Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CHỦ đề KHÁNG CHIẾN TOÀN dân là QUY LUẬT GIÀNH THẮNG lợi của dân tộc TA bài học LỊCH sử CHO CÔNG CUỘC GIỮ nước HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG VÀ THỂ CHẤT

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN: QUỐC PHỊNG AN NINH
CHỦ ĐỀ: KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN LÀ QUY LUẬT
GIÀNH THẮNG LỢI CỦA DÂN TỘC TA. BÀI HỌC LỊCH
SỬ CHO CÔNG CUỘC GIỮ NƯỚC HIỆN NAY.
Giảng viên: Thượng tá Đỗ Hữu Dự
Tiểu đội 12
ST
T

HỌ VÀ TÊN

111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122

Trần Ngô Bảo Trâm
Châu Huyền Trân
Đinh Thị Huyền Trân


Nguyễn Huyền Trân
Nguyễn Thị Q Trân
Võ Ngơ Quỳnh Trân
Sơn Hoàng Trọng
Võ Văn Trường
Mai Quốc Việt
Nguyễn Tấn Vũ
Vũ Nguyên Hà Vy
Lê Ngọc Yến

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam). Đó là một cột mốc sáng chói trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản
Tun ngơn ấy đã thể hiện sâu sắc ý chí, nổi niềm khát vọng của nhân dân ta

0

0


về độc lập tự do. Đêm 19/12/1946, đáp lại lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, cả dân tộc Việt Nam, hàng triệu con người
một lòng hướng về đất nước, anh dũng đứng lên chống lại thực dân Pháp, mở đầu
cuộc kháng chiến toàn quốc. Đảng ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước,
giữ nước của cả dân tộc với tinh thần “Quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh”, sẵn sàng
“hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”. Những điều đó dần khơi
dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh to lớn của
cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân giành thắng lợi. Từ những kinh nghiệm lịch
sử trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của toàn dân ta cho chúng ta

thấy, tuy đất nước chúng ta đã hoàn toàn độc lập nhưng việc củng cố và bảo vệ
nền độc lập vẫn là một nhiệm vụ hàng đầu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng
của chủ tịch Hồ Chí Minh, dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tất yếu,
khách quan đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta xuyên suốt trong quá
trình phát triển đất nước. Thành quả đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó thì
những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ toàn quốc kháng chiến là nhân tố đặc
biệt quan trọng, hàm chứa giá trị đáng quý và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
V.I. Lê-nin – lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, đã cống hiến cho
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế nhiều luận điểm có giá trị thời đại sâu

sắc.
Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Nga, V.I. Lê-nin đánh giá cao vai trò
của quần chúng nhân dân. Người thống nhất quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp

0

0


của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử nhất quán với luận điểm “khởi
nghĩa vũ trang toàn dân”, “chiến tranh nhân dân” và sức mạnh của chiến tranh
nhân dân của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác. V.I. Lê-nin đã kế thừa, bổ sung,
phát triển nhiều nội dung quan trọng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ Quốc, chỉ
ra vai trò to lớn của nhân dân trong chiến tranh hiện đại, chiến tranh là do nhân
dân tiến hành. Luận điểm của V.I. Lê-nin không chỉ là cơ sở để xem xét, đánh giá
tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược, mà còn là cơ sở để
phát động toàn dân tham gia chiến tranh Bảo vệ Tổ Quốc Xã hội chủ nghĩa . Đồng
thời, Người cũng nhấn mạnh rằng: sự đồng tình, tích cực tham gia của quần chúng

nhân dân còn giúp cuộc chiến tranh Bảo vệ Tổ Quốc Xã hội chủ nghĩa phát triển
nhanh chóng và là nguồn gốc quyết định, khiến mọi cuộc tiến công của các thế
lực thù địch chống nhà nước đi đến thất bại. Sức mạnh to lớn của nhân dân là sức
mạnh tổng hợp được tạo bởi nhiều yếu tố, trước hết là tinh thần quyết chiến quyết
thắng, dám xả thân vì sự nghiệp cách mạng. Sức mạnh này là vơ địch, khơng một
kẻ thù nào có thể khuất phục được. V.I. Lê-nin khẳng định: “Không bao giờ người
ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân đã biết,
đã cảm nhận và trơng thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của mình, chính quyền Xơ
viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một
khi thắng lợi sẽ bảo đảm cho họ, cũng như con cái họ, có khả năng hưởng thụ mọi
thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người.

Nhất quán quan điểm đó, trong chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc, V.I. Lê-nin đã
chủ trương vũ trang toàn dân, huấn luyện qn sự một cách tồn diện, có hệ thống
cho tồn dân để họ nắm được kiến thức quân sự, kỹ thuật qn sự. Đồng thời, địi
hỏi mọi cơng dân phải có thái độ nghiêm chỉnh đối với cơng cuộc phịng thủ đất
nước: “… nghĩa vụ tuyệt đối của toàn thể quần chúng lao động là đem hết sức
mình ra để khơi phục và tăng cường khả năng quốc phịng của đất nước chúng ta”.
Từ thực tiễn Cách mạng Nga, V.I. Lê-nin còn chỉ ra vai trò của lực lượng vũ trang,
quân đội trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo V.I. Lê-nin, đặc trưng cơ bản nhất của chiến tranh bảo vệ Tổ
Quốc xã hội chủ nghĩa là chiến tranh nhân dân do tồn dân tiến hành, vì lợi ích
của nhân dân. Để chuẩn bị tốt nhất cho chiến tranh nhân dân, V.I. Lê-nin chỉ ra
rằng, phải xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hộivề mọi mặt nhằm tạo nền tảng

