Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

những chủ trương, biện pháp, hậu quả của chế độ quan liêu, bao cấp, vận dụng và phát huy công cuộc đổi mới hiện nay của đảng đưa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.62 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
1
Lời mở đầu
Sau khi đánh thắng giặc ngoại xâm, nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Cộng
hoà miền Nam Việt Nam thống nhất với tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện đường lối xây dựng Xã hội chủ nghĩa với mô hình của Liên Xô, đây là
mô hình xã hội chủ nghĩa có nhiều khuyết điểm mà hiện nay Đảng Cộng sản VN gọi là
mô hình "quan liêu, bao cấp". Với mô hình "quan liêu, bao cấp" nầy, các nước XHCN
đồng loạt bị khủng hoảng toàn diện, Liên Xô tiến hành công cuộc Cải tổ, Trung Quốc
tiến hành công cuộc Cải cách và mở cửa, Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới. Cho
đến nay, công cuộc Đổi mới của Việt Nam về cơ bản hoàn thành, đất nước ta đang từng
ngày phát triển.
Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hội VI (1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền
tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế. Đây là bước
đột phá cho công cuộc đổi mới các lĩnh vực tiếp theo. Bước ngoặt trong đổi mới tư duy
kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan lieu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Khi chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nguyên Tổng bí thư Nông Đức
Mạnh đã nói: "Tìm những người có tư duy Đổi mới đưa vào BCH Trung ương Đảng ".
Người có tư duy Đổi mới là người biết thế nào là chế độ "quan liêu, bao cấp"? Là người
biết chủ trương Đổi mới của Đảng. Hiện nay nước ta đang tiến hành công cuộc Đổi mới,
trước hết là đổi mới kinh tế, địa phương nào xoá được "quan liêu, bao cấp", địa phương
nào biết Đổi mới thì kinh tế địa phương đó phát triển. Đất nước hơn 20 năm Đổi mới, dấu
ấn "quan liêu, bao cấp" đang phai dần nhưng hiện nay có những địa phương vẫn còn quan
liêu, phải tìm "người có tư duy Đổi mới". Nội dung đề tài nghiên cứu những chủ trương,
biện pháp, hậu quả của chế độ "quan liêu, bao cấp", từ đó vận dụng và phát huy công
cuộc Đổi mới hiện nay của Đảng đưa Việt Nam "Sánh vai cùng với cường quốc năm
châu".

2


I) BỐI CẢNH TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC TRƯỚC KHI DIỄN RA ĐỔI
MỚI 1986
1.Tình hình trong nước:
Kinh tế miền Bắc chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ chế quản lý
vốn nặng về tập trung quan liêu bao cấp, lại bị chi phối thêm bởi quy luật chiến tranh
nên càng bị méo mó, phi kinh tế.
Đối với miền Nam, do chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố tư bản chủ nghĩa
(TBCN) đã xâm nhập mạnh vào các ngành công nghiệp, thương nghiệp, tài chính ngân
hàng và bước đầu trong nông nghiệp. Trong chừng mực nhất định, kinh tế ở các vùng
bị tạm chiếm đã phát triển theo hướng TBCN.
Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc, cơ chế quản lý kinh tế bộc lộ rõ hơn những bất
cập của nó. Quan hệ sản xuất có dấu hiệu của sự khủng hoảng. Chính vì sự kéo dài cơ
chế quản lý “quan liêu bao cấp” và duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn
thích hợp, các cơ quan quản lý chưa được nhạy bén trước những chuyển biến kinh tế dẫn
đến nhiều hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt là hai cuộc đổi tiền năm 1975 ở miền Nam và
1978 trên toàn quốc làm xáo trộn trầm trọng nền kinh tế trong nước dẫn đến lạm phát
tăng lên mức phi mã vào năm 1980.
Đời sống của cán bộ, công nhân viên nhà nước chủ yếu xoay quanh các sợi dây rang
buộc bao gồm: Lương bổng, tem, phiếu. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Hàng
cung cấp, phân phối "mua như cướp, bán như cho". Sản xuất hợp tác xã ngày càng bộc lộ
sự yếu kém của nó trong tình hình mới của đất nước. Hàng lậu tràn lan, tham nhũng quan
liêu trở thành tệ nạn phổ biến thời bấy giờ.
2.Tình Hình Thế Giới:
Cùng với Mĩ và Tây Âu, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế tài
chính của thế giới nhờ những tến bộ về mặt khoa học kỹ thuật. Xu thế chạy đua phát triển
kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hõan giữa các nước lớn, các nước ngày càng tiến gần lại
với nhau để đàm phán hơn là chạy đua vũ trang.
Trong khi đó tình hình kinh tế-xã hội ở các nước XHCN xuất hiện sự trì trệ và mất
ổn định. Các nước công nghiệp phát triển với tốc độ tăng trưởng chậm dần. Trong bối
3

