản. Chính sự cam kết bồi thường của các tổ chức BHTG khi TCTD tham gia làm
yên lòng người gửi tiền, hạn chế và chấm dứt cảnh lan truyền dòng người đi rút
tiền, từ đó hạn chế sự vỡ nợ của các TCTD.

Thứ ba:BHTG bảo vệ hệ thông các TCTD. Sự đổ vỡ của một tổ chức tín dụng
có thể lan truyền sang các TCTD khác do người gửi tiền ở các TCTD khác nghi
ngờ rằng TCTD của họ không có khả năng trả lại tiền họ đã gửi được. Việc một tổ
chức tín dụng bị phá sản có thể châm ngòi cho các TCTD khác bị phá sản theo.
Điều này có thể nhân rộng tới khi có một vụ hoảng loạn ngân hàng dẫn tới cả hệ
thông bị phá sản. Khi có một TCTD tham gia BHTG, không những sẽ có tác dụng
ngăn chặn sự vỡ nợ của một TCTD mà còn có tác dụng ngăn chặn cả những vụ
hoảng loạn ngân hàng, góp phần bảo vệ cho cả hệ thống TCTD.

Thứ tư: BHTG góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Với vai trò chuyển vốn từ
người có vốn đến người cần vốn, các TCTD đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
nhịp nhàng, hiệu quả. Khi hệ thống các tổ chức tín dụng mất ổn định, hoảng loạn
thì tác hại của nó với nền kinh tế cũng rất nghiêm trọng, có thể làm ngưng trệ, gián
đoạn sản xuất gây mất trật tự an toàn xã hội. Thông qua vai trò bảo vệ an toàn các
TCTD cũng như cả hệ thống TCTD, BHTG đã góp phần quan trọng vào ổn định
của nền kinh tế - xã hội.


Tóm lại, vai trò của BHTG rất quan trọng, nó không chỉ duy trì sự an toàn cho
các TCTD, bảo vệ người gửi tiền mà còn là động lực tạo đà cho nền kinh tế phát
triển nhịp nhàng, ổn định.

3. Sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển của BHTG

Lịch sử hoạt động ngân hàng trên thế giới cho thấy, BHTG trở thành vấn đề tất
yếu và dược các nước thực hiện từ rất lâu. Hệ thống quỹ tín dụng Desjardins của
Canada được thành lập từ năm 1900 tại Quebéc (Canada). Bên ngoài hệ thông
Desjardins, nhà nước lập ra ba tổ chức: cơ quan bảo hiểm nông nghiệp của
Quebéc, cơ quan tín dụng và cơ quan BHTG của Quebéc. Nếu tính từ năm 1933 (ở
Mỹ), năm 1937 (ở Đức) và năm 1938 (ở Nauy) là những nước đã thành lập, tổ
chức BHTG đã có gần 70 năm. nhưng thời gian mà BHTG phát triển mạnh nhất là
thập kỷ 80, có trên 10 nước đã lần lượt cho ra đời tổ chức BHTG.

BHTG phát triển hết sức phong phú và đa dạng, ban đầu các nước chỉ có tổ
chức bảo toàn tiền gửi nằm trong hệ thông ngân hàng, sau đó mới phát triển thành
tổ chức BHTG hoạt động tách biệt. Ngày nay, BHTG phát triển hết sức mạnh mẽ
với nhiều hình thức khác nhau.

Theo một tài liệu nghiên cứu của Đài Loan ở 25 hệ thống BHTG của 22 nước,
cho thấy tính đa dạng của mô hình và những phương thức BHTG, mặc dù mục tiêu
của những mô hình đó gần như đều thống nhấtvới nhau: bảo vệ người gửi tiền, duy
trì sự an toàn của hệ thống ngân hàng.

Tính đa dạng thể hiện ở: trên thế giới có nhiều dạng mô hình và trong một nước
cũng có nhiều tổ chức độc lập, cùng hoạt động theo pháp luật, mỗi tổ chức đó thực
hiện BHTG cho hệ thống theo những phạm vi nhất định.