0

0



vật chất, tinh thần cho công cuộc bảo vệ Tổ Quốc. Đặc biệt, Đảng Cộng sản, Nhà
nước Xô viết và nhân dân phải sử dụng các biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế,
ngoại giao, chuẩn bị sẵn sàng về quân sự, xây dựng một quân đội kiểu mới chính
quy, hiện đại trên cơ sở vũ trang toàn dân, xây dựng liên minh vững chắc giữa giai
cấp công nhân và nông dân, kết hợp đúng đắn nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ
quốc tế. Đó là một nội dung cốt lõi trong học thuyết bảo vệ Tổ Quốc Xã hội chủ
nghĩa của V.I. Lê-nin, được chứng minh bằng chiến thắng của nước Nga Xô viết
trước những lực lượng phản cách mạng trong nước và sự can thiệp quân sự từ bên
ngồi, bảo vệ vững chắc chính quyền Xơ Viết, thành quả của Cách mạng Tháng
Mười Nga, của nhân dân Liên Xơ đối với chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế
giới thứ hai.
Kháng chiến toàn dân là cuộc kháng chiến phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, toàn dân cùng đứng lên kháng chiến, đánh giặc theo khẩu
hiệu: mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài. Trung thành và
vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lê-nin, trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, với
tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh của quần chúng, tiến hành thắng lợi
các cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ
nghĩa. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế đang
chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng tiến bộ trên thế giới hết sức
quyết liệt với những thủ đoạn mới rất tinh vi, thâm độc, trong đó, Việt Nam là một
trọng điểm. Vì thế, những luận điểm của V.I. Lê-nin về chiến tranh nhân dân bảo
vệ Tổ Quốc chủ nghĩa xã hội vẫn còn nguyên giá trị. Bởi, luận điểm đó cho chúng
ta những chỉ dẫn quý báu về: xác định mục tiêu, tính chất, lực lượng, phương thức
tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cơ sở khơi
dậy, quy tụ, phát huy vai trị của nhân dân.
Cuộc kháng chiến tồn dân bùng nổ sau khi Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành cơng, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời đã tác động, cỗ vũ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa; làm
cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế hết sức lo sợ, chúng tìm mọi

cách chống phá hịng thủ tiêu Nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á. Mỹ
công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam và Đông Dương.
Anh cũng ra sức ủng hộ Pháp tái chiếm Đông Dương. Ngày sau đó thực dân Pháp
dã tâm dùng vũ lực hòng đặt lại ách thống trị trên đất nước ta một lần nữa. Trước
vận mệnh đất nước đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” vì thù

0

0


trong, giặc ngồi, nạn đói, nạn dốt hồnh hành khắp nơi,nhân dân Việt Nam
khơng có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ lập, tự do .
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
phát động cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm 1946, sau khi những nỗ lực
đàm phán hịa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hịa với Pháp, vào giữa năm
1946, để công nhận một nước Việt Nam độc lập, không thành công. Lời kêu gọi
này được phát ra vào sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946. Đêm hôm trước - ngày 19
tháng 12, khi chiến sự bùng nổ - là ngày được gọi là "Toàn quốc kháng chiến".
Câu nói Quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh trong một bức thư của Hồ Chí Minh gửi
những người lính của Việt Minh ở Hà Nội những ngày đầu toàn quốc kháng chiến
đã được nhắc đến như một biểu tượng cho sự "hy sinh vì nền độc lập" của đất
nước Việt Nam. Hoàn cảnh Trước khi Chiến tranh Đơng Dương nổ ra, Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa được cho là đã tìm mọi cách "cứu vãn hịa bình", chí
ít cũng làm chậm lại chiến tranh để chuẩn bị đối phó, đồng thời khéo léo tìm được
thế bắt đầu chiến tranh tốt nhất có thể (hay là ít xấu nhất). Chiến tranh xảy ra vào
đêm 19/12/1946 bởi trận đánh Hà Nội 1946. Ngày này được gọi là Toàn quốc
kháng chiến. Ngày 3 tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc, Hà
Đơng, sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, vào ngày 19 tháng 12,
trên căn gác xép nhỏ, Bác đã viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, dùng để phát

động cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm, sau khi những nỗ lực đàm phán
hịa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hịa với Pháp, vào giữa năm 1946, để cơng
nhận một nước Việt Nam độc lập, không thành công. Văn bản này đã được
Trường Chinh chỉnh sửa một số chi tiết trước khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc.
Lời kêu gọi viết: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta
phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng
bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng
gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Phápcứu nước… Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu
cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng
kiên quyết hy sinh, thắng lợi

0

0


nhất định về dân tộc ta!...”. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được phát trên
sóng Đài tiếng nói Việt Nam trong 1 phút 30 giây
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến như một lời hịch cứu nước, như tiếng
gọi của non sông. Tất cả hãy đứng lên, quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh, để Tổ
Quốc ta trường tồn cùng muôn đời con cháu mai sau. Lời kêu gọi ấy đã thôi thúc
cả nước sục sôi đứng lên chiến đấu, vì độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ Quốc.
Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân cả nước ta với ý chí “quyết
tử để Tổ Quốc quyết sinh” đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Đường lối kháng chiến của Đảng ta xác định ngay từ

đầu là chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, phát
huy cao độ sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc.
Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất. Mặt khác,
cách mạng là sự nghiệp của tồn dân, có phát huy sức mạnh tồn dân thì chúng ta
mới có thể đánh địch toàn diện và lâu dài. Hơn nữa, lực lượng giữa ta và thực dân
Pháp lúc này quá chênh lệch. Nhân dân ta vừa giành được độc lập từ ta kẻ

thù, đang đứng trước mn vàn khó khăn thử thách, trong đó có ba thứ giặc phải
đối phó: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Cịn qn thù thì khơng ngừng tăng
cường lực lượng bao vây nhằm chống phá cách mạng. Vì vậy, muốn giành thắng
lợi chúng ta nhất thiết phải kháng chiến toàn dân, phát huy sức mạnh toàn

