Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

1 tiểu luận vận dung các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật vào quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.36 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN
ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC HIỆN NAY
Học viên: Trịnh Thị Việt Anh
Mã số học viên: 22ĐHTĐ0012
Lớp: K5 – UD2(2022 – 2024)
MỞ ĐẦU
Triết học là một khoa học đã có từ lâu đời, với mỗi thời kì triết học được
phát triển qua các trường phái khác nhau với nhiều quan điểm khác nhau tại một
số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Triết học đóng góp một vai trị to lớn
trong quá trình phát triển tri thức của nhân loại. Từ khi ra đời triết học đã hình
thành những tư tưởng biện chứng, hay còn gọi là phép biện chứng. Phép biện
chứng xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ ràng buộc qua lại lẫn nhau,
mang tính khách quan, cụ thể ở những thời điểm lịch sử cụ thể. Phép biện chứng
nói chung, đặc biệt là các nguyên tắc biện chứng của triết học Mác – Lênin đã
được ứng dụng và vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, một
trong số đó là cơng tác quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục là công tác quản lý con người trong phạm vi trường học,
là cách thức xử lý vấn đề của người quản lý giáo dục đối với giáo viên và học
sinh ở cơ sở giáo dục mình quản lý. Vấn đề quản lý giáo dục luôn là nhiệm vụ


hang đầu để người quản lý nâng cao chất lượng giáo dục cho trường học, sự phát
triển của cơ sở giáo dục đó phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác và sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực giáo viên, cơ sở vật chất và các em học sinh. Tất cả các
yếu tố đó đều có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Nhưng trong
đó con người là yếu tố quan trọng và cũng rất đặc biệt trong giáo dục. Phép biện


chứng duy vật sẽ giúp nhà quản lý một cái nhìn tồn diện trong việc đánh giá con
người, gắn con người với các quan hệ xung quanh, xem xét con người trong xu
hướng phát triển. Từ đó sử dụng một cách có hiệu quả nguồn nhân lực mà mình
quản lý và đạt được mục tiêu đề ra cho cơ sở giáo dục.
Nhận thấy được vai trị và tầm quan trọng đó của các ngun tắc trong phép biện
chứng duy vật, tác giả đã lựa chọn chủ đề “ Vận dụng các nguyên tắc của phép
biện chứng duy vật trong quản lý giáo dục hiện nay” để nghiên cứu và tìm hiểu,
làm rõ.


NỘI DUNG
Đối với nội dung của tiểu luận, tác giả sẽ triển khai bao gồm hai phần nội dung
chính như sau:
1. Nội dung các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật Mác – Lê nin
1.1. Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của phép biện chứng
C.Mác đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm
Friedrich Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von
Feuerbach và phát triển nên phương pháp luận này. Các nhà triết học Marx-Lenin
cho rằng phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của
họ.
Triết học Mác là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, là hạt nhân thế
giới quan, phương pháp luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là công cụ
nhận thức vĩ đại để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới, xóa bỏ áp
bức, bóc lột, bất cơng; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây dựng chế độ xã
hội mới tốt đẹp hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học đó là tạo nên sự thống
nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật
lịch sử; làm cho triết học trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học và
cách mạng để giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động trên toàn thế
giới.

Trong lịch sử triết học duy vật trước C.Mác đã chứa đựng khơng ít những
hạt nhân hợp lý. Nhưng do sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội, trình độ phát
triển của khoa học cho nên tính siêu hình, duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã hội
là nhược điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác. Trong khi đó, phép
biện chứng lại bị nhốt trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ điển Đức, đặc
biệt là hệ thống triết học duy tâm, bảo thủ, phản động của G.V.Ph.Hêghen. Để xây
dựng một thế giới quan, phương pháp luận triết học thực sự khoa học và cách