Nhìn tổng quát trong số 22 nước đã nghiên cứu: có 11 tổ chức công, là những tổ
chức thuộc nhà nước (Canada, Aixơlen, ấn Độ, Hà Lan, Nigenia, Philippin, Đài
Loan, Mỹ, Trinidad & Tobaco); 8 tổ chức tư của các ngân hàng lập nên (Đan
Mạch, Pháp, Đức, Aixơlen, ý, Lucxambua, Nauy, Thuỵ Sỹ); 4 tổ chức là hỗn hợp
công tư (Bỉ, Hung gari, Nhật, Anh).

Cũng có quốc gia hiện nay có nhiều tổ chức BHTG (Aixơlen, Nauy, Pháp, Mỹ,
Đức). Aixơlen: Có quỹ BHTG cho các ngân hàng thương mại, là một tổ chức bán
công, thành lập từ năm 1986, lại có quỹ BHTG cho các ngân hàng tiết kiệm, là một
tổ chức tư cùng thành lập năm 1986. Nauy, có 3 quỹ BHTG riêng biệt, đều là
những tổ chức tư (1921, thành lập quỹ BHTG ngân hàng thương mại; 1938, thành
lập quỹ BHTG ngân hàng tiết kiệm; 1991, thành lập quỹ BHTG ngân hàng chính
phủ). Pháp cũng có nhiều tổ chức BHTG theo từng loại hình TCTD (mỗi hệ thống
TCTD có tổ chức BHTG của hiệp hội của tổ chức đó. Riêng các ngân hàng tương
tế, ngân hàng HTX không phải ra nhập BHTG, vì họ đã được bảo đảm khả năng
thanh toán ngay trong hệ thống). Nhìn vào lịch sử phát triển BHTG ở Đức, thấy có
ba loại hình: Thứ nhất là của nhà nước, tức là nhà nước đứng ra bảo hiểm cho
những người gửi tiền (đến nay, nhà nước chỉ thực hiện đối với người gửi tiền ở các
quỹ tiết kiệm); Thứ hai, thông qua hệ thống bảo hiểm chung (SBIC) thuộc công ty
bảo toàn liên bang; Thứ ba, hình thức bảo hiểm do TCTD kết hợp với nhau, đó là
mô hình bảo toàn tiền gửi, do các hiệp hội lập ra. Chỉ riêng loại này ở Đức có 3 mô
hình bảo toàn tiền gửi của ba nhốm tổ chức tín dụng khác nhau: Nhóm tổ chức tiết
kiệm, các hợp tác xã tín dụng và các ngân hàng tư nhân.

Có thể thấy rằng, BHTG phát triển tương đối mạnh mẽ ở các nước trên thế
giới qua các thời kỳ với nhiều hình thức và mô hình khác nhau cùng hoạt động bổ
sung, tương hỗ cho nhau.




II. nội dung của bhtg

1. Đối tượng tham gia BHTG

Đối tượng tham gia bảo hiểm là các quỹ tín dụng nhân dân. Bảo hiểm chỉ bảo
hiểm trách nhiệm của quỹ đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn.

2. Phạm vi của BHTG

Trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống, con người có
thể gặp rủi ro như: thiên tai, hoả hoạn, ốm đau, tai nạn. . . Đặ biệt trong nền kinh tế
thị trường các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngoài các rủi ro trên còn có thể
gặp các rủi ro do quy luật cạnh tranh mang lại. Các rủi ro này có thể làm doanh
nghiệp bị phá sản.
Các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp khác cũng có thể gặp
các rủi ro và hơn thế nưã với hoạt động đặc biệt là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ,
hệ số rủi ro của các ngân hàng thương mại cao hơn rất nhiều so với các doanh
nghiệp khác. Các chuyên gia ngân hàng đã đề cập rất nhiều đến vấn đề rủi ro trong
kinh doanh ngân hàng dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có những rủi ro khách
quan do các hiện tượng thiên nhiên và xã hội diễn biến phát triển phức tạp ngoài
tầm kiểm soát của con người, khả năng dự tính, dự báo của con người còn bị hạn
chế, có những rủi ro chủ quan do sự bất cập của con người, có những rủi ro do cơ
chế, do đạo đức của cán bộ ngân hàng. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại rủi ro
này đều được bảo hiểm. Chính vì vậy, tổ chức BHTG đã quy định những rủi ro nào
được bảo hiểm, những rủi ro nào không được bảo hiểm.