0

0


dân thì mới có khả năng đánh tan thực dân Pháp xâm lược. Xuất phát từ lợi ích
của mối người dân, vai trò bổn phận của một người dân đối với đất nước, cho nên
mọi người dân phải đứng lên chống pháp, chỉ có hợp sức lại đánh tan quân thù thì
tất cả sẽ được độc lập và tự do.Ta chủ trương kháng chiến toàn diện, lâu dài, nên
phải kháng chiến tồn dân để mọi người dân đều được đóng góp khả năng của
mình vào sự nghiệp chung của cả nước.
Lúc này, lực lượng của Pháp đối với quân ta hết sức chênh lệch, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, muốn đánh thắng những kẻ địch hung bạo, mạnh hơn ta
gấp bội về kinh tế, quân sự, khoa học và cơng nghệ, chúng ta phải tiến hành chiến
tranh tồn diện. Trong hồn cảnh đó, Đảng và nhân dân ta có những thuận lợi nhất
định để có thể chống lại sự tàn ác của thực dân Pháp.Trên trường quốc tế, nhiều
nước đã và đang hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa với phong trào giải phóng
dân tộc phát triển mạnh mẽ. Khơng những vậy, phong trào hịa bình, dân sinh, dân

chủ dâng cao trong các nước tư bản chủ nghĩa. Về tình hình trong nước, sau thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời dưới sự
lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như sức mạnh của khối đại
đồn kết dân tộc đã được phát huy lên tầm cao mới. Tinh thần yêu nước và ý thức
làm chủ của nhân dân Việt Nam là yếu tố cốt lõi quyết định sự thành bại trong
cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cuối tháng 12/1946, Đảng chủ trương phát
động Toàn quốc kháng chiến, khi đã tạo nên những thuận lợi cơ bản: Sau gần 16
tháng lực lượng cách mạng đã được chuẩn bị mọi mặt cả về vật chất và tinh thần,
Đảng đã trưởng thành một bước trong chỉ đạo chiến tranh cách mạng, đội ngũ
đảng viên được tăng cường, chính quyền cách mạng ngày càng được củng cố
vững mạnh, lực lượng vũ trang có bước phát triển mới, có thêm kinh nghiệm
chiến đấu từ Nam bộ kháng chiến. Đặc biệt là chúng ta đã xây dựng quyết tâm
chiến đấu và niềm tin tất thắng trong nhân dân. Đây là động lực to lớn để thúc đẩy
cách mạng phát triển, là nhân tố tiên quyết đảm bảo cho cuộc kháng chiến giành
thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Khơng qn đội nào,
khơng khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân
tộc”.
Mặc dù thế ta vẫn có nhiều khó khăn mà Đảng và nhà nước ta cần phải đối
mặc. Trên trường quốc tế, Mỹ và phương Tây bao vậy cô lập Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân mới hình thành
những liên minh đế quốc đi xâm lược, thống trị thuộc địa. Về tình hình

0

0


trong nước, chính quyền cách mạng cịn non trẻ của ta đã phải đối phó với mn
vàn khó khăn, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Bên trong, “giặc đói”,
“giặc dốt”, “giặc nội phản” hồnh hành, bên ngồi, “giặc ngoại xâm” liên tục tấn

cơng, hịng tiêu diệt chính quyền vừa thành lập. Nạn đói 1945 đe doạ làm hơn hai
triệu đồng bào chết đói, chính quyền thực dân coi người chết đói như một thứ rác
rưởi. Nạn đói Ất Dậu chưa kịp khắc phục thì 9 tỉnh đồng bằng Bắc bộ bị lũ lụt
không cày cấy được dẫn đến nạn đói mới lại xuất hiện. Trình độ văn hoá của nhân
dân rất thấp kém trên 90% số dân là mù chữ. Nạn ngoại xâm và nội phản nổi dậy
chống phá cách mạng một cách điên cuồng. Tại hội nghị Pốtxđam, các cường
quốc lớn nhất ở miền Bắc Việt Nam có 20 vạn quân Tưởng được vào miền Bắc,
miền Nam từ vĩ tuyến 16 vào Nam thì có hơn 1 vạn quân Anh vào dọn dường tạo
điều kiện cho Pháp quay lại nước ta. Ngày 23/9/1945 Pháp quay lại xâm lược lần
hai, lúc đó nước ta cịn 6 vạn lính Nhật đang chờ rải rác.Vì lẽ đó, nhân dân ta
khơng cịn những khổ đau nào mà chưa từng nếm trải qua cả, từ đó hình thành
một ý chí kiên cường, quyết tâm chống giặc, mong muốn được có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc.
Hà Nội là nơi thực dân Pháp có ý định đánh úp cơ quan đầu não và tiêu diệt
lực lượng vũ trang của ta. Nó đã trở thành chiến trường chính trong những ngày
đầu kháng chiến tồn quốc. Sau địn tiến cơng chủ động, đồng loạt và bất ngờ lúc
20 giờ ngày 19-12-1946, quân và dân Thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, anh
dũng, sáng tạo, quân và dân Hà Nội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn
cho cơ quan đầu não, tản cư, bảo đảm an toàn cho nhân dân. Phối hợp với Thủ đô
Hà Nội, quân và dân từ Bắc vĩ tuyến 16 trở vào cũng giành được thắng lợi quan
trọng. Quân và dân Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh
chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa
lực lượng chi viện cho Trung bộ và Bắc bộ. Đồng thời, cùng với những cuộc
chiến đấu trực tiếp với quân Pháp, chúng ta thực hiện cuộc tổng di chuyển các cơ
quan, kho tàng, máy móc vào khu an toàn. Đến tháng 3/1947, cơ quan của Đảng,
Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc, trở thành Thủ đô của
kháng chiến. Ở các địa phương cũng làm tốt việc di chuyển cơ quan vào các vùng
nông thôn hoặc những nơi rừng núi, nhân dân triệt để thi hành chính sách “vườn
khơng nhà trống”, tản cư ra vùng tự do.