mạng, đem lại cho lồi người một cơng cụ nhận thức vĩ đại, C.Mác đã tiến hành
cải tạo chủ nghĩa duy vật L.Phoiơbắc, phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Công lao của C.Mác trong cải tạo chủ nghĩa duy vật đã được V.I.Lênin đã khẳng
định: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã
đưa học thuyết đó tới chỗ hồn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới
tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”.
Phép biện chứng là một cống hiến vĩ đại, không thể phủ nhận của C.Mác.
C.Mác đã chủ định nghiên cứu phép biện chứng từ rất sớm. Trong khi thừa nhận
những hạt nhân hợp lý, C.Mác đã chỉ ra thế giới quan duy tâm, lộn ngược, tính
chất bảo thủ, phản động, bất lực trước những vấn đề xã hội và lịch sử trong phép
biện chứng của G.V.Ph.Hêghen. C.Mác đã đặt ra yêu cầu phải sử dụng phép biện
chứng duy vật để phân tích các vấn đề xã hội và lịch sử. Theo đó, phép biện
chứng duy vật của C.Mác khác hẳn về chất so với phép biện chứng duy tâm của
G.V.Ph.Hêghen. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của
tôi không những khác phương pháp của Hê-ghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn
với phương pháp ấy nữa.”. Tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng là cống hiến vĩ đại của C.Mác mà trong lịch sử triết học chưa từng có.
C.Mác đã đem lại cho lồi người tiến bộ vũ khí lý luận sắc bén, công cụ nhận
thức vĩ đại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học;
là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự

nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Mác-Lênin là triết học duy vật, bởi triết học đó
coi ý thức là tính chất của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nhiệm
vụ của bộ não người là phản ánh giới tự nhiên. Sự phản ánh có tính biện chứng,
bởi nhờ nó mà con người nhận thức được mối quan hệ qua lại chung nhất giữa
các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất; đồng thời nhận thức được rằng, sự


vận động và phát triển của thế giới là kết quả của các mâu thuẫn đang tồn tại bên
trong thế giới đang vận động đó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng - nó là hình thức cao nhất trong các hình
thức của chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa
duy vật kết hợp với phép biện chứng. Đặc trưng của phương pháp duy vật biện
chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái ln phát triển và
xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.
1.2. Khái quát về nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng
Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất
phát chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức,
phương tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả. Vận
dụng phương pháp luận biện chứng duy vật trong quán triệt và xử lý mối quan hệ
lớn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ở nước ta hiện nay là góp phần định hướng phát triển đất nước theo hướng
bền vững.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác đã tạo ra một bước ngoặt trong triết học,
một trong những biểu hiện nổi bật của cuộc cách mạng này là sự thống nhất chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật trở thành cơ sở của
thế giới quan và phương pháp luận khoa học, vì nó là một hệ thống lý luận phản
ánh những mối liên hệ, những quá trình biến đổi của bản thân thế giới hiện thực,
căn cứ vào những kết quả khoa học đã được đúc kết, kết hợp với sự tổng kết, khái
quát thực tiễn hoạt động của con người. Phương pháp luận của phép biện chứng

là những kết luận được rút ra từ việc khảo sát các mối liên hệ của các sự vật, từ
quá trình phát sinh, phát triển cụ thể của nó, “từ các mặt liên hệ, liên kết, vận
động, sinh ra và mất đi của các sự vật”. Vì vậy, phương pháp luận của phép biện
chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo các chủ thể trong


việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức, phương tiện tác động nhằm tạo ra
những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả.
Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng cụ
thể chúng ta sẽ đi phân tích ở những mục sau đây...
1.1.1. Nguyên tắc khách quan
Với nguyên tắc này, nhận thức về sự vật phải xuất phát từ chính bản thân
sự vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
Vì vậy, nhận thức cần đạt tới cái bản chất, cái quy luật chi phối sự vật. Đây là q
trình khó khăn và phải trải qua nhiều giai đoạn, bởi lẽ cái bản chất thể hiện qua vô
vàn các hiện tượng phong phú, đa dạng, phức tạp và luôn vận động, biến đổi.
Bằng thực tiễn, thông qua thực tiễn, kết quả của hoạt động thực tiễn cho phép
đánh giá tri thức ấy có khách quan, đúng đắn hay không. V.I.Lênin viết: “Quan
điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận
về nhận thức”.
Vì vậy, trong nhận thức cần tránh thái độ thụ động, chủ quan, bảo thủ, trì
trệ, thiếu tính sáng tạo, mà cần chủ động, tích cực, thơng qua hoạt động thực tiễn
của con người để nhận biết đúng các thuộc tính, các cấp độ bản chất, các hệ thống
quy luật chi phối sự vật.
Như vậy, nguyên tắc khách quan là điều kiện cần thiết cho mọi nhận thức
khoa học. Nếu nhận thức và phương pháp hoạt động của chủ thể không tôn trọng
quy luật khách quan, nếu hoạt động thực tiễn không tuân theo quy luật khách
quan, chúng ta sẽ phải gánh những kết quả khơng như mong muốn.
1.1.2. Ngun tắc tồn diện, phát triển và lịch sử




