Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Báo cáo tốt nghiệp biến đổi trong đời sống văn hóa vật chất của người lô lô ở huyện mèo vạc tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.36 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA SƯ PHẠM
***********

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT
CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN MÈO VẠC
TỈNH HÀ GIANG (1986 - 2016)

Sinh viên thực hiện
: Ninh Thị Kim Chung
Lớp
: D17LS01
Khoá
: 2017-2021
Ngành
: Sư phạm lịch sử
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Văn Tiến

LỜI CAM ĐOAN
Bình Dương, tháng 11/2020


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng em và được sự
hướng dẫn khoa học từ Ths. Nguyễn Văn Tiến. Các nội dung nghiên cứu, kết quả
trong đề tài này là trung thực và chưa từng cơng bố dưới bất kì hình thức nào
trước đây. Những dữ liệu trong đề tài nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu
được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu
tham khảo.


Ngồi ra trong đề tài cịn sử dụng một số nhận xét cũng như đánh giá của
các tác giả khác. Nếu có phát hiện bất kì gian lận nào, em xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung báo cáo của mình.

Bình Dương, ngày 20 tháng 11 năm 2020
Sinh viên

Ninh Thị Kim Chung

i


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn Lãnh
đạo Trường Đại học Thủ Dầu Một, q thầy cơ khoa Sư phạm nói chung, thầy
cơ trong chương trình Sư phạm lịch sử nói riêng và nhất là sự giúp đỡ của thầy
Nguyễn Văn Tiến đã giảng dạy kiến thức cho em suốt thời gian qua, giúp em có
thêm nhiều kiến thức để hồn thành được bài báo cáo tốt nghiệp này.
Mặc dù có nhiều cố gắng để hoàn thành bài báo cáo một cách hoàn thiện
nhất. Song, do đây là lần đầu tiên em mới làm quen với việc làm một báo cáo lớn,
vì em chỉ mới được tiếp xúc với hình thức các bài tiểu luận nhỏ, do chưa có nhiều
kinh nghiệm và sự rộng mở nhiều về kiến thức, nên cũng khơng tránh khỏi những
sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý của các q thầy cơ để bài báo cáo
tốt nghiệp này của em được hoàn chỉnh về mọi mặt nội dung cũng như hình thức
trình bày trong báo cáo.
Cuối cùng, em xin kính chúc tất cả q thầy cơ Trường Đại học Thủ Dầu
Một nói chung, khoa Sư phạm nói riêng ln dồi dào sức khỏe, gặt hái được nhiều
thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!


Bình Dương, ngày 20, tháng 11, năm 2020
Sinh viên

NINH THỊ KIM CHUNG

ii


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ......................................................................... 2
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................... 2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................................ 4
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ....................................... 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .......................................................... 5
7. Bố cục ................................................................................................................ 5
B. PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA VẬT CHẤT Ở VIỆT
NAM ..................................................................................................................... 1
1.1. Khái niệm về văn hóa – văn hóa vật chất ... Error! Bookmark not defined.
1.2. Đặc trưng văn hóa – văn hóa vật chất ở Việt Nam Error! Bookmark not
defined.
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƯỜI LÔ LÔ Ở VIỆT NAM ........ 3
2.1. Tên gọi, nguồn gốc, lịch sử cư trú, dân số và phân bố dân cư....................... 3
2.2. Đời sống kinh tế và xã hội ............................................................................. 5
2.3. Văn hóa truyền thống của người Lơ Lơ ....................................................... 6
2.3.1. Văn hóa tinh thần ........................................................................................ 6
2.3.2. Văn hóa vật chất .......................................................................................... 7

2.3.2.1. Nhà ở ........................................................................................................ 7
2.3.2.2. Công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt.................................................. 11
2.3.2.3. Trang phục nam, nữ ............................................................................... 12
2.3.2.4. Tập quán ăn uống ................................................................................... 15
iii


TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 17
CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA VẬT CHẤT CỦA
NGƯỜI LƠ LƠ Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG (1986-2016) VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO LƯU CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG TỐT ĐẸP CỦA DÂN TỘC LÔ LÔ ................................................. 19
3.1. Những biến đổi về đời sống văn hóa vật chất ............................................ 19
3.1.1. Nhà ở và một số tập quán sinh hoạt liên quan đến nhà ở.......................... 19
3.1.1.1. Nhà ở ...................................................................................................... 19
3.1.1.2. Một tập quán sinh hoạt liên quan đến nhà ở .......................................... 19
3.1.2. Công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt ..................................................... 20
3.1.3. Trang phục................................................................................................. 20
3.1.3.1. Trang phục nữ ........................................................................................ 20
3.1.3.2. Trang phục nam...................................................................................... 21
3.1.4. Tập quán ăn uống ...................................................................................... 21
3.2. Một số giải pháp để bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Lơ Lơ ............................................................................................................. 23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 25
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 29
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 30

iv



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển khác nhau, cùng với 53 dân
tộc anh em khác trên đất nước Việt Nam, dân tộc Lô Lô ở Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
đã trải qua quá trình hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn, phát triển về
nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, mà tiêu biểu là phát triển về mặt
văn hóa, tiêu biểu là văn hóa vật chất. Họ ln biết bảo lưu những giá trị truyền
thống và các bản sắc văn hoá dân tộc của mình trong đó có đời sống vật chất.
Trong đời sống vật chất , dân tộc Lô Lô đã có những bước phát triển tiêu biểu để
giúp cho đời sống của họ được cải thiện và phát triển. Họ cũng biết xây dựng nhà
ở, sử dụng các công cụ sản xuất để tạo nên các sản phẩm thủ công phục vụ cho
đời sống hằng ngày, họ biết gìn giữ các giá trị truyền thống trong bộ trang phục
đến các món ăn, phong cách ăn uống vốn có từ lâu đời. Nhằm phát huy hết tất cả
những giá trị tốt đẹp trong lĩnh vực văn hóa vật chất của dân tộc mình, qua đó
giúp phát triển đất nước.
Dân tộc Lơ Lô ở Mèo Vạc, Hà Giang là một dân tộc có số dân ít, cư trú ở
các huyện vùng cao ở biên giới của Việt Nam. Cho đến nay các cơng trình viết về
dân tộc Lơ Lơ cũng như các tài liệu liên quan vẫn còn khá hạn chế. Dân tộc Lô
Lô ở Hà Giang là một trong những cộng đồng đang gặp rất nhiều khó khăn và
cũng đang nhận được sự hỗ trợ đặc biệt của Chính phủ và các cấp các ngành. Họ
cũng có sự phát triển về mặt kinh tế, xã hội để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu
phục vụ đời sống của cư dân nơi đây. Tuy nhiên, vấn đề văn hóa và quan hệ tộc
người của dân tộc này chưa đặt ra như một mục tiêu nghiên cứu.
Nếu so sánh với một số cộng đồng khác, Lô Lô vẫn là một trong những dân
tộc bảo lưu khá bền vững các giá trị văn hóa vật chất truyền thống như nhà cửa,
ăn uống, y phục, trang sức, công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt. Đến nay các
yếu tố văn hóa vật thể này của họ vẫn hàm chứa nhiều đặc trưng riêng biệt,những
đặc trưng riêng biệt đó đã góp phần khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc Lơ
Lơ ở Việt Nam nói chung và dân tộc Lơ Lơ ở huyện Mèo Vạc nói riêng.