0

0


Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hịa bình khơng cịn, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Trung ương Đảng chủ động mở đầu cuộc kháng chiến đúng thời điểm và kịp
thời chuyển cả nước vào thời chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Về
phía Pháp, với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, nên sau khi được tăng cường lực
lượng, chúng mở rộng vùng chiếm đóng, ráo riết thực hiện địn tấn cơng, quyết
định sớm kết thúc chiến tranh. Thu - Đông năm 1947, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh
Pháp ở Đông Dương huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc
nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não, tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng
chiến của ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và tinh thần
sáng tạo, quân, dân ta chiến đấu ngoan cường, giành thắng lợi vẻ vang trong chiến
dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh
nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng
chiến. Không thể sớm kết thúc chiến tranh theo ý định, các nhà cầm quân Pháp
buộc phải chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt
đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng thời tiến hành “Chiến
tranh tổng lực”, tăng cường đánh phá nhiều cơ sở của ta. Đến năm 1950, lực
lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ quyết định
mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ chốt của
địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ
địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa.
Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến tranh Đông Dương của thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp, ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến
này nhằm thực hiện âm mưu ngăn chặn phong trào cộng sản tràn xuống Đông
Nam Á và sẵn sàng thay Pháp để kéo dài chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội

toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951), xác định nhiệm vụ chủ yếu của
cách mạng Việt Nam lúc này là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn
can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất hồn tồn, bảo vệ hịa bình thế giới. Phát
huy thế tiến công chiến lược, quân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng
trên các chiến trường như Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,…

0

0


Chiến tranh nhân dân phát triển đã đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động.
Trong khi đó, thế và lực của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, lực lượng
vũ trang ba thứ quân được tăng cường, bộ đội chủ lực ngày càng mạnh, hậu
phương là chỗ dựa, góp phần quan trọng vào thắng lợi của tiền tuyến. Hịng xoay
chuyển tình thế, dựa vào viện trợ của Mỹ, Pháp lập kế hoạch Navaree nhằm lấy
lại quyền chủ động, tiến tới tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta để kết thúc chiến tranh.
Tuy nhiên, trước sự chỉ đạo chủ động, linh hoạt của Trung ương Đảng, Bộ Tổng
tư lệnh, sự chiến đấu kiên cường dũng cảm của quân và dân ta, kế hoạch trên bị
thất bại, buộc quân Pháp phải đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây
thành tập đoàn cứ điểm khổng lồ để tiêu diệt “chủ lực Việt Minh”. Sau 56 ngày
đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân ta đập tan căn cứ quân sự lớn nhất của
thực dân Pháp, tạo nên “cột mốc bằng vàng” trong lịch sử chống ngoại xâm, tạo
điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao đi đến ký kết Hiệp định Geneva,
chấm dứt chiến tranh ở Đơng Dương. Miền Bắc nước ta được hồn tồn giải
phóng. Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hộiở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền

Nam, tiến tới thống nhất Tổ Quốc.


Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược góp phần
quyết định làm phá sản kế hoạch Navaree và làm sụp đổ ý chí xâm lược của thực
dân Pháp dẫn tới thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp.

0

0


Thế nhưng Pháp chưa đi hết thì Mỹ lại đến, Sau chiến thắng Điện Biên
Phủ, Hiệp định Geneva được ký kết, cuộc chiến tranh kết thúc. Quân Pháp rút về
nước, miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng. Đế quốc Mỹ với ý đồ xâm
lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy
nguỵ quyền, nguỵ quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào chiến đấu
chống xâm lược mới.
Ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Mỹ - một cuộc
chiến tranh có mức độ tàn bạo, khốc liệt nhất trong lịch sử thế giới đương đại mà
Mỹ tiến hành chống lại dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ
trương ra sức phát huy những nhân tố thuận lợi, hạn chế những khó khăn, phức
tạp, biến yếu tố quốc tế, yếu tố thời đại thành sức mạnh hiện thực để tăng cường
thực lực cho cuộc kháng chiến. Trong chiến lược chung đó, Đảng và Nhà nước
Việt Nam xác định Liên Xô, Trung Quốc là chỗ dựa vững chắc cho công cuộc xây
dựng và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Do vậy, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đề ra một trong những nhiệm vụ quan trọng là tranh thủ tối
đa sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc trên mọi phương diện vật chất, tinh
thần, chính trị.... cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Và như vậy, những
bất đồng, căng thẳng trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc chắc chắn sẽ gây ra
những tác động bất lợi, gây nên sức ép lớn, cản trở Việt Nam thực hiện nhiệm vụ
nói trên, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Lúc này,

một đường lối đối ngoại phù hợp, tinh tế và khéo léo là hết sức cần thiết. Đường
lối đó phải thỏa mãn ba yêu cầu: Thứ nhất, tăng cường sự đoàn kết trong phe xã
hội chủ nghĩa trên tinh thần quốc tế vô sản, có lý, có tình, góp phần tích cực hàn
gắn những bất đồng, rạn nứt đang gia tăng trong quan hệ Xô - Trung, làm thất bại
mưu đồ lợi dụng của Mỹ. Thứ hai, đảm bảo được quan hệ cân bằng giữa Việt
Nam - Liên Xô và Việt Nam - Trung Quốc, tránh liên minh chặt chẽ với bên này
hay bên kia. Thứ ba, giữ vững được đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Đây vừa
là một đòi hỏi khách quan, vừa là một vấn đề hết sức phức tạp, bởi vào thời điểm
đó các quan hệ quốc tế chồng chéo, đan xen nhau trong một tổng thể quan hệ của
các siêu cường mạnh nhất thế giới không dễ gì phân định tách bạch. Để thắng Mỹ,
Việt Nam cần sự ủng hộ trên mọi phương diện của người anh cả Liên Xô - trụ cột
của phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời không thể thiếu sự giúp đỡ của nước láng
giềng lớn với sự hậu thuẫn của gần một tỷ nhân dân Trung Quốc anh em,