Nguyên tắc toàn diện
Theo V.I.Lênin đã viết rằng: “Muốn thực sự thấu hiểu được sự vật, cần phải

nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ
gián tiếp” của sự vật đó. Chúng ta khơng thể làm được điều đó một cách hồn


toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho
chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và sự cứng nhắc”. Những chỉ dẫn trên của
V.I.Lênin nhắc nhở con người trong nhận thức, muốn biết chân tướng của sự vật
cần phải xem xét sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố,
các thuộc tính khác nhau của nó; phải xem xét sự vật, hiện tượng này trong mối
liên hệ với sự vật hiện tượng khác kể cả khâu trung gian của nó, phải xem xét nó
trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn để từ đó thấy được vị trí, vai trị của các
mối liên hệ giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau. Qua đó, xác định được những quan hệ trọng tâm trọng điểm cần
được giải quyết trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nguyên tắc toàn
diện này cũng chỉ ra rằng, một luận điểm là đúng đắn trong những quan hệ này lại
trở thành sai lầm trong những quan hệ khác, một luận điểm, một hướng đi, một
cách làm là đúng đắn, hữu ích trong điều kiện này lại có thể là khơng phù hợp, có
hại trong điều kiện khác.



Về ngun tắc phát triển
Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng, liên hệ là quá trình tác động qua lại -

cái tạo thành “nguyên nhân cuối cùng của mọi sự vận động và biến đổi của sự

vật”. Cho nên, mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng là nguyên nhân
tạo nên sự vận động của chúng. Cũng chính do có mối liên hệ phổ biến mà trong
thế giới khách quan luôn tồn tại xu hướng phát triển không ngừng. Vật chất
không vận động đi tới tiêu vong mà tạo ra sự chuyển hóa (biến đổi) theo những
hướng khác nhau, trong đó có khuynh hướng vận động theo chiều hướng đi lên,
từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn (gọi là phát triển).
Các chủ thể cần nhận thức và chuẩn bị các điều kiện cần thiết, các phương pháp
hành động cho phù hợp để có được những biến đổi theo chiều hướng phát triển.
Đây là quá trình phức tạp, bởi lẽ, sự biến đổi theo chiều hướng phát triển của hiện


thực là q trình vận động có tính quy luật nội tại, diễn ra trong nó, là q trình
phủ định biện chứng, phủ định có kế thừa.



Về nguyên tắc lịch sử

Xem xét hiện tượng xã hội, V.I. Lênin chỉ dẫn rằng, cần phải “xem xét vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như
thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và
đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế
nào?”.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một lý luận khoa học cho phép phản ánh
đúng đắn các sự vật, hiện tượng, nó cịn là một cơng cụ sắc bén để mổ xẻ, phân
tích các vấn đề xã hội và tìm ra các giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát
triển lịch sử cụ thể. Chính nhờ cơng cụ sắc bén này, chủ nghĩa Mác đã tìm ra các
quy luật vận động của xã hội, đã nhìn xã hội như một cơ thể sống luôn vận động,
biến đổi do những mối liên hệ nội tại của nó tạo ra; thấy được vai trò quyết định
của điều kiện vật chất, của cơ sở kinh tế nhưng cũng thấy vai trò hết sức to lớn