a. Các rủi ro được bảo hiểm

Trong bảo hiểm tiền gửi các rủi ro sau được bảo hiểm:


 Sự phá sản của quỹ tín dụng

Phá sản là trường hợp quỹ tín dụng không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc
quỹ tín dụng không thể tiếp tục kinh doanh vì bị thiếu vốn. Trong trường hợp này,
các công việc của quỹ phải giao cho ban thanh lýtài sản xử lý các tài sản còn lại
theo đúng quy định pháp lý về phá sản của Nhà nước.

 Sự giải thể bắt buộc của quỹ tín dụng

Giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của Nhà nước
hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bố giải thể vì quỹ tín dụng từ
chối thanh toán và chỉ có cách này mới hi vọng thu hồi được tiền.
 Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất
khả năng thanh toán của quỹ tín dụng

Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc dù vẫn
có khả năng thanh toán nhưng không đúng mục đích đã đề ra, không muốn toà án
can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho hoạt động tiếp. Trong trường hợp
này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho những người gửi tiền nhưng sẽ được
thế quyền để hưởng số tiền thanh lý tài sản hay đòi nợ.

 Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản
của quỹ tín dụng

Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của quỹ tín dụng là tình trạng quỹ
tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi đã áp dụng
các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy
nhiên không muốn toà án can thiệp, các cổ đông của quỹ chấp nhận tuyên bố giải
thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm cũng có trách nhiệm bồi thường đối với các
khoản tiền gửi có kỳ hạn mà quỹ không thanh toán hết sau khi có quyết định giải

thể.

 Không thể thựcc hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một
mệnh lệnh của toà án đối với quỹ tín dụng

Xảy ra trong trường hợp quỹ tín dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ
nợ đệ đơn lên toà án để có lệnh bắt buộc quỹ phải tuyên bố phá sản hay thanh lý để
trả nợ các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu được nợ. Lệnh của toà án
cũng được áp dụng khi:

-Quỹ tín dụng không có phương án hoà giải và có giải pháp tổ chức lại hoạt
động kinh doanh của quỹ theo yêu cầu của toà án.

-Quỹ tín dụng không tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án
hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của quỹ tín dụng.

-Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, quỹ tín dụng vi phạm nghiêm trọng
những thoả thuận tại hội nghị của chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá
sản.

-Hết thời hạn tổ chức lại kinh doanh mà quỹ tín dụng vẫn kinh doanh khônh
có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu toà án phải có tuyên bố phá sản quỹ tín dụng.

b. Các rủi ro loại trừ

Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây ra
sự phá sản, thanh lý hay giải thể một quỹ tín dụng trong các trường hợp:

 Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã
nêu trong pháp lệnh ngân hàng của quỹ tín dụng.


Quỹ tín dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân
thủ các quy định hiện hành của Nhà nước. Nếu quỹ tín dụng vi phạm nghiêm
trọng các quy định về tiền tệ, tín dụng thanh toán của ngân hàng dẫn đến phá
sản thì bảo hiểm không bồi thường.

 Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân

-Do cổ đông nhận thức thấy mục tiêu khi thành lập quỹ không đạt được.

-Do cổ đông muốn thu hồi lại vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của quỹ
tín dụng.

 Ngừng hoạt động do những nguyên nhân

Quỹ tín dụng ngừng hoạt động vì chiến tranh, đình công, bạo loạn dân sự,
nội chiến. Đây là những rủi ro loại trừ thông thường, không liên quan đến hoạt
động kinh doanh tiền tệ. Khi quỹ tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải thể do các
rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm cho những người gửi tiền có
kỳ hạn.