Tuy nhiên trong bối cảnh giao lưu và hòa nhập mạnh mẽ như hiện nay, so
với các thành tố khác thì văn hóa vật chất của người Lơ Lơ đang có những thay
đổi so với truyền thống, nhưng khơng q nhiều, trong đó phải kể đến dân tộc Lô
Lô ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang. Vậy sự thay đổi đó là gì? Thay trong từng
phương diện ăn, mặc, ở như thế nào? Để có thể hiểu rõ hơn về sự thay đổi đó em
1


chọn đi sâu để tìm hiểu về vấn đề văn hóa vật chất của cư dân nơi đây, cụ thể là
từ năm 1986 đến năm 2016. Để tìm hiểu rõ sự thay đổi ở giai đoạn này, trước hết
em đi sâu vào tìm hiểu về những nét văn hóa truyền thống vốn có từ lâu đời, so
sánh cái truyền thống vốn có với giai đoạn 1986 đến 2016 hay nói cách khác là
giai đoạn từ sau đổi mới đến nay, để thấy rõ hơn về sự biến đổi. Với đề tài “Biến
đổi trong đời sống văn hóa vật chất của người Lô Lô ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà
Giang (1986 – 2016)” sẽ góp phần làm rõ hơn một số vấn đề được đặt ra như trên.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Làm rõ hơn về đời sống văn hóa vật chất người Lơ Lơ:
- Tổng quan chung về tộc người Lô Lô: tên gọi, nguồn gốc, lịch sử cư trú,
dân số và phân bố dân cư, đời sống kinh tế và xã hội.
- Biến đổi trong đời sống văn hóa vật chất từ năm 1986 đến 2016 với một
số nội dung cơ bản sau:
+ Nhà ở (nhà sàn, nhà đất, cấu trúc ngôi nhà,..: nêu lên những nét truyền
thống trong phương diện nhà ở của người Lô Lô, qua đó nêu lên sự biến đổi của
truyền thống so với hiện nay là gì.
+ Cơng cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt: công cụ truyền thống là những
công cụ gì và so với hiện nay có sự thay đổi như thế nào
+ Trang phục (trang phục nam, nữ): nét nổi bật của trang phục truyền thống
so với hiện nay
+ Tập quán ăn uống: những phong tục truyền thống so với hiện nay.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rất rộng với nhiều cách hiểu khác nhau
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất tinh thần của con người. Về mặt văn hóa
vật chất hiện đã có nhiều sách, báo, tạp chí, luận văn... viết về vấn đề này. Trong
đó có một số cơng trình tiêu biều như:
- Khổng Diễn – Trần Bình (Đồng chủ biên). Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam,
Nxb Thông tấn, 2007. Cuốn sách viết tương đối hoàn chỉnh về dân tộc Lô Lô.
Phương pháp dân tộc học điền dã được sử dụng như một cách tiếp cận chủ đạo.
Thông qua những đợt công tác tại cộng đồng Lô Lô ở Hà Giang, Cao Bằng, được
cùng sinh sống ăn ở cùng với người dân, tác giả đã cùng với một số nhà nghiên
2


cứu khác đã hỏi chuyện, quan sát, ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, thu thập các dữ liệu
về môi trường, xã hội, tập quán, ăn, mặc, ở, ngôn ngữ, các nghi lễ, tín ngưỡng và
các tri thức dân gian khác của dân tộc Lô Lô.
- Nguyễn Khắc Tụng, Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam (tập 1,2), Nxb
Khoa học xã hội, 2015. Cuốn sách đã đề cập đến quá trình hình thành và phát triển
của các loại nhà cổ truyền qua nhiều thời kì khác nhau, phong tục, tập quán, cách
thức sinh hoạt ăn uống, trong ngôi nhà.
- Phạm Trung Phương, Trần Bình, 2011. Người Lơ Lơ ở Việt Nam. Cuốn
sách này của hai tác giả có đề cập đến nguồn gốc lịch sử của dân tộc Lô Lơ, qua
đó cũng có nói tới các vấn đề về bản sắc văn hoá, đời sống và những phong tục
tập quán riêng của dân tộc Lô Lô, để người đọc có thể thấy được những nét văn
hố đặc trưng riêng của họ.
- Trần Quang Phúc, Việt Nam sắc màu 54 dân tộc anh em, 2013. Cuốn sách
này của tác giả trình bày về sự đa dạng trong thống nhất những giá trị văn hoá của
54 dân tộc anh em ở Việt Nam, trong đó có đề cập tới dân tộc Lô Lô. Trên cơ sở
khái quát cụ thể những đặc trưng văn hoá cũng như đời sống kinh tế của từng dân
tộc ở Việt Nam.
- Vũ Khánh (chủ biên), 54 dân tộc anh em Việt Nam, 2008. Cuốn sách phản

ánh các các mặt về đời sống, sinh hoạt, văn hoá xã hội, cuộc sống của dân tộc anh
em trên khắp đất nước Việt Nam.
- Nguyễn Văn Huy, Văn hóa và nếp sống Hà Nhì – Lơ Lơ, 1986. Cuốn sách
này đã mô tả tương đối kĩ về các dân tộc thuộc ngơn ngữ Tạng – Miến ở Việt
Nam, trong đó có các dân tộc Lơ Lơ. Cuốn sách này đề cập đến những vấn đề
chung về kinh tế, xã hội văn hóa của tộc người Lơ Lơ.
- GS. TS Hồng Nam, Đặc trưng văn hóa truyền thống 54 dân tộc Việt
Nam, 2013. Cuốn sách này giới thiệu những nét văn hóa đặc trưng của nhiều dân
tộc khác nhau trên đất nước Việt Nam, từ tên gọi, nơi cư trú đến kinh tế, văn hóa,
xã hội.
Qua các cơng trình nghiên cứu trên đã phát họa khá rõ nét văn hóa truyền
thống của dân tộc Lơ Lơ ở Việt Nam nói chung và dân tộc Lơ Lơ ở Mèo Vạc, Hà
Giang nói riêng. Nhưng đến nay chưa có nhiều cơng trình tìm hiểu về những biến
đổi trong văn hóa vật chất của dân tộc này, đây cũng là lí do để em chọn đề tài
này để làm rõ hơn về sự biến đổi đó.
3