cảnh kinh tế thế giới suy giảm tốc độ tăng trưởng, các quốc gia, khu vực trên thế giới đều
đi tìm con đường điều chỉnh và cải cách kinh tế.
Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế đã lan rộng khắp thế giới, phát triển kinh tế thị
trường trở thành trào lưu lịch sử, đồng thời là xu hướng của thế giới.
II) NGUYÊN NHÂN CẦN ĐỔI MỚI KINH TẾ NƯỚC TA SANG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.Những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng khó khăn của đất nước
Trước đổi mới 1986, trước bối cảnh thế giới co nhiều biến động bất lợi cho hệ thống
XHCN trên toàn thế giới nói chung, tình hình kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm
trọng về nhiều mặt. Có thể thấy rõ những điều đó khi ta xem xét kĩ lưỡng rằng, sản xuất
tuy có tăng nhưng tăng rất chậm.Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, tài nguyên của đất
nước chưa được khai thác tốt và còn bị sử dụng lãng phí.Lưu thông chưa thông suốt,
phân phối lại rối ren, giá cả tăng nhanh, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sản xuất và xã
hội. Mất cân đối lớn trong nhiều mặt như giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu…Quan hệ sản xuất XHCN chưa được củng cố.
Vai trò của nền kinh tế quốc doanh ngày càng suy yếu, các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh chưa được trú trọng. Những khó khăn trên có thể xuất phát từ những nguyên nhân
sau đây:
Thứ nhất, giống như các nước XHCN khác trên thế giới, nước ta áp dụng mô hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Mô hình này từng góp phần vào thắng lợi chống đế quốc
Mỹ xâm lược và xây dựng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, do duy trì quá lâu mô hình trên,
nó đã làm cho nền kinh tế thị trường của nước ta bị sơ cứng, kém năng động. Nhà nước
quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp
lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao.Tất cả phương
hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền
lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp
phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ
thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.Quản lý bằng mệnh lệnh hành chính lúc nào cũng
dễ hơn so với quản lý bằng quy luật thị trường bởi quản lý bằng quy luật thị trường đòi

hỏi phải nghiên cứu công phu quy luật, hiểu được những tác động qua lại rồi từ đó mới
đề ra chính sách thích ứng.Chính mô hình này đã làm triệt tiêu mất động lực của sản xuất
kinh doanh là lợi nhuận. Sự bao cấp tràn lan với tem phiếu đă làm cho một nền kinh tế đã
4
lạc hậu càng trở nên trì trệ. Trong cái xă hội mà người lao động hay không lao động đều
được hưởng những của cải vật chất như nhau đă đẩy cái xă hội đó tàn lụi, làm mất đi sức
chiến đấu và sáng tạo của con người. Quản lý bằng mệnh lệnh hành chính dễ tạo ra sự ỷ
lại của các nhà quản lý sau vào các nhà quản lý trước, vì việc quản lý nền kinh tế rập
khuôn từ đời này sang đời khác, theo chế độ bao cấp cũ kĩ và lạc hậu, không phù hợp với
tình hình phát triển của đất nước ta mỗi ngày một đi lên. Làm như vậy dẫn đến sự cạn
kiệt chất xám của các nhà quản lý nền kinh tế, không chịu tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm
xây dựng đất nước của các nước bạn, đặc biệt là Liên Bang Nga( Liên Xô cũ), vốn cũng
là một đất nước gặp vô vàn khó khăn sau khi giành độc lập, nhưng họ có chiến lược đổi
mới đất nước rất ngoạn mục, làm Liên Bang Nga ngày nay trở nên hùng mạnh trên toàn
thế giới.
Thứ hai, không xác định rõ và can thiệp không đúng vào quyền tự chủ về kinh tế, tài
chính, quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới, không gắn với nghĩa vụ, quyền lợi, trách
nhiệm và quyền hạn, lợi ích với kết quả cuối cùng. Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Lãnh đạo của cơ quan hành chính
cho rằng mọi quyết định của mình đều đúng đắn, ai ai cũng phải nghe theo, không cần
xem xét đến ý kiến của các thành viên khác trong cơ quan hành chính. Những thiệt hại
vật chất không đúng do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải
gánh chịu, các cơ quan hành chính dường như đứng ngoài cuộc về việc thất thoát này, dủ
quyết định chính là từ cơ quan của họ. Đề ra phương án, nhưng đến khi có trục trặc trong
công việc thì lại thoái thác trách nhiệm của mình.
Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức
năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói
buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất.

Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu.Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”.Phân phối
hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kì này
để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng
hiện vật.Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như
sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trong không được coi là hàng hóa
về mặt pháp lý, dù từ những hàng hóa trên, chúng ta mới có thể phát triển được nhiều thứ
tích cực khác về sau. Đó là một lỗ hỏng rất lớn trong việc xây dựng các mối quan hệ về
hàng hóa- tiền tệ ở nước ta.
5
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu. Chế độ bao cấp
được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua giá:Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp
như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không. Do đó, hạch toán kinh
tế chỉ là hình thức.
Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng
gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ
chế “xin cho”.
Thứ năm, các cấp các ngành thường ỷ vào Ngân sách Nhà Nước, mọi công việc
làm ăn thua lỗ đều đã có Ngân sách Nhà Nước “đỡ đần”. Vào Trung Ương, cấp dưới ỷ
vào cấp trên gây lãng phí, hạn chế tính năng động của cơ sở.
Thứ sáu, bộ máy quản lí cồng kềnh, chồng chéo, quan liêu. Đội ngũ quản lí về Nhà
Nước, pháp luật không sâu xát với cơ sở, kém năng động. Bộ phận kém phẩm chất đă
sinh ra nạn tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Tóm lại, những mặt hạn chế vừa nêu đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình của
nước ta.kinh tế không phát triển, bộ máy quản lý kém hiệu quả… đã tác động trực tiếp
đến đời sống người dân và gây nên những hệ lụy đáng lo ngại. yêu cầu đổi mới đặt ra như