3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm

a. Số tiền bảo hiểm

Số tiền bảo hiểm là số dư tiền gửi có kỳ hạn trong báo cáo số dư tiền gửi
mỗi quý của quỹ tín dụng.

b. Phí bảo hiểm


Phí bảo hiểm là số tiền quỹ tín dụng phải trả cho người bảo hiểm để bảo
hiểm số dư tiền gửi có kỳ hạn của quỹ tại thời điểm cuối mỗi quý. Phí bảo hiểm
mà quỹ tín dụng trả cho người bảo hiểm theo từng quý được tính theo công
thức:

90x
365
R
mxP 


Trong đó: P: Phí bảo hiểm theo quý;
m: Số dư tiền gửi có kỳ hạn;
R: Tỷ lệ phí bảo hiểm;
90: Số ngày của một quý;
365: Số ngày trong năm;

Vì bảo hiểm chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Do đó khi báo cáo số
dư tiền gửi, các quỹ tín dụng phải phân loại:

-Những khoản tiền gửi không kỳ hạn.

-Những khoản tiền gửi có kỳ hạn.

Trên cơ sở phân loại quỹ, cuối mỗi quý, quỹ tín dụng có thể tính phí bảo hiểm
và trả cho người bảo hiểm.

4. Các hình thức của BHTG

a. BHTG bắt buộc


Chính vì BHTG có vai trò quan trọng đặc biệt nên nó luôn là một bộ phận
trong chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước về tài chính tiền tệ của mỗi quốc
gia. ở hầu hết các nước, việc tham gia BHTG của các TCTD là bắt buộc theo
pháp luật như "luật BHTG ngân hàng của Canada", "Luật về ngành tín dụng"
của Đức, "Luật BHTG " của Nhật, "Luật DDO EF No 94-6" của Pháp. . . Trong
đó, luật quy định rất cụ thể buộc các ngân hàng và các TCTD phải tham gia
BHTG. Chẳng hạn, "Luật DDO EF No 94-6" của Pháp thông qua ngày
08/08/1994 bắt buộc tất cả các TCTD được cấp giấy phép hoạt động trên lãnh
thổ của Pháp phải có nghĩa vụ tham gia vào hệ thống BHTG. ở Việt Nam, tổ
chức BHTG tuy mới được thành lập năm 2000 nhưng nó cũng bắt buộc các
ngân hàng và các TCTD phải tham gia.

b. BHTG tự nguyện

Ngoài hình thức BHTG ra, các TCTD và các ngân hàng còn tự lập cho mình
hệ thống bảo toàn tiền gửi nhằm tương hỗ nghề nghiệp giữa các hội viên ngân
hàng. Đây cũng là một tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền
tại các ngân hàng thương mại, giữ cho hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn ổn
định, và bảo vệ uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, đảm bảo độ tin cậy của
người gửi tiền vào các ngân hàng thương mại. Quỹ của tổ chức bảo toàn tiền gửi
do các hội viên của hiệp hội ngân hàng tự nguyện đóng góp. Chính vì vậy, việc
tham gia tổ chức bảo toàn tiền gửi là không bắt buộc mà mang tính tự nguyện.

Tóm lại, BHTG dù có tồn tại dưới hình thức bắt buộc hay tự nguyện nó đều
có một mục tiêu là bảo đảm an toànvừa cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
vừa cho người gửi tiền. Nó chỉ khác ở chỗ, ở hình thức BHTG thì tiền gửi được
bảo đảm trực tiếp, còn ở hình thức bảo toàn tiền gửi thì tiền gửi lại được bảo đảm
một cách gián tiếp.






























chương II: thị trường bhtg ở việt nam



I. tính tất yếu khách quan hình thành thị trường Bhtg
việt nam

Như chúng ta đã biết, mọi khoản tiền gửi ở hệ thống ngân hàng thương mại
và các TCTD là tài sản của người gửi tiền. Họ gửi vào ngân hàng với nhiều
động cơ và mục đích khác nhau: tiết kiệm, để dành hay tích luỹ; lấy lãi để thanh
toán hoặc đảm bảo an toàn tài sản của mình.

Nguồn vốn huy động được từ tầng lớp dân cư và thành phần kinh tế, xã hội
là nguồn vốn kinh doanh chủ yếu trong hoạt động của ngân hàng thương mại và
các TCTD theo phương thức "đi vay để cho vay". Thông qua đó, ta thấy rõ mối
quan hệ trách nhiệm giữa người đi huy động vốn và người đi gửi tiền có sự bảo
đảm pháp lý cao nhất của nhà nước theo nguyên tắc, người gửi tiền vào ngân
hàng phải được ngân hàng có trách nhiệm bảo đảm an toàn vốn một cách tuyệt
đối.