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng: dân tộc Lô Lô
- Phạm vi:
+ Không gian: huyện Vạc Mèo, tỉnh Hà Giang
+ Thời gian: từ năm 1986-2016
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
+ Thông qua những sử liệu, những hiện thực trong tiến trình lịch sử, các tác
giả nghiên cứu về văn hóa học đã trực tiếp đưa ra những lí luận thực tế về những
biến đổi trong đời sống văn hóa của người Lơ Lơ ở Việt Nam nói chung, ở huyện
Vạc Mèo, tỉnh Hà Giang nói riêng, trong những năm 1986 đến 2016.
+ Những bằng chứng, tư liệu cụ thể về đời sống văn hóa vật chất của cư
dân nơi đây thơng qua việc phân tích cụ thể về vấn đề ăn, mặc, ở, những công cụ

gắn liền với đời sống sinh hoạt hằng ngày của họ, về cách thức ăn uống cũng như
những bộ trang phục truyền thống gắn liền với đời sống văn hóa từ xưa đến nay.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân loại: Sử dụng phương pháp phân loại để có thể phân
tích các tài liệu, các tạp chí sách báo, tìm hiểu những tài liệu trên internet một
cách cụ thể và có hệ thống . Góp phần tìm hiểu về đời sống vật chất của dân tộc
Lô Lô một cách khoa học.
+ Phương pháp tổng hợp: Sử dụng phương pháp tổng hợp sưu tầm nhiều
tài liệu có liên quan đến dân tộc Lơ Lơ, qua đó chọn lọc để có thể tìm ra những
tài liệu đề cập tới đời sống vật chất của dân tộc Lô Lô ở Mèo Vạc, so sánh giữa
dân tộc này với nhiều dân tộc khác để có thể thấy được sự khác nhau giữa các dân
tộc anh em Việt Nam, qua đó có cái nhìn tổng quan, đánh giá một cách chi tiết và
khách quan nhất.
+ Phương pháp lơ-gic: đưa ra những lí luận chung về văn hóa – văn hóa vật
chất; khái quát chung về tộc người Lơ Lơ ở Việt Nam.
+ Phương pháp phân tích: làm rõ từng đặc điểm nổi bật trong đời sống văn
hóa vật chất của người Lô Lô: nhà ở, đồ dùng sinh hoạt, tập quán ăn uống, trang
phục,...
4


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học:
+ Góp phần làm sáng tỏ thêm về đời sống văn hóa vật chất của tộc người Lô Lô
ở Mèo Vạc, Hà Giang. Bên cạnh những nét văn hóa truyền thống vốn có thì họ
cũng có sự thay đổi về nhiều mặt để phù hợp với mơi trường sống hiện tại. Ví dụ
như họ chuyển sang ở nhà trệt nhiều hơn so với loại nhà sàn truyền thống, tập
quán sinh hoạt, ăn uống cũng thay đổi ít nhiều, khơng cịn q lạc hậu so với trước
kia.
+ Có cái nhìn phong phú hơn về trang phục từ truyền thống đến hiện đại của người

Lô Lô ở huyện Mèo Vạc, giúp ích cho việc khái quát và đúc kết về đặc trưng văn
hóa trong trang phục của các tộc người.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Góp phần giúp chúng ta có cái nhìn tồn diện hơn trong việc bảo tồn các giá trị
truyền thống, khi nó dần có nhiều sự biến đổi. Bên cạnh đó cũng phải nêu cao một
số điểm mới cho phù hợp với thời đại, duy trì những mặt tích cực, loại bỏ những
cái tiêu cực, nhưng vẫn giữ nguyên các giá trị truyền thống vốn có.
+ Mỗi con người trong chúng ta cần có ý thức tự giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống vốn có để góp phần nhỏ trong việc giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc
Lơ Lơ nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung.
7. Bố cục
Báo cáo tốt nghiệp có các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ
lục và phần nội dung bao gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT Ở VIỆT
NAM
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƯỜI LÔ LÔ Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA VẬT CHẤT
CỦA NGƯỜI LƠ LƠ Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG (1986 - 2016)
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO LƯU CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG TỐT ĐẸP CỦA DÂN TỘC LÔ LÔ

5


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT Ở VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm chung về văn hóa – văn hóa vật chất


Văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
phong tục và cả những năng lực, thói quen của con người trong xã hội. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau về văn hóa. Văn hóa được hiểu theo quan điểm của
xã hội phương Tây, văn hóa theo quan điểm xã hội phương Đông, theo quan điểm
của triết học Maxit, theo quan điểm của UNESCO.
Theo quan điểm của xã hội phương Tây, văn hóa có nghĩa là cày cấy, vun
trồng, sau được nâng cao lên văn hóa là tập quán, là hành vi ứng xử của con người.
Văn hóa được các nhà nghiên cứu phương Tây nhấn mạnh trên ba khía cạnh: văn
hóa là sự phát triển của cá nhân trong xã hội. Là đặc thù của mỗi xã hội với mơi
trường xã hội nhất định, và văn hóa có thể là cái hòa hợp, đan xen, thâm nhập lẫn
nhau giữa các mơi trường văn hóa khác, giữa các vùng, các quốc gia khác nhau
trên quy mô khu vực và trên thế giới.
Còn theo quan điểm của xã hội phương Đơng thì văn hóa được tách ra thành
hai khái niệm riêng biệt “văn”, “hóa”. Văn là màu sắc, là lễ nghĩa, là sự giáo dục
bằng đạo đức, là những cái tốt đẹp trong cuộc sống đã được đúc kết thành một
biểu tượng. Hóa là sự cải biến hóa sinh, là quy luật của tạo hóa sinh sơi nảy nở, là
sự giao hòa của hai sự vật, dẫn tới một hoặc cả hai sự vật đều biến đổi là đem
những gì đã đúc kết được vận dụng vào trong cuộc sống.
Văn hóa theo quan điểm triết học Mác xít là kết quả của quá trình biến đổi
bản thân con người, với tư cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người.
Văn hóa xuất hiện từ lao động, hiện ra như một nhiệm vụ thực tiễn, biến đổi các
quan hệ qua lại giữa con người và thế giới. Văn hóa là một q trình cải biến con
người thành chủ thể của sự vận động lịch sử, thành một cá nhân tồn vẹn.
Theo UNESCO, văn hóa là tổng thể các dấu hiệu tinh thần, vật chất, trí tuệ
và đặc biệt là tình cảm, xác định bản chất của một xã hội hay một nhóm xã hội.
Nó bao hàm khơng chỉ cuộc sống nghệ thuật và khoa học, mà còn cả lối sống, các
quyền tự do cơ bản của con người, các giá trị truyền thống và các quan niệm. Theo
cách hiểu này, văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát mọi mặt của đời
sống con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra ở hiện tại. Trải
1



qua bao thế kỉ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị truyền thống, mà dựa
vào đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần. Do con người sáng
tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Nó
thể hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Khi nghiên
cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mac và Anghen đã
khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ bản: đó là sản
xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Do đó, văn hóa cũng bao gồm cả văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người.
Được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất.
1.2.