một tất yếu khách quan nhằm giúp cải thiện những khó khăn được xem là nhu cầu cấp
bách; xác định vấn đề đổi mới kinh tế phải tiến hành đồng thời với cơ chế quản lý kinh tế.
2. Động lực chính của công cuộc đổi mới
Như đã biết, năm 1986, Việt Nam đã tiến hành một cuộc cải cách, đổi mới sâu rộng
trên nhiều lĩnh vực. Công cuộc đổi mới ấy được xem như một bước chuyển biến kì diệu,
một cuộc “hồi sinh” lần hai của đất nước Việt Nam, đưa nền kinh tế và xã hội Việt Nam
ra khỏi tình trạng trì trệ, để rồi sau đó phát triển không ngừng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần VI được biết đến như là một đại hội bước ngoặt, đánh
dấu sự kiện đổi mới mạnh mẽ này bao gồm cả mặt tư duy lẫn hành động của Đảng trong
thời kì mới. Đó là điều chẳng ai cần bàn cãi, bởi vì nó quá rõ ràng. Vấn đề được đặt ra ở
đây chính là: Theo quy luật vận động khách quan của tự nhiên, mỗi cuộc vận động phát
6
triển đều mang trong nó một động lực thúc đẩy từ trước. Vậy động lực của cuộc đổi mới
ấy nằm ở đâu, và nó xuất hiện từ khi nào?
Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta nên truy ngược trở lại từ lúc vấn đề bắt đầu
nhen nhóm. Có lẽ, mốc thời gian thích hợp nhất để chúng ta tiến hành khảo sát và tìm
hiểu là từ sau giải phóng 1975. Đây là thời điểm được xem là bản lề cho đất nước trong
thời kì mới, khi mà việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đồng nghĩa với việc, tất cả
những gì trước kia chia cắt, nay quy tụ về một mối. Một Quốc hội mới, một Hiến Pháp
mới, một nền kinh tế mới… Và dĩ nhiên, ngoài những thành công ban dầu đạt được,
những người Cộng sản cũng nhanh chóng nhận ra rằng, tất cả chỉ mới là khúc dạo đầu
của những khó khăn sắp tới.
Một điều dễ nhận thấy rằng, ngay từ những ngày đầu tiên thực hiện công cuộc
thống nhất đất nước, Đảng đã chủ trương áp dụng mô hình kinh tế của miền Bắc vào
miền Nam. Lúc này đây, hơn bao giờ hết, những nhà lãnh đạo của Đảng cũng như chính
phủ đang tràn hi vọng và tự tin khi bắt tay vào công cuộc đổi mới vì chính mô hình kinh
tế này đã mang lại thắng lợi to lớn cho đất nước. Tuy nhiên, khi được bê nguyên si vào áp
dụng ở miền Nam, cái mô hình đó lập tức chứng minh ngay sự thiếu hợp lý của nó đối
với tất cả những thành quả mà miền Nam đạt được ban đầu. Chỉ còn vài năm, bắt đầu là
“tiếp quản”, rồi sau đó là “cải tạo” tư sản ở thành phố, “hợp tác hóa” nông thôn. Nền sản