của kiến trúc thượng tầng chính trị, của tư tưởng, văn hóa... Điều đó đã khắc phục
được tư tưởng duy tâm, siêu hình, lối nhìn nhận phản biện chứng trước đây. Khái
lược điều đó cho thấy các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy
vật là những nguyên tắc cơ bản để nhận thức về các mối quan hệ lớn ở nước ta
hiện nay.
2. Vận dụng nguyên tắc của phép biện chứng duy vật trong quản lý giáo dục
hiện nay
Nhà quản lý giáo dục vừa đóng vai trị là nhà quản lý, vừa đóng vai trị là
giáo viên giảng dạy ở trên lớp, vì vậy các vấn đề, tình huống cần xử lí sẽ rất
nhiều. Vì thế để giải quyết vấn đề và tình huống một cách hợp lí nhất thì việc có
cho mình một phương pháp phù hợp là rất quan trọng. Dựa trên những nội dung
về các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật đã trình bày ở trên, chúng ta đều


thấy rằng các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật là những nguyên tắc,
những phương pháp toàn diện, giúp nhà quản lí giáo dục đạt được kết quả tốt nhất
trong việc quản lý đội ngũ giáo viên và học sinh của mình. Cụ thể như sau:
2.1. Đối với việc quản lý giáo viên
2.1.1. Trong quá trình giao tiếp
Mỗi con người là một thực thể riêng biệt. Vì vậy giáo viên cũng như vậy.
Chính vì vậy người quản lý cần khéo léo trong việc đối nhân xử thế với mỗi giáo
viên, hiểu rõ đúng nội dung, hình thức, đánh giá đúng bản chất thông qua các hiện
tượng. Đi sâu vào tìm hiểu nội dung, bản chất để có cách xử lí riêng với từng cá
nhân khác nhau.
Ví dụ: đối với những cá nhân khơng có tính tự chủ cần định hướng cho họ. Đối
với những cá nhân có tính tự giác cao chỉ cần nhắc nhở và họ sẽ phát huy được tốt
nhất khả năng của mình khi được tự do sáng tạo trong cơng việc, đối với những
người tính tập thể chưa cao đơi lúc người quản lí phải sử dụng phương pháp” độc
tài” để thu phục được họ….
2.1.2. Quản lý, đánh giá nhân viên, giáo viên phải gắn họ với điều kiện, hoàn

cảnh và thời gian cụ thể (nguyên tắc lịch sử)
Người quản lý muốn đánh giá năng lực của nhân viên, giáo viên trong cơ
sở giáo dục cần phải gắn việc làm của họ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Mọi sự
tách rời những yếu tố đó đều làm ta rơi vào quan điểm duy tâm trong quản lý.
Người giáo viên khi tiến hành một công việc nào đó sẽ khơng thể tách rời với
cơng tác đã đảm nhiệm trước đó hay cơng việc của những đồng nghiệp cạnh họ.
Chính vì vậy, người quản lý phải đánh giá được giáo viên đã từng làm trong môi
trường ra sao, lí do tại sao họ lại có kết quả như vậy. Từ đó sẽ tìm ra được bản
chất của người giáo viên đó và giúp họ xử lí vấn đề họ đang gặp phải hay nâng
cao khả năng của mình
2.1.3. Đánh giá giáo viên, nhân viên dựa trên nguyên tắc khách quan, toàn diện


Người quản lí cần tìm hiểu tâm tư tình cảm của giáo viên để hiểu rõ và đưa
ra những điều chỉnh, quyết định của mình. Tránh để tình cảm và nhận xét, quan
điểm chủ quan của bản thân ảnh hưởng đến cơng tác, quản lí điều hành của mình.
Phải dựa trên công việc, dựa trên điều kiện khách quan, của từng cá nhân để đánh
giá một cách chính xác, tránh để giáo viên chia thành nhiều nhóm nhỏ, khó cho
cơng tác quản lý và thống nhất hoạt động của nhà trường.
Đối với việc đánh giá năng lực của giáo viên cần dựa trên việc tổng hợp
đánh giá công tác giảng dạy hàng ngày, điểm số của học sinh, khả năng tiến bộ
của học sinh cũng như mối quan hệ của họ đối với đồng nghiệp, với phụ huynh
học sinh và học sinh các lớp giảng dạy. Không được lấy cái nhìn chủ quan, chưa
hiểu rõ đã đánh giá, để rơi vào phiến diện, không hiểu rõ bản chất, năng lực của
một giáo viên dẫn đến việc giao việc không đúng năng lực, giáo viên không phát
huy được khả năng của mình.
2.1.3. Phát triển năng lực của giáo viên, nhân viên theo chiều hướng phát triển,
đi lên
Người quản lí cần nhận rõ được năng lực của nhân viên mình quản lí để từ
đó tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân viên, giáo viên của mình tích lũy, nâng