Thêm vào đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ rất phức tạp và có nhiều rủi ro ;
tập trung chủ yếu, thường xuyên xảy ra và lớn nhất là rủi ro trong đầu tư vốn tín
dụng. Trong đó, có những rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng. Năm 1990, ở
nước ta có 7. 660 HTX tín dụng nông thôn và quỹ tín dụng đô thị. Song "cơn
lốc" đổ vỡ tín dụng trong khoảng thời gian này đã làm tan rã hầu hết số HTX tín
dụng và quỹ tín dụng nói trên. Hàng nghìn tỷ đồng không có khả năng thanh
toán, hậu quả của nó rất nghiêm trọmg đối với kinh tế xã hội và đến nay vẫn
chưa giải quyết dứt điểm được. Chính phủ và ngân hàng nhà nước đã phải trực
tiếp can thiệp để làm dịu tình hình, giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Trong năm
1996, sau hơn 20 năm chúng ta mới gặp lại trận lũ lịch sử trên khắp cả nước.
Thiên tai xảy ra ở 43 tỉnh, thành phố, chỉ tính riêng thiệt hại về vật chất ước tính
trên 7. 283 tỷ đồng. Thêm vào đó, từ năm 1997 đến nay, cuộc khủng hoảng tài
chính đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một số

nước trong khu vực. Việt Nam là một trong số các nước chịu ảnh hưởng nhẹ của
cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á. Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi ở các ngân hàng
thương mại còn cao. Nguyên nhân do hệ thống tài chính- ngân hàng phát triển
không đồng bộ, còn lỏng lẻo trong quản lý ngân hàng cũng như quản lý vốn, cơ
cấu đầu tư chưa hợp lý. Ngân hàng chi vay thế chấp bằng bất động sản, khi thị
trường bất động sản Việt Nam suy giảm, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sản
xuất kinh doanh không lường hết được nhu cầu thị trường nên không tiêu thụ
được hàng hoá. Doanh nghiệp trong nước hiệu quả kinh doanh thấp, khả năng
tài chính và sự cạnh tranh yếu, việc mở rộng bảo lãnh nhập hàng trả chậm, cho
vay thanh toán đối ngoại tràn lan, khi doanh nghiệp thua lỗ gây khó khăn cho
ngân hàng trong việc thanh toán với nước ngoài. Rủi ro của khách hàng sẽ kéo
theo sau là rủi ro của chính ngân hàng. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động tín dụng là
điều dễ xảy ra hơn bất kỳ lĩnh vực hoạt động kinh tế nào khác. Sự đổ vỡ trong
hoạt động tín dụng sẽ để lại những hậu quả mang tính dây chuyền và công phạt
khôn lường về kinh tế, chính trị và xã hội. Nó liên quan đến lợi ích của nhà
nước và nhiều tầng lớp dân cư.

Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, khi những tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín
dụng ngoài quốc doanh như các ngân hàng thương mại cổ phần, các HTX tín
dụng, các quỹ tín dụng nhân dân mới bước vào nghề thì mọi việc còn quá sớm,
niềm tin của khách hàng chưa có là bao, trong khi đó dư âm về sự đổ vỡ hàng
loạt HTX tín dụng trước đây vẫn còn "ám ảnh" trong dân. Trước tình hình đó,
một vấn đề nghiêm túc đặt ra với nhà nước và xã hội là tìm những giải pháp hữu
hiệu để đề phòng và ngăn chặn sự đổ bể, sự mất an toàn của hệ thống ngân
hàng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng cho người gửi tiền. Do đó, cách bảo
toàn chọn vẹn, có hiệu quả nhất để đảm bảo cho người gửi tiền là áp dụng biện
pháp BHTG cho người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng thương mại và các
TCTD.