xuất hàng hóa bị chuyển biến thành những khu vực nhỏ lẻ, chiếm lĩnh bởi các “nghành”
hay “lãnh thổ”. Bất cứ cơ quan nào hay địa phương nào cũng có thể lập ra trạm gác để
kiểm soát lưu thong hàng hóa và đánh thuế. Nông thôn trở về nên kinh tế tự cung tự cấp,
thiếu trầm trọng máy móc, phân, giống…Thành thị thì từng bước bị nông thôn hóa khi
nhà nhà trồng rau, nuôi lợn trong nhà để cải thiện và hưởng ứng phong trào tăng gia sản
xuất.
Sự phản ứng của xã hội trước mô hình ấy tất yếu sẽ xảy ra. Và trong những
trường hợp khủng hoảng thì những mâu thuẫn nội tại sẽ tìm cách phá vỡ cái vỏ bọc bên
ngoài . Để tồn tại, Đảng nhất thiết cần phải khác quan nhìn nhận lại toàn bộ vấn để để tìm
cách giải quyết những mâu thuẫn đó.Trong bối cảnh đó, nghị quyết trung ương 6 (khóa
IV, tháng 9/1979) đã đáp ứng được mong muốn đó.
Nghị quyết này có phần nói hẳn về kinh tế mang tên Về phương hướng nhiệm vụ
phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương nhưng có một phần
khác toàn diện hơn gọi là Tình hình nhiệm vụ cấp bách , qua đó người ta thấy nổi bật lên
mấy quan điểm nhận thức:
7
Thứ nhất, việc đánh giá tình hình đã trở nên thực tế ; đà trượt của chiến tranh
cũng đã được tính đến (mất viện trợ Mỹ, chiến tranh biên giới) cùng với những hậu quả
gay gắt (nạn thất nghiệp, đời sống sút kém ). Tiềm năng của miền Nam do Mỹ để lại có
lúc được cán bộ “hồ hởi” đón nhận như là một thứ chiến lợi phẩm dùng đó làm bàn đạp
tiến nhanh thì nay đã được đánh giá lại sau một thời gian làm cho thất thoát, hư hỏng.
Thứ hai, việc đánh giá những sai lầm chủ quan của lãnh đạo cũng được đề cập
thẳng thắn hơn: từ bệnh duy ý chí, muốn đốt giai đoạn, bất chất quy luật đến sự suy thoái
của cán bộ và phương pháp quản lý thiếu hiệu lực đều được nêu ra. So với trước đây, đó
là một bước tiến lớn vì đã phần nào đỡ huênh hoang hơn, đỡ ngạo mạn hơn.
Chính từ những đánh giá trên đây mà những biện pháp đưa ra cũng tỏ ra thiết thực
hơn. Cùng với tư thế “sẵn sàng chiến đầu bảo vệ Tổ quốc” (chiến tranh với Trung Quốc
1979), việc chống các hiện tượng tiêu cực (ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng) cũng được
đặt biệt nhấn mạnh bên cạnh nội dung chính yếu.
Thứ ba, tháo gỡ một số hạn chế trong các chính sách, chế độ quản lý để các khu

vực quốc doanh, tập thể, lưu thông phân phối “bung ra” hoạt động. Nhưng việc “bung ra”
ấy, theo Nghị Quyết thì phải có kế hoạch, chứ không muốn làm gì thì làm. Thực chất đây
chỉ là những biện pháp gỡ bí, cho phép các cơ sở sản xuất tự xoay xở tìm nguyên liệu, vật
tư, thị trường, vốn liếng để chấm dứt tình trạng nhà máy bị đóng cửa, công nhân không
có việc làm, sản xuất bế tắc, đời sống thấp kém vốn là những hiện tượng phổ biến vào lúc
bấy giờ.
Thứ tư, cho phép những thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể hoạt động
gọi là để “tận dụng” mọi khả năng về lao động, kỹ thuật, vốn liếng, có lợi cho sản xuất.
Biện pháp này không mới nhưng nay nhắc lại cũng là để gỡ bí phần nào cho sự thất bại
quá rõ rệt của khu vực quốc doanh trong việc đáp ứng các nhu cầu thiết thực của xã
hội.Cần chú ý là về mặt lý luận, những biện pháp này chỉ được chấp nhận trong thời kỳ
quá độ, chứ không phải là vĩnh viễn.Vì thế ngay trong khi thừa nhận sự cần thiết của các
thành phần tư nhân thì cũng chỉ trong lĩnh vực sản xuất thôi, hơn nữa chỉ cho phép những
xí nghiệp loại nhỏ, vừa hoạt động chứ không phải là tất cả.Đặc biệt tư thương thì phải
xóa bỏ. Nói chung nếu để cho các thành phần tư nhân, cá thể (gọi là phi xã hội chủ nghĩa)
lấn áp, xói mòn những thành phần quốc doanh, tập thể (gọi là xã hội chủ nghĩa) là sai lầm
về quan điểm.
Như vậy, có thể khẳng định một điều, những nội dung được đề cập đến trong nghị
quyết hội nghị trung ương 6 (khóa IV, tháng 9/1979) là những tiền đề cơ bản, đóng vai
8
trò động lực để thúc đẩy những giải pháp đổi mới và được hoàn thiện dần qua thời gian
để đến đại hội đảng lần VI, chúng ta đã tìm kiếm được con đường đi đúng đắn.
III) NỘI DUNG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NĂM 1986:
1.Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến đại hội VIII.
So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế trong giai đoạn này đã có nhiều
thay đổi:
Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Trong Đại hội VI, Đảng đã có nhận định như sau:“Kinh tế thị trường không phải cái
riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Theo nhận