Đặc trưng văn hóa – văn hóa vật chất ở Việt Nam

Văn hóa có tính hệ thống. Mọi sự kiện, hiện tượng thuộc một nền văn hóa
điều có liên quan mật thiết với nhau. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa với tư cách
là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện chức năng tổ chức
xã hội. Văn hóa làm tăng tính ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương
tiện cần thiết để đối phó với mơi trường tự nhiên và mơi trường xã hội.
Tính giá trị là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Tính giá
trị được phân thành nhiều loại khác nhau: giá trị vật chất phục vụ nhu cầu vật chất
của con người (nhà ở, trang phục, ăn uống, đi lại...). Tính giá trị theo nhiều ý nghĩa
khác nhau: giá trị sử dụng, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ. Về mặt thời gian: giá
trị vĩnh cửu, giá trị nhất thời. Văn hóa là một hệ thống giá trị nên thực hiện chức
năng điều chỉnh xã hội, giúp xã hội duy trì trạng thái cân bằng, khơng ngừng tự
hồn thiện và thích ứng với những biến đổi của mơi trường xã hội.
Tính nhân sinh. Văn hóa là sản phẩm của con người, có giá trị vật chất và
tinh thần, phục vụ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Văn hóa

là cái tự nhiên được biến đổi dưới tác động của con người, văn hóa là sự nối kết
giữa người với người.
Văn hóa mang tính lịch sử. Văn hóa là sản phẩm của một q trình sáng tạo
và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống
văn hóa, những giá trị tương đối ổn định: ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ nghi...
[Cơ sở văn hóa – Trần Ngọc Thêm]

2


CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƯỜI LÔ LÔ Ở VIỆT NAM
2.1. Tên gọi, nguồn gốc, lịch sử cư trú và phân bố dân cư
Lô Lô là một dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người trong 54 dân tộc ở Việt
Nam, thuộc nhóm ngơn ngữ Tạng - Miến cùng với các dân tộc Hà Nhì, Phù Lá,
Cống, La Hủ, Si La, thuộc họ Hán - Tạng. Dân tộc Lơ Lơ có khoảng 4000 người,
sống chủ yếu ở 3 tỉnh Cao Bằng, Hà Giang và Lai Châu. Ngoài tên gọi phổ biến
là Lơ Lơ thì cịn có nhiều tên gọi khác: Ơ Man, La La, Màn Di, Màn Dì,..
Xét thấy về mặt lịch sử cũng như tên gọi, dân tộc Lơ Lơ ở Việt Nam có mối
quan hệ mật thiết với người Di ở Trung Quốc, Di là một dân tộc có nơi cư trú ở
vùng miền tây cao nguyên Vân Quý với diện tích rộng lớn khoảng 500km2. Dân
tộc Di là dân tộc có số dân đơng nhất ở miền tây nam của Trung Quốc, phân bố
chủ yếu ở bốn tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu và Quảng Tây của Trung
Quốc. Từ thời xa xưa người Di đã có mối quan hệ mật thiết với người Đế Khương,
theo các sử gia phân tích cho rằng Khương là tên gọi của tộc loại, còn Đế chỉ là
một bộ phận trong đó mà thơi. Đế Khương và dân tộc Di khơng chỉ có mối quan
hệ gần gũi về ngơn ngữ mà trong các tập quán sinh hoạt hầu như là có điểm giống
nhau. Mặc dù ở Việt Nam được gọi là dân tộc Lô Lô nhưng đồng bào ở đây họ
vẫn tự nhận mình là dân tộc Di. Người Lô Lô ở Vân Nam tràn vào vùng Thuỷ Vĩ
thuộc Hưng Hố và chia làm hai đợt trong đó có hai đợt liên quan đến cuộc khởi
nghĩa của họ để chống lại triều đình phong kiến Trung Quốc. Đó là cuộc khởi

nghĩa của người Di ở 18 trại thuộc vùng Di Lạc.
Sau khi di cư sang Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Lục Ngô Quân do không
khuất phục nên đã dẫn hơn một vạn quân, dân người Lô Lô đi về phía nam và đến
vùng đất Đồng Văn ngày nay dựng bản, lập mường. Dân tộc Lô Lô tuy có nguồn
gốc là từ người Di ở Trung Quốc di chuyển sang nhưng từ lâu cho tới nay họ đã
quen được gọi là Lơ Lơ. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, người Lơ Lơ họ có một
mối quan hệ rất gần gũi với người Di ở bên Trung Quốc. Họ di cư sang Việt Nam
do nhiều nguyên nhân và giai đoạn khác nhau, nhưng phần đông dân nhất vẫn là
ở triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Nơi đặt chân đầu tiên của họ khi
đến Việt Nam chính là vùng Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang bây giờ. Cho đến
tận ngày nay, dân tộc Lô Lô đã là một trong 54 dân tộc không thể thiếu trong đất
nước Việt Nam chúng ta. Lô Lô là một bộ lạc trong nhóm Ơ Man, mà “Tân Đường
thư” gọi là Lu Lu, “Nguyên sử loại biên” gọi là Lô Lô.
3