0

0


trong khi mối quan hệ tay ba này lại thường xun chịu sự chi phối bởi những
tính tốn lợi dụng của Mỹ. Trước những chuyển biến đó, Hồ Chí Minh, Đảng,
Nhà nước Việt Nam khơng xem nhẹ tính chất khó khăn và phức tạp của tình hình,
có những chủ trương, biện pháp, thể hiện sự phân tích sắc sảo, sự nhanh nhạy
trong hóa giải những nguy cơ, làm giảm thiểu tối đa tác hại của sự tranh chấp giữa
Liên Xô - Trung Quốc và tiềm năng lợi dụng của Mỹ. Định hướng “củng cố
khơng ngừng tình đồn kết, hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội
chủ nghĩa khác. Với sự lãnh đạo, chiến lược cùng với tinh thần toàn dân kháng
chiến giành độc lập dân tộc, ta lại một lần nữa chiến thắng một cách vang dội.
Thắng lợi lịch sử này đã chấm dứt chiến tranh xâm lược, lập lại hịa bình, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khôi phục độc lập, chủ quyền và toàn vẹn

lãnh thổ.
Cuối cùng sau khi đã trãi qua nhiều cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, chống đế quốc Mĩ thì dân tộc ta đã hồn tồn giành thắng lợi trong công
cuộc bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ nhân dân. Nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị, quân sự và đường lối
kháng chiến đúng đắn sáng tạo. Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết dũng cảm trong
chiến đấu và lao động sản xuất đã tiếp thêm sức mạnh cho cuộc kháng chiến.
Chúng ta cịn có một chính quyền dân chủ nhân dân, Mặt trận dân tộc thống nhất,
lực lượng vũ trang 3 thứ quân cùng với hậu phương vững chắc, rộng mở phía sau.
Cũng như khơng thể không kể đến sự liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước
Đơng Dương, sự đồng tình ủng hộ giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
dân chủ nhân dân hóa đã một phần giúp dân tộc ta giành thắng lợi. Ý nghĩa của sự
chiến thắng này đối với dân tộc ta đó là chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và
ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta cũng như
mở ra một bước ngoặt mới cho Cách mạng Việt Nam buộc Mỹ phải công nhận
các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, rút hết quân về nước,tạo thời cơ thuận
lợi để nhân dân tiến lên giải phóng hồn tồn miền Nam. Đây cũng là thắng lợi
của sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị ,quân sự, ngoại giao. Tạo cơ hội cho nước
ta chuyển sang giai đoạn Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn đối với thế giới sự
thắng lợi này đã giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của
chủ nghĩa đế quốc. Góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa, cổ vũ phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh.

0

0


Đã 75 năm trơi qua kể từ ngày tồn quốc kháng chiến 19/12/1946, đất
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: chính trị - xã hội ổn định,

kinh tế tăng trưởng, quốc phòng - an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại
không ngừng được mở rộng; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được khẳng định, nâng cao. Thành quả đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố,
trong đó, những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ cuộc kháng chiến toàn dân
là nhân tố đặc biệt quan trọng, hàm chứa giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc quý
báu đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận chiến tranh
nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay. Trải qua cuộc kháng chiến toàn dân đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu cho chúng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc hơm nay và
mai sau. Trong đó, phải kể đến những bài học kinh nghiệm từ lịch sử nhưng vẫn
còn giá trị sâu sắc cho đến này nay.
Đầu tiên, trong bất kỳ cuộc cách mạng nào thì vấn đề xác định chủ trương,
đường lối đúng đắn cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu quyết định đến thắng lợi
của cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, do sớm
hoạch định đường lối kháng chiến và kiến quốc đúng đắn, sáng tạo. Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hồ đã khơi dậy và
phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc. Bài học trong những ngày mở đầu toàn
quốc kháng chiến là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, còn nguyên giá trị vận dụng
trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân giai đoạn hiện nay. Bởi chỉ có như vậy
chúng ta mới tạo ra tiềm lực mọi mặt, qua đó tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ
vững chắc Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
chống lại kẻ thù xâm lược. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta
có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Truyền thống đồn kết, u
nước đó tiếp tục được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy thơng qua “Lời
kêu gọi Tồn quốc kháng chiến” và Chỉ thị “Tồn dân kháng chiến”; trong đó,
nhấn mạnh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia

tôn giáo, đảng phái, hễ là người Việt thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ
Quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì

0

0


dùng cuốc thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước” .
Nhờ vậy, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng được khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy cao độ được lịng u nước, chí căm thù giặc, tinh thần
chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết thắng
chống lại kẻ thù xâm lược. Bằng sức mạnh tổng hợp đó, chúng ta đã kìm được
chân địch ở lại các đô thị trong một thời gian khá dài, tạo điều kiện cho các các cơ
quan của Trung ương, Chính phủ và các tổ chức di chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc
tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.
Ba là, hiệp đồng trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, qua đó tạo
sức mạnh tổng hợp để đi đến thắng lợi cuối cùng, nghệ thuật biết thắng từng bước
để đi đến chiến thắng hoàn toàn trong bối cảnh chênh lệch tương quan lực lượng.
Đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước: "Lấy yếu chống
mạnh, lấy ít địch nhiều", "Lấy đoản binh thắng trường trận"… của dân tộc, trong
các cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trước đội quân đế
quốc đầu sỏ, có nền kinh tế, khoa học, cơng nghệ phát triển và tiềm lực quân sự
hùng mạnh, Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân ta thực hiện phương châm "đánh lâu
dài" và nghệ thuật "thắng từng bước", từ đó để ta có điều kiện xây dựng, từng
bước phát triển lực lượng, đồng thời khoét sâu được mâu thuẫn nội bộ địch, đẩy
chúng vào thế bị động, lúng túng về chiến lược, chiến dịch và cách đánh. Theo
thời gian, ta sẽ buộc Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta, triệt để khai thác điểm
yếu cốt tử của quân Mỹ là sợ đánh lâu dài, từ đó làm suy yếu tinh thần của lính