định này, thị trường, đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác
nhau.Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản.
Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn
trình độ thấp thì trong xã hội tư bản nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc
sống con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩ rằng đó là chủ nghĩa tư bản. Như
vậy, trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn
tồn tại là điều tất yếu.”
Thật vậy, kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong
xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Kinh tế hàng hóa và
kinh tế thị trường đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc
vào nhau. Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, còn có trình độ thấp,
chủ yếu là sản xuất hàng hóa với quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Còn
kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao.Kinh tế thị trường lấy khoa học, công
nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ không đối lập
với các chế độ xã hội.Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu, vừa có thể
liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng.Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại
khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
9
Tại đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) trong khi khẳng định tiếp tục chủ trương
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần
kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống
nhất, đã đưa ra quyết định quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa
xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng
xác định cơ chế vận hành ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới

toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Trước đổi mới do chưa thừa nhận trong thời kì quá độ nên CNXH ở nuớc ta còn tồn
tại sản xuất hàng hoá và cơ chế thị truờng nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng
quan trọng nhất của nền kinh tế XHCN, đã thực hiện phân bổ cho mọi nguồn lực theo kế
hoạch là chủ yếu còn thị trường chỉ đuọc coi là 1 công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch
do đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng CNXH.
Vào thời kì đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ kinh tế thị truờng, nếu biết vận dụng
đúng thì nó có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế. Có thể dùng cơ chế thị truờng
làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và
số luợng hàng hoá, điều hoà quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế
cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết
thừa kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển.Thực tiễn
đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế
thị trường làm phương tiện xây dựng xã hội chủ nghĩa.
2.Tư duy đổi mới của Đảng về kinh tế thị trường Đại hội IX đến Đại hội XI
Trong kế hoạch 5 năm (2001-2005) tại Đại hội IX (4-2001) của Đảng có nêu “tiếp
tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư, phát triền sản
xuất kinh doanh.”Đại hội IX đã khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời ký quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đại hội đã xác định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ
10
chức kinh tế vừa tuân theo quy luật kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn
dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất vủa chủ nghĩa xã hội. Đây là bước chuyển
quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường, chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến
nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế trong giai đoạn này cần tập trung sửa đổi, bổ sung cơ
chế, chính sách, pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để bảo đảm các thành phần
kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, thực sự
là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội X hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Quan điểm Đại hội X:
- Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được
vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm
phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Tiếp
tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí
tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước , quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ
sở hữu đối với xã hội.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Sớm hoàn thành việc rà
soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh phù hợp với điều kiện
Việt Nam, bảo vệ thị trường nội địa, đồng thời tuân thủ những quy định của các tổ chức
quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham gia.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu, tổng kết để xác định rõ và
đầy đủ hơn đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với thực tiễn nước ta, nhất là những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế thị trường. Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các
tổ chức đảng; tăng cường, sử dụng hợp lý các tổ chức, cán bộ nghiên cứu để tham mưu
cho Đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước phải thật sự nâng cao vai trò

lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm
chất, năng lực, trình độ công tác.
11
Qua tổng kết 25 năm đổi mới, Ðại hội XI đã tiếp tục xác định rõ thêm những vấn
đề cần quan tâm để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta thời gian tới là:
- Về mục đích, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường
phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh
và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Về mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, chủ thể kinh tế, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của
mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội; mọi thành phần kinh tế,
các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh
tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Về mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ, phải chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế, đồng thời giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
- Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội, phát triển kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng
trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận các cơ hội kinh doanh và phân phối kết quả
làm ra.
- Phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế của Nhà nước, chú trọng phát huy mặt
tích cực, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Tại Ðại hội XI, tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2010, đã xác định một trong những nguyên nhân chủ quan của hạn chế, yếu kém
là: Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Ðảng chậm đổi mới,
chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước. Trong tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm, đối với những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân chủ quan

được coi là trực tiếp và quyết định nhất, trong đó nguyên nhân được đề cập đến đầu tiên
là: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu
thống nhất.
Đại hội IX, X, XI khẳng định nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường nước ta thể hiện ở 4 tiêu chí:
12
- Mục đích phát triển: nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá
giả hơn. Nó khác với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích các nhà tư bản, bảo vệ
và phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Phương hướng phát triển: phát triền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân
và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh kinh tế. trong nền kinh tế
nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước
điều tiết kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
- Định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát
triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu
phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Văn kiện của Đại hội VIII không nói đến nguyên tắc “phân phối theo nguồn vốn
đóng góp vào sản xuất kinh doanh” mà chỉ ghi: “Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối
dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội”. Tại Đại hội IX cụm từ “phân phối theo nguồn vốn đóng
góp” được phục hồi trở lại, Văn kiện Đại hội IX viết: “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,

đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh
doanh và thông qua phúc lợi xã hội”. Đại hội X và Đại hội XI tiếp tục khẳng định phân
phối theo mức đóng góp vốn. Văn kiện Đại hội X viết: “thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Văn kiện Đại hội XI viết: “Quan hệ phân
phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ
theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cũng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội”. Văn kiện Đại hội XI bổ sung thêm phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội bên
cạnh phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Như vậy, Văn kiện Đại hội XI diễn đạt nguyên
tắc phân phối rõ hơn và đầy đủ hơn so với văn kiện trước đó của Đảng.
- Quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu
13
chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
của kinh tế thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi người. Đồng thời giữ vững
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp
luật. Đây là một đặc điểm rất quan trọng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nếu kinh tế nhà nước không giữ được vai trò chủ đạo, thì kinh tế thị trường có thể
phát triển chệch hướng. Ở đây, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo theo nghĩa là, kinh tế
nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định
và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong kinh tế nhà nước thì các doanh
nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. (Tuy nhiên, trong thời gian qua, phải thẳng thắn mà
nói, các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, chưa đảm nhiệm được chức năng
quan trọng của mình). Thực chất vấn đề “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” không
phải đến Đại hội XI mới đề cập tới, mà đã được đề cập tới từ trước đó mà gần đây, nhất
là Đại hội X: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để

nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các
thành phần kinh tế cùng phát triển; Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.
Tóm lại, ta có thể khẳng định những thay đổi trong tư duy của Đảng về nền kinh
tế thị trường như sau:
Thứ nhất, thay vì quan điểm chủ nghĩa xã hội là một chế độ sỡ hữu duy nhất kéo
theo chuyện công hữu về tư liệu sản xuất thì sự đổi mới tư duy đưa ra một quan điểm mới
là nền kinh tế có ba chế độ sở hữu đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân. Đó là nền tảng cho sự hình thành nhiều hình thái sở hữu và nhiều thành phần kinh
tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, nếu trước đây Nhà Nước quản lý kinh tế bằng phương pháp chỉ huy bằng
một kế hoạch từ trên xuống thì giờ đây Nhà nước ta đã phân biệt rõ chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý kinh doanh.Trong đó, chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế và chủ sỡ hữu tài sản công là thuộc về nhà nước.Còn chức năng quản lý
kinh doanh là thuộc về riêng doanh nghiệp.
Thứ ba, nếu trước đây Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp lệnh và có một kế
hoạch duy nhất áp dụng máy móc từ trên xuống, phủ nhận vai trò của thị trường. Thì nay,
14
Nhà nước đã thừa nhận thị trường và cho mọi người lựa chọn mô hình và phương án kinh
doanh phù hợp với mình.
Thứ tư, Nhà nước đã thay đổi cách nhìn nhận về phân phối lao động. Trước đây,
Nhà Nước chỉ thừa nhận hình thức phân phối theo lao động thì giờ đây đã có nhiều hình
thức phân phối hơn. Đó là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Đã không
còn quan niệm công bằng xã hội là bình quân kinh tế mà đó là sự phân phối hợp lý về tư
liệu sản xuất và kết quả sản xuất.
Nhìn nhận qua góc độ thời gian, sự đổi mới tư duy của Đảng về nền kinh tế
thị trường thể hiện qua các bước sau:
Bước 1: Thừa nhận nền kinh tế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta

là kinh tế thị trường.
Quan điểm này được thừa nhận trong Đại hội VII khi thừa nhận nền kinh tế của nước
ta như sau: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước 2: Thừa nhận kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa
tư bản mà là thành tựu của văn minh nhân loại.
Bước 3: Chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh
tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ.
Quan điểm này được thể hiện rõ trong đại hội lần thứ IX của Đảng như sau: Đảng và
Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
thành phần kinh tế là những bộ phận cần thiết cấu thành nền kinh tế thị trường của nước
ta.
Bước 4: Hội nhập nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu
Năm 2007, khi Việt Nam gia nhập WTO đã tạo cho nền kinh tế nước ta những cơ hội
và thách thức nhất định.Cho nên vấn đề hội nhập với kinh tế thế giới trở thành một vấn
đề tối quan trọng cần đặt ra giải quyết. Trong đại hội lần X của Đảng với chủ đề “Tích
cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Nhà nước ta đã đưa ra chủ trương cho nền
kinh tế lúc này là đẩy mạnh giao thương và học hỏi với các nước trong khu vực và thế
giới để đem những kiến thức, thành tựu mới của nhân loại về làm giàu cho đất nước.
15
IV) NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG - NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.Nền kinh tế thị trường:
a.Khái niệm:
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế.Khi các quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường (người bán
cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó gọi là
nền kinh tế thị trường.
b.Ưu điểm

Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách để cải
tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất bại để phát
triển không ngừng, tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh doanh
năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả. Bên cạnh đó, kinh tế
thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng. Nó là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa.Dịch vụ được mở rộng và coi như
là hàng hoá.Thị trường năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ.
c.Nhược điểm
Dù có rất nhiều ưu điểm, nhưng Kinh tế thị trường vẫn tồn tại những mặt hạn chế như
khi quá chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những
nhu cầu cơ bản của xã hội. Nó đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, không có
lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá, các
công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.). Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt
giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà còn
cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nước.
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được
ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển
kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những
công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có
16
thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối với sản xuât
thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.Đó chính là tiền đề hình thành
nên hình thái Kinh tế thị trường có định hướng XHCN.
2.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Theo nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, thì hệ thống kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng chủ yếu sau
Thứ nhất, nó là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị

trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân
hàng, quốc phòng ) được nhà nước quản lý.Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều
hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý.Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy
luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, nó là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Thứ ba, nó là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế thành công.
Thứ tư, việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi
xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu quả,
vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh
tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng
chính sách phát triển.
Thứ năm, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân
được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
3.Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn
phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị
17
trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy
luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song,
trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai
đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền
kinh tế hàng hóa cụ thể. Điều này phù hợp với nhận định của C.Mác: "sản xuất hàng hóa
và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức
khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau chúng ta