Người Lơ Lơ có truyền thuyết: có 7 anh em trai, trong đó có 3 người từ Vân
Nam Trung Quốc đi sang Việt Nam tìm nơi làm ăn, sinh sống. Trên đường đi có
một người bị lạc, cịn 2 người đến đất Đồng Văn đầu tiên. Người anh ở lại Đồng
Văn, còn người em đi tiếp sang vùng Tây Nam Bảo Lạc. Ngày nay, tuy vùng Tây
Nam Bảo Lạc không cịn người Lơ Lơ cư trú, nhưng ở vùng này vẫn cịn những
mộ táng của người Lơ Lơ, có địa danh gắn liền với tên dân tộc Lô Lô như Pác Mìa
(nay là Bắc Mê). Một truyền thuyết khác kể rằng, ngày xửa ngày xưa, có một đơi
vợ chồng người Lơ Lơ đi tìm đất hoang vu để khai khần làm ăn. Họ đi mãi từ ngày
này sang ngày khác, từ miền đất nọ đến miền đất kia. Họ đến một vùng núi đá,
ngủ đêm tại đó. Đêm ngủ người vợ nằm mơ thấy một cụ già, hiện ra bảo rằng đây
là nơi đất lành, làm ăn ở đây sẽ có cuộc sống no đủ và hạnh phúc. Các con hãy
dừng chân tại đây và đi hai chiếc giày này, giẫm đến đâu sẽ thành ruộng đến đó.
Nói rồi ơng già biến mất. Hôm sau, tỉnh dậy hai vợ chồng thấy hai chiếc giày, một
chiêc to và một chiếc nhỏ, đặt ngay dưới chân hai vợ chồng. Người vợ kể chuyện

giấc mơ cho chồng nghe, người chồng nửa tin, nửa ngờ, nhưng cũng làm theo lời
vợ, xỏ chân vào giày. Người chồng xỏ chân vào chiếc giày nhỏ, người vợ xỏ chân
vào chiếc giày to. Họ giẫm chân khắp thung lũng Mèo Vạc. Những nơi bàn chân
của hai vợ chồng giẫm lên đã trở thành những thửa ruộng to, nhỏ khác nhau. Có
chỗ người vợ giẫm mạnh tạo thành ao to, ao nhỏ. Ao to nhất là ao cạnh cây đa
thuộc xóm Chúng Pả, mà người Lơ Lơ gọi là Mà Vàng.
Các nhà sử học, dân tộc học đã khẳng định dân tộc Lô Lô và một số dân
tộc khác ở Vân Nam (Trung Quốc) vào thế kỉ thứ VIII đã sáng lập ra nhà nước
Nam Chiểu. Mà trước đó một thời kì dài, nhiều học giả vẫn cho rằng chủ nhân
của nhà nước Nam Chiểu là người Thái. Năm 937, nhà nước Nam Chiểu bị nhóm
người Bạch, một trong những bộ phận của cư dân Nam Chiểu, do Đoàn Tử Bình
cầm đầu đã đánh chiếm nhà nước Nam Chiểu. Những ngưởi Lô Lô không chấp
nhận sự đánh chiếm của người Bạch, đã chạy xuống phía Nam, đến Việt Nam từ
thời kì đó. Sử sách ghi lại rằng, một tướng qn Lơ Lơ là Ngơ Qn, thời đó đã
dẫn hơn một vạn qn dân Lơ Lơ đi về phía Nam, tới đất Đồng Văn để khai phá
đất đai, lập trại làm ăn. Vào thế kỉ VII, thủ lĩnh Khổng Mìn, đã dẫn năm, sáu nghìn
người từ phương Bắc tìm đường vượt núi cao hiểm trở đến Mèo Vạc sinh sống.
Từ Mèo Vạc họ di cư sang Bảo Lạc (Cao Bằng). Ngày nay, người Tày, người Tày,
người Giáy, người Mông ở vùng Đồng Văn, Mèo Vạc vẫn có tục cúng ma Lơ Lơ
– người có cơng khai phá đất đai, mỗi khi cày cấy xong hoặc khi lúa bị sâu bệnh
cắn phá. Trong ngày hội lùng tùng của người Tày ở Bảo Lạc, có mâm cúng ma
4


Lô Lô – người chủ đất đầu tiên. Ở làng Lô Lộ Chải thuộc xã Lũng Cú, huyện
Đồng Văn, trong kí ức của người dân, trong truyện cổ, trong các bài ca, bài cúng
đưa hồn người chết, đều cho rằng ở Việt Nam, Lũng Cú là nơi đầu tiên họ đặt
chân đến. Địa bàn người Lô Lô sinh sống thuộc các cao ngun biên giới phía
Bắc Tổ quốc. Đó là phần rìa của khối cao nguyên Vân Quý đồ sộ ở Nam Trung
Hoa. Đây cũng là vùng giáp biên giới Việt Trung của tỉnh Hà Giang và Cao Bằng,

giao thông đi lại ở đây rất khó khăn.
Họ là cư dân có mặt rất sớm của vùng cực Bắc Hà Giang. Người Lô Lô chủ
yếu làm ruộng nước và nương định canh với các loại cây trồng chính như nếp, lúa
tẻ và ngơ. Chăn ni gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.
Họ chủ yếu ăn ngơ bằng cách xay thành bột đồ chín (mèn mén). Bữa ăn phải có
canh, họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ. Về mặc, phụ nữ có nhóm mặc áo cổ
trịn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo cổ vng chui đầu, quần chân q, có nơi bên
ngồi cịn quấn xà cạp. Trang trí trên y phục bằng hoa văn, chắp ghép những mảnh
vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn in bằng sáp ong.
Tùy từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà sàn, nhà trệt hoặc nhà nửa sàn
nửa đất. Người Lô Lô sống tập tung trong các bản tương đối ổn định, tính cộng
đồng tộc người thể hiện rõ nét. Có hơn 30 dịng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường
quần tụ trong phạm vi một làng, bản, thờ cúng chung một ơng tổ và có một khu
nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã. Người Lơ Lơ thích các
quan hệ hơn nhân nội tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng
họ.
2.2. Đời sống kinh tế - xã hội
Trồng trọt là nguồn sống chính của người Lơ Lơ. Cây lương thực chính là
cây ngơ và cây lúa. Cây ngơ thì có nhiều loại giống: ngơ nếp, ngơ tẻ, ngơ trắng,
ngơ vàng. Đây là loại ngô truyền thống, loại ngô này thường cho năng suất không
cao như ngô lai, nhưng ăn thơm ngon hơn ngô lai và để cả năm không bị mốc,
khơng bị mọt ăn. Cây lúa thì cũng có nhiều loại: lúa nếp, lúa tẻ. Giống lúa nếp cây
cao, lá to, tuy nâng suất không cao nhưng được trồng khá phổ biến vì nó phù hợp
với thói quen chế biến thành các loại bánh mà người Lô Lô ưa thích. Lúa tẻ cây
cao, lá to, năng suất trung bình và được trồng nhiều. Ngồi cây lúa và cây ngơ, họ
còn trồng các loại hoa màu, các loại lương thực, thực phẩm, các loại cây ăn quả,
các loại rau. Họ chăn ni các loại gia súc: trâu, bị, ngựa. Việc chăn ni gia súc
thực hiện theo hình thức chăn thả. Họ chăn nuôi gia súc chủ yếu để làm sức kéo,
5