Mỹ. Từ những lợi thế nhỏ, từng phần tạo nên thực lực mới, vị thế mới vì mục tiêu
cao nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Bài học cuối cùng không thể phủ nhận giá trị mà nó mang lại đó là đấu
tranh ngoại giao. Nó là một trong những nội dung quan trọng, xuyên suốt chiều
dài lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, góp phần giữ yên bờ cõi, bảo vệ
nền độc lập, khẳng định chủ quyền quốc gia. Đây là những bài học quý vẫn còn
nguyên giá trị, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
Quốc.kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận, tranh thủ
sự ủng hộ của nhân dân thế giới, các lực lượng yêu chuộng hịa bình và cơng lý
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

0

0


Có thể khẳng định rằng, Tồn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử dân tộc
như một mốc son chói lọi về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của nhân dân
Việt Nam trong thế kỷ XX. Thời gian đã lùi xa, nhưng những bài học kinh nghiệm
được đúc kết từ toàn quốc kháng chiến, đặc biệt là những kinh nghiệm về việc xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ Quốc đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị.
Hơn lúc nào hết, cùng với việc phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp
sức mạnh nội lực và ngoại lực, thì việc vận dụng sáng tạo những bài học kinh
nghiệm được đúc kết từ toàn quốc kháng chiến để xây dựng nền quốc phịng tồn
dân là hết sức cần thiết, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc trong
thời kỳ mới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã khẳng
định: một dân tộc dù nhỏ, song nếu biết đoàn kết, phát huy sức mạnh tồn dân tộc
thì có thể đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Giống như việc ta có thể bẻ gãy một
chiếc đũa nhưng một bó đũa thì khơng. Đây là quy luật cơ bản nhất, bao trùm nhất

để giành thắng lợi trong kháng chiến của dân tộc ta.
Các vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng bao gồm: Phát động
và tổ chức toàn dân kháng chiến, kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt trận:
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, kháng chiến lâu dài, dựa vào sức
mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Trong đó việc phát động
tồn dân đánh giặc, biến “Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một
pháo đài” là nội dung quan trọng nhất của Đường lối kháng chiến.
Do sớm hoạch định đường lối kháng chiến và kiến quốc đúng đắn, sáng
tạo, Đảng ta và nhà nước đã khơi dậy lòng yêu nước, phát huy được sức mạnh
toàn dân tộc của đồng bào cả nước. Đường lối ấy khơng ngừng được bổ sung,
phát triển, hồn chỉnh trong q trình kháng chiến. Nó là ngọn đèn pha soi sáng,
dẫn dắt nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm, chiến đấu và chiến thắng
kẻ thù.
Ngày nay, để phát huy sức mạnh toàn dân tộc chúng ta cần xây dựng và
phát huy mọi tiềm lực của đất nước. Đó là các tiềm lực: chính trị – tinh thần, quân
sự, kinh tế, văn hóa, khoa học – cơng nghệ,... Sức mạnh của nền quốc phịng tồn
dân là sức mạnh tổng hợp của đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh đó tập trung trước
hết ở tiềm lực quân sự, mà sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang có ý nghĩa
quan trọng, quyết định. Ngày nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc,

0

0


nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi
chúng ta phải xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại”, có trình độ và khả năng chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu cao trong thực
hiện bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội và nhiệm vụ quốc
phòng. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thiết thực, khi mà nhiệm vụ bảo vệ độc

lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, nền văn hoá và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ
nghĩa không thể tách rời nhau

Các dân tộc Việt Nam luôn phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc

Cùng với đó, cần coi trọng xây dựng tiềm lực văn hoá, khoa học - cơng
nghệ,… Trong đó, tập trung xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm cho văn hố thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc. Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ là khả năng tiềm tàng
về khoa học và cơng nghệ, có thể huy động nhằm giải quyết những nhiệm vụ
trước mắt và lâu dài của xã hội và xử lý các tình huống quốc phòng bảo vệ Tổ
Quốc. Xây dựng tiềm lực khoa học và cơng nghệ của nền quốc phịng tồn dân
gắn bó chặt chẽ với sự phát triển khoa học và công nghệ của đất nước. Nhà nước

0

0


Việt Nam coi đầu tư phát triển khoa học - công nghệ là nền tảng và động lực phát
triển kinh tế - xã hội.
Có thể khẳng định rằng, tồn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử dân tộc
như một mốc son chói lọi về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của nhân dân
Việt Nam trong thế kỷ XX. Thời gian đã qua, nhưng những bài học kinh nghiệm
được đúc kết từ toàn quốc kháng chiến, đặc biệt là những kinh nghiệm về việc xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ Quốc đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị.
Để biến khát vọng của dân tộc ta thành hiện thực thì điều quan trọng nhất là tồn
Đảng, tồn qn, tồn dân ta phải đồn kết một lịng, đồng tâm nhất trí cùng nhau
đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển, quốc gia phồn thịnh, nhân dân hạnh

phúc.
Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là trách nhiệm của
toàn Đảng toàn dân và cũng là của toàn thể thanh niên Việt Nam, đây là một sự
chung tay, chung tay để cùng nhau góp phần vào sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ
quốc.