Thực tế trên đây cho thấy việc ra đời một công ty BHTG ở Việt nam đã trở

thành nhu cầu bức xúc. Nó sẽ là chỗ dựa vững chắc để khắc phục rủi ro tín dụng
và làm lành mạnh hoạt động tín dụng của ngân hàng, giúp cho thị trường tài
chính của ta phát triển ổn định hơn, từ đó tạo đà cho nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh hơn, đưa
nước ta rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực cũng như các nước
phát triển trên thế giới.

II. Thực trạng BHTG ở việt nam

1. Thực trạng về hoạt động BHTG ở Việt Nam hiện nay

Hệ thống ngân hàng ở Việt nam hiện nay là hệ thống ngân hàng hai cấp,
bao gồm ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại hoạt động theo cơ
chế thị trường, tuan theo "pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam" và " pháp
lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính". Hệ thống các tổ chức
tín dụng đã có một mạng lưới rộng lớn, bao gồm ngân hàng nhà nước, 4 ngân
hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh
với nước ngoài, 2 công ty tài chính cổ phần, 1 quỹ tín dụng nhân dân trung
ương, 5 quỹ tín dụng nhân dân khu vực, 900 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Năm
1996 so với năm 1995, vốn huy động tiền gửi của các ngân hàng tăng 659%, dư
nợ cho vay tăng 883%.

Để củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với các quỹ tín dụng nhân dân,
tạo cơ sở cho các quỹ tín dụng nhân dân hoạt động ổn định và phát triển, ngày 1/
3/ 1994 Bộ tài chính đã ban hành quyết định 101/ TCQĐ-BH về quy tắc bảo
hiểm trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi. Với
quyết định này, lần đầu tiên nước ta có một tổ chứclà Bảo Việt thực hiện nghiệp
vụ BHTG. Song người gửi tiền được bảo hiểm chỉ giới hạn gửi tại các quỹ tín
dụng nhân dân, loại tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở
lên, mức tối đa là 100 triệu đồng đối với một thể nhân, 500 triệu đồng đối với

một pháp nhân, và chỉ bồi thường tiền gốc không bồi thường tiền lãi. Thực tế
triển khai BHTG của Bảo Việt còn nhiều hạn chế, đến cuối năm 1995 mới chỉ
có 162 quỹ tín dụng tham gia với sổ tiền bảo hiểm là 100 tỷ đồng, chiếm 33,
22% tiền gửi tại các quỹ tín dụng nhân dân, và chỉ chiếm 0, 2% tổng số dư tiền
gửi tại các TCTD trong cả nước, cuối năm 1996 có 300 quỹ tham gia bảo
hiểmvới số tiền bảo hiểm hơn 854 tỷ đồng và cuối quý 1 năm 1997 có 370 quỹ
tham gia với số tiền bảo hiểm hơn 322 tỷ đồng. Hiện nay hiệp hội ngân hàng
Việt Nam đang chuẩn bị thành lập quỹ BHTG của hiệp hội. Nghiên cứu dự thảo
Điều lệ hoạt động quỹ BHTG của các TCTD Việt nam và quy chế hoạt động
quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, chúng ta thấy rằng:

-Quỹ BHTG là quỹ của các thành viên hiệp hội, có mục đích bảo vệ an
toàn cho các thành viên. Song quỹ là một tổ chức tương hỗ, không có vốn ban
đầu, chỉ khi nào đi vào hoạt động các ngân hàng tham gia mới đóng lệ phí nên
nguồn vốn của qũy rất nhỏ bé, do đó nếu rủi ro lớn quỹ sẽ không đủ vốn để thực
hiện trách nhiệm đền bù của mình.

-Quỹ bảo toàn tiền gửi là một quỹ tương hỗ nên việc đóng góp vốn lập quỹ,
đặc biệt là các khoản đong góp bất thường sẽ bị ràng buộc bởi chế độ tà chính
của nhà nước quy định.
-Quỹ bảo toàn tiền gửi của hiệp hội ngân hàng Việt Nam chỉ là quỹ của các
hội viên hiệp hội, do đó các chi nhánh nước ngoài, các ngân hàng liên doanh và
các ngân hàng khác sẽ không được tham gia BHTG.