hoàn toàn chưa biết một tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất
ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có
những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các
phương thức ấy"
(3)
. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình
thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành
và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh
tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả
trong chủ nghĩa xã hộicũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Do vậy, trong chủ nghĩa
tư bản và trong CNXH đều tồn tại kinh tế thị trường, nhưng có những đặc trưng khác
nhau. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là nền
kinh tế thị trường phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế
thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ
bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không phải
là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng
xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay; là sự tiếp thu
có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị
trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - công
nghệ, nâng cao đời sống nhân dân Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường gây ra.
Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nước ta không
phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; cũng không phải là
kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị
trường XHCN. Bởi vì Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa có, vừa chưa
có đầy đủ các yếu tố của CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.
Cần hiểu rõ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa mang tính chất chung của nền
kinh tế thị trường, vừa có tính chất đặc thù vì nó hoạt động trong khuôn khổ của những

nguyên tắc và bản chất của CNXH.
18
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thực chất là xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (năm 1986)
và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô
hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con
đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một
quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật
khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đột phá lý
luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 20 năm thực
hiện Cương lĩnh năm 1991, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của thế giới.
Như chúng ta đã biết, sau một thời gian tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ
Đại hội VI, Đảng ta đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước”. Đại hội VIII (tháng 6/1996) đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng về kinh tế hàng
hóa và CNXH: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển
của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH
và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Nhưng vào thời điểm đó, chúng ta mới chỉ nói:
“Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường là để sử
dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng CNXH chứ không đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường có những mặt mâu thuẫn với bản chất của
CNXH … Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa
những khuynh hướng tiêu cực đó”. Phải đến Đại hội IX (tháng 4/2001) khái niệm “kinh
tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được nêu trong văn kiện của Đảng, xem

đó là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam.
Trong Cương lĩnh 2011, một nội dung rất mới mà Đảng yêu cầu phải đặc biệt chú
trọng nắm vững và giải quyết là các mối quan hệ lớn, mang tính chất biện chứng của đời
sống xã hội, cấu thành nên nội dung của công cuộc đổi mới. Đó là: Quan hệ giữa đổi mới,
ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
19
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ
(4)
. Khắc phục lối tư duy phiến diện, cực đoan, duy chí.
Để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện có hiệu quả các mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, tiếp tục nghiên cứu làm rõ những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội cũng như
những phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn, lý giải những vấn đề mới nảy
sinh trong quá trình đổi mới, khắc phục những mặt lạc hậu, yếu kém của công tác lý luận,
phục vụ tốt cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ta trong bối cảnh phức
tạp, đầy biến động của tình hình thế giới với nhiều thời cơ và thách thức to lớn. /.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử.Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện.Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi
lên với những triển vọng tốt đẹp.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng.Sức cạnh tranh của
nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: Đất nước
đang gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường. Xây dựng XHCN là một
quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới.Trong quá trình đó, phải từng bước xác

lập, tạo ra những điều kiện, những tiền đề của CNXH, đồng thời tránh nguy cơ chệch
hướng.
Như vậy qua thực tiễn khách quan, với những thành tựu to lớn đạt được của công
cuộc đổi mới của đất nước chúng ta hiện nay tôi cho rằng ý kiến Việt Nam đồng thời
không thể thực hiện cả hai, mà chỉ kinh tế thị trường hoặc quá độ lên CNXH là không
đúng, chưa chính xác. Cần phải nghiên cứu và tìm hiểu thêm nội dung quá độ lên CNXH
và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
V) Ý NGHĨA CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 1986.
• Thành tựu trong những năm đầu của công cuộc đổi mới (1986 - 1991)
20
Trong những năm đầu thực hiện, đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng đi vào
cuộc sống. Tình hình kinh tế xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng từ năm 1989 thì ngày
càng có những chuyển biến rõ rệt và đạt được những thành tựu bước đầu.
Về lương thực - thực phẩm, từ chỗ thiếu lương thực (năm 1988 phải nhập hơn 45
vạn tấn gạo), đến năm 1990 chúng ta không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, mà còn dự
trữ và xuất khẩu sản lượng thóc thu được năm 1988 là 19,50 triệu tấn, năm 1989 tăng lên
21,40 triệu tấn.
Về hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi; trong đó
ngân hàng sản xuất trong nước tăng hơn trước và có tiến bộ về mẫu mã, chất lượng.
Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức.Từ
1989-1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lần. Từ 1989 tăng thêm các mặt hàng có giá trị
xuất khẩu lớn, như gạo, dầu thô và một số mặt hàng mới khác. Năm 1989, xuất khẩu
được 1,5 triệu tấn gạo. Nhập khẩu giảm đáng kể, tiến gần đến mức cân bằng giữa xuất và
nhập.
Sự phát triển kinh tế đã kiềm chế được một bước đà lạm phát. Nếu chỉ số bình quân
tăng hàng tháng trên thị trường năm 1986là 20%, năm 1987 là 10%, năm 1988 là 14%,
thì năm 1989 là 2,5% và năm 1990là 4,4%. Nhờ kiềm chế được lạm phát, các cơ sở kinh
tế có điều kiện thuận lợi hơn để hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó
khăn. Thắng lợi cơ bản có ý nghĩa chiến lược lâu dài là phát huy quyền làm chủ kinhtế
của nhân dân, khơi dậy được tiềm năng và sức sáng tạo của quần chúng để phát triển sản