đồng thời để lấy phân bón cho cây trồng. Ngồi ni gia súc họ cịn ni các loại
gia cầm:lợn, gà, vịt, ngan, nguỗng.
Họ cũng đẩy mạnh việc khai thác tự nhiên, hái rau rừng là cơng việc của
phụ nữ, cịn săn bắt thú rừng là việc của đàn ông. Thu hái lâm sản, mùa hè thì hái
các loại rau rừng, đơng thì tìm củ quả. Ngồi ra, họ cịn đánh bắt cá dưới sông
suối, lấy cây rừng làm nhà ở, làm cơng cụ sản xuất. Người Lơ Lơ có 3 nghề thủ
cơng được nhiều người trồng vùng biết đến. Đó là nghề đan lát, làm ngói và nghề
thêu. Đan lát và làm ngói là của đàn ơng, cịn thêu thùa là của phụ nữ. Kinh tế chủ
yếu của người Lô Lô là kinh tế tự cấp, tự túc. Tuy nhiên họ có nhu cầu trao đổi,
mua bán một số mặt hàng phục vụ nhu cầu thiết yếu.
Quan hệ dòng họ được tính theo phụ hệ. Ý nghĩa quan trọng nhất của quan
hệ dịng họ là duy trì cách thờ cúng tổ tiên, cúng ma và nghiêm cấm người trong
dòng họ có quan hệ hơn nhân với nhau, từ 4 đến 5 đời. Mỗi dịng họ có một bộ
trống đồng, dịng họ nào có từ ba bộ trống đồng trở lên là dịng họ lớn, có vị thế
trong dịng tộc. Các thành viên trong dịng họ có nghĩa vụ giúp đỡ nhau trong cưới
sinh, ma chay, làm nhà mới, hoặc giúp đỡ nhau khi hoạn nạn ốm đau.
Tục lệ hôn nhân tn thủ theo ngun tắc ngoại hơn dịng tộc. Tục lệ hơn
nhân gồm các nghi lễ chính: nghi lễ hỏi tuổi, nghi lễ thông báo hợp tuổi, nghi lễ
ăn hỏi và nghi lễ đón dâu, lễ lại mặt.
Tập quán tang ma xuất phát từ quan niệm là con người có xác và hồn. Khi
chết là xá chết và hồn vẫn còn sống, cho nên họ làm tang ma để đưa xác đi chôn
và đưa hồn lên thiêng đàng về với tổ tiên. Nét đặc trưng trong tang lễ của người
Lô Lơ là sử dụng trống đồng. Khi thi hài cịn ở trong nhà, họ đánh trống đồng
trong tang lễ để tỏ lịng thương xót đối với người mất và tiễn đưa linh hồn của họ
về thế giới bên kia.
[Phạm Trung Phương – Trần Bình (cb), Người Lơ Lơ ở Việt Nam, Nxb
Thơng Tấn, 2011]
2.3. Văn hóa truyền thống của người Lơ Lơ
2.3.1. Văn hóa tinh thần

Về tơn giáo, tín ngưỡng, người Lô Lô cho rằng nếu con người sống không
tốt bụng thì dễ bị ma quỷ trừng phạt làm cho ốm đau và chết. Người Lô Lô quan
niệm trời là cha, đất là mẹ. Trời sáng tạo ra thế giới trần gian, lồi người và mn
6


vật, trời quyết định vận mệnh của loài người. Người Lơ Lơ thường có câu huyền
“người khơng thấy, đất thấy, người khơng biết đã có trời, nó sẽ bị trời đánh và đất
vùi. Vì cho rằng mọi vật đều có linh hồn, nên người Lơ Lơ có tín ngưỡng đa thần.
họ cho rằng mỗi làng điều có ma cai quản, đó là ma bản, có thể phù hộ hoặc làm
hại dân làng, nên mỗi năm thường tổ chức cúng ma bản một lần.
Thứ hai là việc thờ cúng tổ tiên. Dù ở trong nhà sàn hay nhà trệt, bàn thờ
ma nhà của người Lơ Lơ thường được bố trí ở phần giáp vách của gian giữa. Ngoài
bàn thờ của tổ tiên, trong ngơi nhà của họ cịn có nơi thờ những người chết bất đắt
kì tử được coi là khá linh thiên và đặt ở góc nhà ngay phía dưới bàn thờ tổ tiên
hoặc ở gần bếp. Trừ chủ nhà, không ai được phép lui tới hoặc quét dọn nơi thờ
cúng ma này. Người Lô Lô cho rằng tổ tiên là những người thuộc tất cả các thế
hệ trước đã sinh ra mình và chia ra thành tổ tiên gần và tổ tiên xa. Theo tập quán
của người Lô Lô, hằng năm các bản điều làm lễ cúng ma bản, cầu cho mùa màng
tốt tươi, không bị muôn thú phá hoại. Theo tục lệ cúng bái của người Lô Lô, lễ
cúng ma bản cũng tiến hành hai lần, lần đầu cúng dân những con vật hiến tế (chủ
yếu là gà) chưa bị giết thịt, lần thứ hai cúng dân đồ ăn đã được chế biến từ các
con vật hiến tế đã cúng lần đầu. Người Lơ Lơ có nhiều lễ hội như lễ rước thần
bản, lễ tế trời đất, lễ rước đuốc và lễ cầu mưa. Lễ rước thần bản thường được tổ
chức vào tháng Năm, rước thổ công, người đã có cơng khai bản. Lễ này có nguồn
gốc từ một truyền thuyết của người Lô Lô ở Hà Giang. Lễ rước đuốc hằng năm
được tổ chức từ ngày 24 đến ngày 26 tháng Chín hằng năm. Lễ cầu mưa được tổ
chức vào cuối tháng Năm âm lịch, lễ này xuất phát từ truyền thuyết đấu tranh với
thiên nhiên của người Lô Lô, được tiến hành trong một khu đất rộng giữa bản.
Người Lơ Lơ có chữ viết khá sớm, nhưng nay đã bị mai một. Văn nghệ dân

gian của người Lô Lô khá phong phú bao gồm thơ ca dân gian, tục ngữ, câu đố,
múa dân gian, đặc biệt thơ ca dân gian và truyện kể dân gian vốn được người Lơ
Lơ ưa chuộng. Đối với văn hóa tinh thần của người Lô Lô, đáng chú ý nhất vẫn
là dân ca, bởi nó có tính độc lập về ngơn từ, sự tồn tại và phát triển của dân ca Lô
Lô không bị ràng buộc bởi các yếu tố như âm nhạc và múa dân gian.
2.3.2. Văn hóa vật chất
2.3.2.1. Nhà ở
Người Lơ Lơ ở nước ta có ba loại nhà sàn khác nhau: nhà nền đất, nhà sàn
và nhà nền sàng nữa đất. Nhà sàn chính là loại nhà truyền thống của người Lô Lô
ở nước ta. Cấu trúc ngôi nhà khá đơn giản. Chủ yếu là nhà tạm, cột chôn sâu
7