Ảnh minh họa – Nguồn: Báo Khánh Hòa

Đối với mỗi cá nhân nói riêng và cơng dân nói chung, tinh thần tự giác ln
là một yếu tố có tầm quan trọng để hoàn thiện ý thức, ý thức của mỗi người luôn
là tiền đề để phát triển một việc to lớn. Chúng ta là mỗi học sinh, sinh viên

0

0


đã được học tập trong môi trường giáo dục, nên chúng ta phải nhận thức được sự
nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là trách nhiệm của tất cả mọi cơng dân Việt Nam
trong đó lực lượng cơng an nhân dân làm nòng cốt. Tinh thần tự giác, chấp hành
các quy định ở nhà trường, địa phương về giữ gìn trật tự như: bảo vệ sự lãnh đạo
của Đảng, bảo vệ việc thực hiện các chính sách của nhà nước, bảo vệ chính
quyền, bảo vệ sự vững mạnh của các tổ chức đoàn thể xã hội, chống kẻ địch phá
hoại về chính trị tư tưởng, về kinh tế văn hố xã hội, xây dựng khối thống nhất
tồn dân…ln là mục tiêu để học sinh, sinh viên hồn thành vai trị của mình.
Học sinh, sinh viên phải hiểu rõ những ưu, nhược điểm của chính mình để
có thể phát huy cũng như khắc phục hạn chế của bản thân, đóng góp tích cực cho
cơng tác bảo vệ an ninh trật tự của địa phương và trường lớp. Ngoài ra, phải tự rèn
luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, biết tôn trọng người khác, tơn trọng các
cơ quan chính quyền. Mỗi cá nhân phải tự giác học hành một cách chăm chỉ,

khơng những học tập tại trường mà cịn luyện tập cách học tại nhà có hiệu quả.
Nhận thức được những điều hay lẽ phải, những việc không nên và không được
làm đối với một sinh viên gương mẫu, hơn nữa phải nắm vững được những nội
quy, quy tắc và chấp hành nghiêm chỉnh tại nhà tường.
Tham gia vào các hoạt động ngoại khóa do trường, địa phương hay đồn
thanh niên tổ chức là một lợi thế giúp chúng ta có thể học hỏi, trau dồi nhiều kiến
thức hơn. Tuyệt đối khi là một học sinh, sinh viên có mục đích giữ gìn trật tự,
đường lối của Đảng thì khơng xem, đọc, lưu truyền và chia sẽ những thông tin đồi
trụy, độc hại và khơng nghe, khơng bình luận các bài viết, luận điểm xuyên tác,
nói xấu nhà nước xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch. Học sinh, sinh viên
không được tự ý thành lập, tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị và các
tổ chức có tính chất chính trị trái pháp luật Việt Nam. Mỗi cá nhân phải thực hiện
đúng nội quy nhà trường, tích cực gương mẫu và chấp hành pháp luật của nhà
nước đề ra, ln học hỏi, tìm tịi, tiếp thu để có thể nhận thức được việc làm đúng,
sai. Bản thân là học sinh, sinh viên nên tìm cho mình hướng đi đúng, học những
biện pháp ngăn chặn các hành vi mang tính tiêu cực, những tệ nạn xã hội như cờ
bạc, ma túy,..., các hành vi xâm hại đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Đối với những sinh viên ở ký túc xá, quan trọng nhất đó là phải chấp hành
tốt những nội quy và cam kết đầy đủ trong hợp đồng đối với ban quản lý ký túc xá
của trường. Thứ hai đó là phải biết giữ gìn, bảo vệ tài sản chung, khơng sửa dụng
bừa bãi, cố tình làm hư hỏng, mất mát trang thiết bị trong trí túc xá. Thứ 3 là
khơng được tàn trữ những vũ khí, chất độc,chất gây cháy nổ và tuyệt đối không
được mang hàng cấm vào ký túc xá.

0

0


Đối với những học sinh, sinh viên tạm trú trong các khu vực dân cư, phải

thực hiện đầy đủ những khai báo, giấy tờ tạm trú tại khu dân cư theo đúng quy
định của pháp luật. Học sinh, sinh viên phải chấp hành đúng quy định tại nơi sinh
sống, giữ gìn vệ sinh mơi trường, mỹ quan và trật tự đơ thị. Ngồi ra học sinh,
sinh viên cần phải tham gia các phong trào giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn ví
dụ như phịng chống các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động,
lôi kéo học sinh, sinh viên vào các hoạt động chống đối Nhà nước. Mỗi cá nhân
phải luôn luôn trên tinh thần cảnh giác, phòng ngừa, để tránh gây ra mất mát về về
sản và để bảo vệ chính bản thân mình.
Như đã nói,học sinh, sinh viên phải tích cực tham gia vào các hoạt động,
phong trào do trường và địa phương tổ chức để có thể tiếp thu nhiều kiến thức
khoa học, nâng cao kiến thức để phát triển bản thân, góp phần xây dựng và phát
triển đất nước. Với trách nhiệm là một học sinh, sinh viên gương mẫu, phải ln
phát huy được tính sáng tạo, năng động, ln học tập khơng ngừng để bảo vệ và
gìn giữ nước nhà. Những phong trào như “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư”; phong trào “Tồn dân phịng chống ma
t”,phong trào “ Tồn dân tham gia cảm hoá giáo dục người lầm lỗi”,... là một
trong những phong trào mà học sinh, sinh viên có thể tham gia để góp phần giữ
gìn, bảo vệ trật tự an ninh Tổ quốc. Để có thể tham gia vào các phong trào trên
học sinh, sinh viên phải được thơng qua Đồn thanh niên,các hoạt động khác của
nhà trường để lồng ghép các nội dung của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Tiểu phẩm của học sinh khối 11, trường THPT 19/5 (Kim Bơi) hoạt động ngoại
khóa tuyên truyền phòng, chống ma túy học sinh THPT năm 2016 –Nguồn: Báo
Hịa Bình
Đối với chúng ta, chỉ là một học sinh, sinh viên, đặc biệt đối với những bạn
nữ đương nhiên khơng có một thể lực và sức khỏe tốt để có thể chống đối kẻ