-Do đặc điểm phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam, hiện nay vốn tiền
gửi do 4 ngân hàng quốc doanh huy động đã chiếm khoảng 90% tổng doanh số
huy động trong toàn hiệp hội. Điều đó có nghĩa là quỹ bảo toàn tiền gửi nếu
được hình thành thì chủ yếu do 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đóng góp,
song nếu các ngân hàng quốc doanh có rủi ro thì quỹ sẽ gặp khó khăn về vốn để
đền bù, thập chí không thực hiện được vì doanh số hoạt động của các ngân hàng

quốc doanh rất lớn. Song, nếu các ngân hàng khác gặp rủi ro thì quỹ sẽ thực
hiện đền bù dễ dàng hơn. Đây chính là điểm bất bình đẳng về lợi ích giữa các
thành viên trong hiệp hội.

Cho đến nay, mặc dù tổ chức BHTG mới được thành lập vào tháng 7/2000
nhưng trình độ chuyên môn chưa cao, quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ hẹp, vốn
tự có chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu BHTG đối với các ngân hàng lớn mạnh.

Mặt khác đại bộ phận tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và các TCTD
chưa được bảo hiểm. Số tiền được bảo hiểm mới chỉ là một bộ phận tiền gửi tại
các quỹ tín dụng nhân dân, tập trung chủ yếu tại các vùng nông thôn và chiếm tỷ
trọng không đáng kể trong tổng số dư tiền gưỉ mà hệ thống ngân hàng huy động
trong toàn quốc.

Thêm vào đó, việc Bảo Việt BHTG cho các quỹ tín dụng nhân dântheo
quyết định 101/TCQ-BH với giới hạn chỉ bảo hiểm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ
3 tháng trở lên. Trên thực tế số tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân và các tổ chức
kinh tế xã hội là rất lớn nhưng không được bảo hiểm, điều đó sẽ hạn chế khả
năng huy động vốn của các TCTD. Theo quy định hiện hành Bảo Việt chỉ trả
bồi thường sau khi quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm ngừng hoạt động 1 tháng, và
chỉ trả tiền gốc. Như vậy, nếu là người gửi tiền chỉ cần nghe tin quỹ tín dụng
khó khăn về tài chính thì họ sẽ đổ xô đến để rút tiền nhằm lấy lại cả gốc lẫn lãi,
đồng thời tránh được phải chờ đợi lâu trong trường hợp phải nhận tiền bồi
thường từ bảo hiểm. Rõ ràng trong tình huống này hoạt động bảo hiểm cũng
không có mấy tác dụng ngăn ngừa sự hoảng loạn ngân hàng khi gặp rủi ro.

Ngoài ra quyết định trường hợp quỹ tín dụng tham gia bảo hiểm nếu vi
phạm nghiêm trọng pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính thì rủi ro sẽ không được bồi thường. Điều này là chưa thoả đáng, bởi vì
bồi thường rủi ro là bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền. Khi hợp đồng bảo hiểm

chưa bị huỷ bỏ, khi vi phạm pháp luật là do lỗi của TCTD và lỗi của cơ quan
bảo hiểm thiếu kiểm tra giám sát để phát hiện, chấn chỉnh kịp thời thì hậu quả
không nên để cho người gửi tiền gánh chịu.

Nhìn chung, hiện nay ở Việt Nam nghiệp vụ BHTG rất còn mới mẻ và
chưa phát triển như các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nó vẫn trong thời gian thử
nghiệm và hoàn thiện dần cho phù hợp với điều kiện cũng như hoàn cảnh của
đất nước. Chính vì vậy, Chính phủ và ngân hàng nhà nước cần coi hoạt động
BHTG là một mắt xích quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia, nó có vai
trò đòn bẩy thu hút tiền gửi và đảm bảo tạo ra sân chơi bình đẳng cho các ngân
hàng thương mại. Đồng thời phải có những quy định cụ thể về các nội dung của
BHTG.