xuống đất, chỉ ở được vài ba năm là phải tu sửa, lợp lại mái. Có nhiều lí do để họ
sống trong nhà sàn. Một là do trước kia có nhiều rừng nên dễ tìm kiếm các loại
nguyên vật liệu để làm nhà như tre, gỗ. Hai là khi đó dân cư cịn q thưa thót,
rừng cịn nhiều nên thú dữ cịn nhiều lắm, nên ở nhà sàn an tồn hơn ở nhà đất.
Nhà sàn của người Lô Lô ở Mèo Vạc có nhiều yếu tố tương đồng với nhà
sàn của một số tộc người khác: nền nhà có cấu trúc kiên cố hơn, cột được kê trên
hòn đá tảng, sàn bằng gỗ hay tre, mái lợp cỏ gianh hay ngói máng, thậm chí lợp
bằng tấm fipproximang. Về mặt bằng dưới sàn được sử dụng làm bếp lò nấu cám
lợn, nhốt gia súc, gia cầm, để cối xay giã gạo và là nơi cất giữ những nông cụ
cùng các loại đồ dùng sinh hoạt khác của gia đình. Sàn là mặt bằng chính để ăn ở,
ngủ nghỉ và thực hiện các sinh hoạt, đồng thời sàn cũng là nơi cất giữ lương thực
và các loại đồ gia dụng quan trọng.
Về cấu tạo bộ khung của ngôi nhà, nếu dựa vào cấu trúc của vì kèo thì có 2
loại nhà chính: vì kèo ba cột và vì kèo nhiều cột. Trong đó, loại nhà vì kèo ba cột
là phổ biến của người Lơ Lơ xã Tín Cái huyện Mèo Vạc. Ngồi ra cịn có loại vì
kèo 5 cột và nhiều cột trốn. Với loại nhà vì kèo 3 cột, cấu trúc đơn giản hơn,
thường chỉ có 2 hoặc 3 gian, 2 mái và cầu thang lên sàn với số bậc lẽ, nhưng cũng

có vài nhà có 4 gian- gian thứ tư thường là gian phụ. Nhìn chung, nhà sàn của
người Lơ Lơ ở nước ta có cấu trúc khá đa dạng trong đó đơn giản nhất là loại nhà
vì kèo 3 cột. Cịn loại nhà sàn có cấu trúc phức tạp hơn thường là loại vì kèo có
cấu trúc nhiều cột, kể cả cột trốn.
Người Lơ ở Hà Giang bố trí mặt bằng sinh hoạt trong nhà sàn khá thống
nhất: nhà có một hoặc hai cửa ra vào, ít cửa sổ, hai bếp, có sự quy định rõ ràng về
nơi để đồ đạc và nơi ngủ của các thành viên, cầu thang lên sàn thường bắt trực
tiếp lên cửa ra vào trên sàn. Với loại nhà hai gian, hiện nay chỉ cịn tồn tại dạng
nhà sàn, có đặc điểm là cửa chính nằm ở một trong hai gian và được bố trí ở phía
trước nhà. Gian bên cạnh cửa chính có bếp nấu nướng, chạn bát và buồn ngủ của
chủ nhà. Cịn trong gian mở cửa chính có bàn thờ gia tiên, buồn ngủ của các cơ
gái bồ đựng thóc, bên cạnh bàn thờ gia tiên thường bố trí nơi ngủ cho con trai lớn
tuổi, cũng có thể là nơi ngủ của khách. Đối với loại nhà ba hoặc bốn gian cách bố
trí mặt bằng cũng tương tự hai gian, chỉ khác nhau ở một số chi tiết và diện tích
sinh hoạt của loại nhà này thì rộng rãi thống mát hơn. Do nhà 3 gian nên vị trí
cửa chính thường được bố trí ở gian giữa, ngay phía trước nhà. Toàn bộ gian giữa
để đặt bàn thờ gia tiên ở trên vách đối diện với cửa chính, rồi đến nên tiếp khách
8


ở đó các gia đình thường bố trí bàn, ghế để tiếp khách. Gian ở phía trên bên trái
của cửa chính có bồ thóc, buồn ngủ của vợ chồng con trai và buồng ngủ của các
cô con gái. Gian ở bên phải cửa chính có bếp nấu nướng, nơi để nước sinh hoạt
và bố trí nơi ngủ ở gần bàn thờ tổ tiên cho các con trai. Bên cạnh gian này có thể
có một gian phụ dùng làm buồn ngủ cho chủ nhà và cất giữ đồ đạc của gia đình.
Tùy theo sự thuận tiện cho việc đi lại, nhiều gia đình cịn mở thêm cửa phụ phía
có nhiều ánh nắng mặt trời để dựng sàn phơi gần đó. Dưới gầm nhà sàn, người Lô
ở Hà Giang tận dụng để phục vụ cho công việc xay giã gạo nấu cám lợn, nấu rượu,
làm nơi nhốt giữ gia cầm và cất giữ nông cụ.
Nhà sàn của người Lô Lô ở Mèo Vạc có nhiều yếu tố tương đồng với nhà