0

0



xấu. Vì vậy, việc có thể làm đó là ln đề cao ý thức cảnh giác, tích cực tham gia
những hoạt động phòng chống tội phạm tại địa phương. Khi phát hiện những hành
vi tiêu cực, vi phạm pháp luật của ai đó tại trường hay bất cứ nơi nào, phải nhanh
chống báo cáo với thầy cơ hoặc chính quyền địa phương để kịp thời ngăn chặn.
Khi phát hiện những hành vi tuyên truyền, phát tán các văn bản, video phản động
hay có tính chất đồi trụy phải cáo ngay vơi nhà trường hoặc công an để thu giữ
kịp thời. Ngồi ra, nếu như ta phát hiện những vụ xơ xác, đánh nhau, hay gây rối
trật tự cơng cộng thì phải báo ngay với thầy cô hoặc ban bảo vệ dân phố, cơ quan
cơng an gần nhất để có thể truy bắt đối tượng. Bản thân là một sinh viên, phải có
trách nhiệm với bản thân cũng như việc là của mình, ln giúp đỡ bạn bè, những
người xung quanh nếu có thể.
Có lẽ chúng ta ở đây khơng ai có thể phủ nhận sự ảnh hưởng to lớn của
dịch Covid-19, nó khơng những lấy mất sự nghiệp mà cịn cướp đi tính mạng của
nhân dân ta, trên tinh thần đồng lịng, tương thân tương ái. Bằng sức mạnh đồn
kết của nhân dân ,Việt Nam đã đẩy lùi phần nào sự ảnh hưởng của Covid-19,
Thành phố Hồ Chí Minh được bắt đầu trạng thái “bình thường mới” vào ngày
1/10/2021 vừa qua, bắt đầu sống chung và chiến đấu với dịch bệnh, số ca dương
tính tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có phần thun giảm.

Infographic
Thủ
Minh Chính
lời
tồn
tay
phủ
dịch
19,

chỉnh
hiện
là,
thậm
xi,
chặn
hở,

kêu

xử

0

0


mọi vi phạm. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã dành quan tâm cao nhất, chỉ đạo
liên tục, sát sao nhất với cơng tác này. Người đứng đầu Chính phủ kêu gọi toàn thể
đồng bào và chiến sĩ cả nước chung tay với Chính phủ, nỗ lực cao nhất, gác lại
việc chưa cần thiết, ngay lập tức thực hiê ’n các quy địnhcủa Chính phủ, của Ban
Chỉ đạo quốc gia, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng trong phịng chống
dịch vì sức khỏe của mỗi cá nhân, vì sức khỏe của cơ ’ng đồng, vì lợi ích quốc gia,
dân tô ’c .Để đạt mục tiêu trên, Thành phố đã xác định được 8 giải pháp trọng tâm
để tập trung thực hiện. Một trong những giải pháp quan trọng là thực hiện giãn
cách xã hội, tiếp tục thực hiện nghiêm, hiệu quả theo nguyên tắc “ai ở đâu thì ở
đó”, hạn chế tối đa số lượng người dân ra khỏi nơi cư trú và kiểm soát chặt chẽ các
đối tượng được phép ra khỏi nhà. Tại các khu phong tỏa đảm bảo “ngồi chặt,
trong chặt” gắn với cơng tác kiểm tra giám sát; thúc đẩy mạnh mẽ phong trào tự
quản bảo vệ “vùng xanh”. Cùng với đó là các giải pháp về xét nghiệm, công tác

điều trị. Riêng về tiêm vaccine, Thành phố tổ chức nhiều điểm tiêm, nhiều hình
thức tiêm như: tiêm lưu động, tiêm tại nhà, tiêm ban đêm, cấp vaccine và cho
doanh nghiệp thuê đơn vị y tế có năng lực để tiêm nhằm mở rộng tỷ lệ bao phủ
vaccine. Sử dụng cả giải pháp truyền thông và tuyên truyền vận động để người dân
hiểu và tự giác tiêm.

Ảnh minh họa: Báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
Mỗi chúng ta đều là những thành phần của nước Việt Nam, là những mầm non
tươi sáng góp phần gìn giữ - bảo vệ an ninh nước nhà. Vì vậy, ta phải biết nhận
thức được tầm quan trọng của mình, ln cố gắng và học tập chăm chỉ để hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Học sinh, sinh viên mai này đều sẽ trở thành những công dân,
nhưng công dân có tốt hay khơng? Có giúp ích cho đất nước hay không đều

0

0


là do bản thân chúng ta quyết định. Hãy tích cực nổ lực để trở thành những người
có ích, để tương lai có thể góp phần xây dựng một Việt Nam phồn thịnh.

Sắp tới kỷ niệm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 – 19/12/2021) là dịp
để ôn lại truyền thống yêu nước và lịch sử vẻ vang, ý chí độc lập tự do, tinh thần
quật cường của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Chủ
trương phát động toàn quốc kháng chiến là quyết định đúng đắn của Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở, nền
tảng hình thành đường lối quyết định thắng lợi quân sự to lớn của cách mạng Việt
Nam. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tính dân chủ trong xã hội ngày
càng được phát huy, văn hóa xã hội không ngừng phát triển. Việt Nam đã vượt
qua ngưỡng nước nghèo, chậm phát triển trở thành nước đang phát triển có thu

nhập trung bình. Cơng cuộc đổi mới đã đáp ứng được những địi hỏi bức thiết của
tình hình nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Có ý nghĩa như một
cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, một sự nghiệp thật sự sáng tạo của nhân dân
ta. Khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hộicủa nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Hiện nay đất nước ta đang
trong bối cảnh toàn Đảng, tồn dân, tồn qn chung sức, đồng lịng chống đại
dịch COVID-19, phải thực hiện tốt lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng : “Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn, đã đoàn kết càng đoàn kết hơn,
đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa, toàn dân tộc mn người như một,
đồng lịng cùng tồn Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành tìm mọi cách, quyết
ngăn chặn, đẩy lùi bằng được, không để dịch bệnh lan rộng, bùng phát trong cộng
đồng”.

0

0


0

0



×