2. Nội dung hoạt động nghiệp vụ BHTG áp dụng ở Việt Nam

a.Tổ chức kinh doanh BHTG

Tổ chức BHTG là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động dưới sự điều
tiết của Thủ tướng Chính phủ, được nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, có tư cách
pháp nhân và được miễn nộp các loại thuế. Trong trường hợp thiếu vốn tạm
thời, tổ chức BHTG phải báo cáo ngân hàng nhà nước để ngân hàng nhà nước
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức BHTG được vay từ các
TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ. Tuy nhiên, trong thời gian đầu
của bước sơ khai thì ngân hàng nhà nước có thể giúp đỡ BHTG nhưng về lâu dài
ngân hàng nhà nước không thể làm thay (vì đó là tác nghiệp cụ thể của BHTG
Việt Nam) không thuộc chức năng của ngân hàng nhà nước.


b. Phí bảo hiểm tiền gửi

Phí BHTG được điều chỉnh theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
mức hiện hành là 0, 15%/ năm trên số dư tiền gửi bình quân tại các tổ chức tham
gia BHTG, được nộp làm 4 lần trong năm tài chính. Có thể thấy rằng, mức phí
này áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng là chưa hợp lý. Vì mức độ rủi ro
của mỗi loại hình tổ chức tín dụng có khác nhau, do mục đích và tính chất hoạt
động khác nhau, do trình độ quản trị, điều hành, kinh nghiệm khác nhau. Ngân
hàng thương mại quốc doanh trung ương với quy mô huy động vốn của cá nhân
có thể lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, với mức phí này thì phí bảo hiểm có thể
lên đến con số rất lớn trong lúc mức độ rủi ro của các cá nhân tại các ngân hàng
này không đáng kể, ngược lại ở ngân hàng cổ phần thì cao hơn mhiều, quỹ tín
dụng nhân dân do tính chất giúp đỡ thành viên trong cộng đồng, hơn nữa mới ra
đời nên rủi ro không phải là ít, ngân hàng chính sách thì rủi ro có thể lớn hơn v.
v. . . Thêm vào đó, phí phạt đối với các trường hợp nộp chậm là 0, 1% số tiền
nộp chậm một ngày; nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài tới 30 ngày, tổ chức
BHTG có quyền yêu cầu ngân hàng nhà nước (hoặc các TCTD, kho bạc nhà
nước) trích tài khoản tiền gửi của các TCTD (hoặc các tổ chức khác có tham gia
hoạt động ngân hàng) để chuyển nộp phí bảo hiểm và các khoản tiền phạt. Tổ
chức BHTG sẽ quyết định chấm dứt việc bảo hiểm và thông báo ra công chúng
nếu tổ chức tham gia bảo hiểm không nộp phí bảo hiểm quá thời hạn 3 tháng,
trách nhiệm bảo hiểm đối với tiền gửi trong trường hợp này tiếp tục được bảo
tồn với thời hạn là 6 tháng.

c. Mức tiền được bảo hiểm tiền gửi

Mức tiền tối đa mà một người gửi tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi được BHTG Việt Nam trả là 30 triệu (cả gốc và lãi) lớn hơn 30 triệu đồng
tại một tổ chức tham gia BHTG thì phần vượt so với quy định trên đây sẽ được

hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG phù hợp
với quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.

Như vậy mức tiền mà BHTG Việt Nam trả ngay cho một người gửi tiền
của tất cả các khoản tiền gửi tối đa chỉ 30 triệu đồng, bất chấp người đó gửi
nhiều hay ít. Sự cào bằng đó sẽ dẫn đến hạn chế múc tiền của mỗi người gửi vào
các TCTD. Nếu gửi trên mức 30 triệu thì khi TCTD rơi vào tình trạng bị phá sản
thì chỉ là sự thiệt thòi đáng kể. Sự chênh lệch trên mức 30 triệu có thể rất lớn,
nếu đợi chờ hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản thì quả là "ế ẩm". Không
chỉ vì thời gian kéo dài mà có thể rơi vào nhiều tình huống: Nếu giá trị tài sản
còn lại của TCTD đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ (cá
nhân) được thanh toán đủ số nợ của mình. Nhưng ngược lại không đủ thì mỗi
chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
Thế thì dại gì họ gửi trên mức 30 triệu để phải thấp thỏm lo âu!

d. Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi

Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính nhà nước được thành lập nhằm
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và góp phần duy trì sự

×