xuất và dịch vụ, tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng sản phẩm xã hội.
Quan hệ quốc tế của Việt Nam ngày càng mở rộng.Từ sau Đại hội VI (12-1986)
của Đảng, nhất là khi có luật đầu tư (12-1987), Việt Nam bắt đầu thiết lập quan hệ kinh tế
với nước ngoài một cách chặt chẽ và lâu dài. Hơn một năm sau khi công bố Luật đầu tư,
có trên 2000 đoàn nước ngoài vào Việt Nam thăm dò, nghiên cứu khả năng đầu tư, hợp
tác. Tính đến tháng 10-1989 có 96 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư là
755 triệu USD. Đến năm 1989, Việt Nam là thành viên của hơn 20 tổ chức quốc tế, tích
cực tham gia các hoạt động kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật của thế giới Việt Nam dần
dần xác lập được mối quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kĩ thuật với nhiều nước, có chế
độ chính trị xã hội khác nhau. Điều này tạo điều kiện cho nhân dân ta tiếp xúc với nên
văn hoá, văn minh trong khu vực và cả thế giới; đồng thời nhận được sự ủng hộ và giúp
đỡ của nhiều nước và tổ chức quốc tế mà vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền, nền văn hoá
dân tộc.
21
• Ý nghĩa:
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của đảng, chúng ta
thấy mỗi Đại hội và Hội nghị Trung ương đã in đậm vai trò lãnh đạo của Đảng và đánh
dấu sự trưởng thành, phát triển trong tư duy cầm quyền và lãnh đạo của đảng.Đường lối
đổi mới đó là kết quả của quá trình tìm tòi, thử nghiệm, vận dụng lý luận, tổng kết thực
tiễn, đấu tranh với những quan điểm sai trái. Thành công của Đảng là ở chỗ: đã kiên
quyết đổi mới, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám thừa nhận sai lầm; từ bỏ những cách
nghĩ, cách làm không còn phù hợp; kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo thủ, giáo điều;
mạnh dạn tạo ra những đột phá quan trọng, nhưng không rơi vào cực đoan, nôn nóng.
Sau hai mươi năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực, tạo ra những tiền đề cần thiết đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển.
• Thách thức:
Bên cạnh những thành tựu, thuận lợi.Vẫn còn đó những nguy cơ và thách thức được
đặt ra để giải quyết.

Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vì nên kinh tế còn mất cân đối,
lạm phát ở mức cao, lao động thiếu việc làm tăng, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều cơ sở sản
xuất đình đốn kéo dài, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Tỉ lệ tăng dân số cao. Sự
phân hóa giàu, nghèo có chiều phát triển.Nền văn hoả, giáo dục tuy phát triển về số
lượng, nhưng suy giảm về chất lượng. Tình trạng tham nhũng, ăn hối lộ, mất dân chủ,
bất công xã hội, vi phạm luật pháp, kỉ luật, kỉ cương và nhiều hiện tượng tiêu cực khác
còn nặng nề và phổ biến…
Mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng những thành tựu đạt được trong 5
năm đầu của công cuộc đổi mời đất nước (1986 - 1990) khẳng định đường lối đổi mới
của Đảng là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản phù hợp, đặt cơ sở cho sự
phát triển tiếp theo.
22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình môn Đường lối cách mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam – Bộ giáo
dục và đào tạo
2) Tài liệu hướng dẫn học và ôn tập môn Đường lối cách mạng Đảng Cộng Sản
Việt Nam – Ts Trần Thị Rồi - Thạc sĩ Trần Ngọc Anh
3) Văn kiện đại hội đảng lần 6
4) Đổi mới tư duy lý luận về kinh tế của đảng trong thời kỳ hội nhập - PGS, TS
LÊ QUỐC LÝ, Phó giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh
5) Quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường - PGS, TS. Ngô
Quang Minh
6) Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự tiếp nối của công cuộc
đổi mới – TS. Nguyễn Tiến Dũng TS, Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế -
Luật, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
7) “Cả nước là một công trường thủ công” (Lê Duẩn: Phát biểu chuẩn bị 50
năm ngày thành lập Đảng, cuối tháng 7-1979).
8) Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về phát triển kinh tế
hàng hóa – Đỗ Thế Tùng, Tạp chí Cộng sản (TCCS) số 10-1993, tr. 30

9) Nguyễn Văn Linh: Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, Sự thật, Hà Nội, 1985.
23
24

×