cao kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, phẩm chất lao động, nâng
đỡ, đề bạt những người có khả năng, giúp nhân viên của mình thăng tiến trong
cơng việc.
Người quản lí giáo dục cũng cần nhận ra được những mâu thuẫn trong nội
bộ của mình để từ đó đưa ra được phương pháp giải quyết vấn đề và gắn kết giáo
viên, nhân viên với nhau, với lãnh đạo, từng bước nâng cao chất lượng cơ sở giáo
dục, trường học mình quản lí.
2.2. Đối với việc dạy học và quản lý học sinh trung học cơ sở(THCS)
- Trong quá trình dạy học: mỗi học sinh có sự phát triển về trí tuệ và thể chất khác
nhau, đặc biệt đối với học sinh THCS các em đang ở lứa tuổi học làm người lớn,


giáo viên cần tôn trọng sự phát triển khác nhau giữa các học sinh để áp dụng các
phương pháp dạy học, xử lí các tình huống gặp phải với học sinh để giúp học sinh
ngày càng hoàn thiện nhân cách, nâng cao thể lực, trí tuệ, cảm xúc.
- Khi xem xét đánh giá học sinh: Cần xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực của
trẻ, khơng nên chỉ dựa vào điểm số tức thời, sự việc xảy ra đột xuất mà đưa ra kết
luận quy chụp. Chẳng hạn một học sinh có thành tích khơng được tốt trong bài
kiểm tra, hành động không tốt với bạn bè thầy cô nhưng trong quá trình học tập,
rèn luyện học sinh ấy không ngừng nổ lực, cải thiện bản thân, sự tiến bộ của học
sinh đó khơng nhiều nhưng xét lại đó là sự phát triển từng bước một, cần có thời
gian để hồn thiện.Vì thế giáo viên cần xem xét kĩ vấn đề rồi hãy đưa ra đánh
giá. Khi đánh giá học sinh, giáo viên cần phải nhìn nhận sự tiến bộ của các em so
với

chính

mình.



KẾT LUẬN
Năng lực tư duy biện chứng là sức mạnh không thể thiếu được của mỗi con
người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, là đòi hỏi bắt buộc ở mỗi người
trong quá trình tiến hành nhiệm vụ nhận thức và cải tạo thế giới khách quan, là
đòi hỏi của thực tiễn xã hội đối với cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện
nay. Để nâng cao năng lực quản lí của người quản lí giáo dục cần phải hiểu rõ
được các nguyên tắc của phương pháp biện chưng duy vật và thông qua rèn luyện
phương pháp biện chứng duy vật, nhà quản lý cần xác định trọng tâm, nắm vững
nội dung và phương pháp quản lí, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn,
thường xuyên nhìn nhận, đánh giá giáo viên, học sinh dưới nhiều hình thức, định
hướng vận dụng trong cơng tác giảng dạy và học tập.
Hiểu rõ và vận dung các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật sẽ góp
phần quan trọng giúp người quản lý trong việc việc xây dựng năng lực nhận thức
biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện chứng và giải quyết tốt các vấn đề
cuộc sống, tronng công việc và làm việc một cách khoa học từ đó nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên trong trường học mình quản lý.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), “Giáo Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), “Tồn tập, t.20”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII”, Nxb GP-CXBIPH.
[5] Hồ Chí Minh (1974), “Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ”, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh (1996), “Tồn tập, t.5”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] V.I.Lênin (1977), “Tồn tập, t.42”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

[8] V.I.Lênin (1981), “Toàn tập, t.29”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.



×