sàn của một số tộc người khác: nền nhà có cấu trúc kiên cố hơn, cột được kê trên
hòn đá tảng, sàn bằng gỗ hay tre, mái lợp cỏ gianh hay ngói máng, thậm chí lợp
bằng tấm fipproximang. Về mặt bằng dưới sàn được sử dụng làm bếp lò nấu cám
lợn, nhốt gia súc, gia cầm, để cối xay giã gạo và là nơi cất giữ những nông cụ
cùng các loại đồ dùng sinh hoạt khác của gia đình. Sàn là mặt bằng chính để ăn ở,
ngủ nghỉ và thực hiện các sinh hoạt, đồng thời sàn cũng là nơi cất giữ lương thực
và các loại đồ gia dụng quan trọng.
Về cấu tạo bộ khung của ngôi nhà, nếu dựa vào cấu trúc của vì kèo thì có 2
loại nhà chính: vì kèo ba cột và vì kèo nhiều cột. Trong đó, loại nhà vì kèo ba cột
là phổ biến của người Lơ Lơ xã Tín Cái huyện Mèo Vạc. Ngồi ra cịn có loại vì
kèo 5 cột và nhiều cột trốn. Với loại nhà vì kèo 3 cột, cấu trúc đơn giản hơn,
thường chỉ có 2 hoặc 3 gian, 2 mái và cầu thang lên sàn với số bậc lẽ, nhưng cũng
có vài nhà có 4 gian- gian thứ tư thường là gian phụ. Nhìn chung, nhà sàn của
người Lơ Lơ ở nước ta có cấu trúc khá đa dạng trong đó đơn giản nhất là loại nhà
vì kèo 3 cột. Cịn loại nhà sàn có cấu trúc phức tạp hơn thường là loại vì kèo có
cấu trúc nhiều cột, kể cả cột trốn.
Người Lơ ở Hà Giang bố trí mặt bằng sinh hoạt trong nhà sàn khá thống
nhất: nhà có một hoặc hai cửa ra vào, ít cửa sổ, hai bếp, có sự quy định rõ ràng về
nơi để đồ đạc và nơi ngủ của các thành viên, cầu thang lên sàn thường bắt trực
tiếp lên cửa ra vào trên sàn. Với loại nhà hai gian, hiện nay chỉ còn tồn tại dạng
nhà sàn, có đặc điểm là cửa chính nằm ở một trong hai gian và được bố trí ở phía
trước nhà. Gian bên cạnh cửa chính có bếp nấu nướng, chạn bát và buồn ngủ của
chủ nhà. Còn trong gian mở cửa chính có bàn thờ gia tiên, buồn ngủ của các cơ
gái bồ đựng thóc, bên cạnh bàn thờ gia tiên thường bố trí nơi ngủ cho con trai lớn
9


tuổi, cũng có thể là nơi ngủ của khách. Đối với loại nhà ba hoặc bốn gian cách bố
trí mặt bằng cũng tương tự hai gian, chỉ khác nhau ở một số chi tiết và diện tích
sinh hoạt của loại nhà này thì rộng rãi thống mát hơn. Do nhà 3 gian nên vị trí

cửa chính thường được bố trí ở gian giữa, ngay phía trước nhà. Tồn bộ gian giữa
để đặt bàn thờ gia tiên ở trên vách đối diện với cửa chính, rồi đến nên tiếp khách
ở đó các gia đình thường bố trí bàn, ghế để tiếp khách. Gian ở phía trên bên trái
của cửa chính có bồ thóc, buồn ngủ của vợ chồng con trai và buồng ngủ của các
cô con gái. Gian ở bên phải cửa chính có bếp nấu nướng, nơi để nước sinh hoạt
và bố trí nơi ngủ ở gần bàn thờ tổ tiên cho các con trai. Bên cạnh gian này có thể
có một gian phụ dùng làm buồn ngủ cho chủ nhà và cất giữ đồ đạc của gia đình.
Tùy theo sự thuận tiện cho việc đi lại, nhiều gia đình cịn mở thêm cửa phụ phía
có nhiều ánh nắng mặt trời để dựng sàn phơi gần đó. Dưới gầm nhà sàn, người Lô
ở Hà Giang tận dụng để phục vụ cho công việc xay giã gạo nấu cám lợn, nấu rượu,
làm nơi nhốt giữ gia cầm và cất giữ nông cụ.
Không chỉ ở nhà sàn, đối với người Lô Lô ở Hà Giang, kiểu nhà nền đất
cũng là một loại nhà ở phổ biến. Nhà nền đất của họ phổ biến có cấu trúc dạng vì
kèo 4 cột và một cột trốn. Đặc biệt có loại nhà có cấu trúc mỗi vì kèo 5 cột và một
cột hiên. Nhà thường chỉ có 3 gian và có nhà 4 gian và phần lớn những nhà này
được bố trí thêm một gian phụ để trở thành nhà 5 gian. Theo người Lô Lô ở Hà
Giang, chỉ trường hợp vợ hay chồng đã chết mới được ở loại nhà hai cháy, nếu
khơng thì chỉ được làm một cháy (tức một gian phụ). Nhưng chủ yếu các ngôi nhà
của người Lô Lô ở Hà Giang thường thuộc loại nhà 2 cháy, đây cũng chính là
điểm khác so với nhà ở của người Lô Lô ở tỉnh Cao Bằng. Có nhiều ngơi nhà nền
đất của người Lô Lô thường cao hơn so với nhà trệt của người Hmong và người
Dao. Nhà nền đất của họ thường có tường đất, mái lợp ngói âm dương, rạ, tương
đối cao tráo, thoáng mát vừa đảm bảo đủ ánh sáng, vừa có gác xếp giống như tầng
sàn của ngơi nhà sàn để làm chổ cất giữ lương thực và nhiều đồ dùng của gia đình.
Có lẽ đây vẫn cịn là một thói quen sống ở nhà sàn vẫn cịn lưu lại trong tâm lí của
người Lơ Lơ ở Mèo Vạc, Hà Giang.
Khác với nhà sàn, nhà trệt có mặt bằng sinh hoạt thường được bố trí ở tầng
nền đất, còn gác xép chỉ để cất giữ lương thực và đồ đạc của gia đình. Cách bố trí
cũng tương tự như nhà sàn, ở nhà trệt, cửa chính đươc mở ở gian giữa và trong
gian này có bàn thờ gia tiên, bàn tiếp khách, giường ngủ của con trai lớn tuổi, có

thể có thêm giường khách ở ngay gian cạnh. Gian bên phải hoặc bên trái của gian
giữa có bếp sưởi và buồn ngủ của gia chủ. Trong gian còn lại, có bếp nấu nướng,
10


bếp lị, buồng ngủ của bà, các cơ con gái hay của đơi vợ chồng trẻ. Nơi này cịn
là nơi để các đồ dùng nhà bếp như bát, xoong, nồi, chảo và bể nước. Khơng ít nhà
cịn mở cửa phụ ở gian bếp nấu nướng hay bếp lò để tiện đi lại lấy nước và chăn
nuôi. Loại nhà 4 gian cũng tương tự, cối xay cối giã gạo nông cụ được để ở ngồi
hiên. Do nơi cư trú có địa hình dốc, nhiều đá vơi nên việc sử dụng phần đất xung
quanh nhà của người dân nơi đây cũng tương đối thống nhất và tương đồng với
nhiều tộc người. Các ngơi nhà đều mở cửa chính theo hướng chân đồi hoặc chân
núi, chuồng trại gia súc, gia cầm được bố trí phía trước nhà hoặc phía bên cạnh.
Cịn phần đất bên phía ngồi được tận dụng làm vườn trồng rau trồng cây ăn quả
hoặc làm nương rẫy.
Khởi dựng một ngôi nhà mới đối với người Lô Lô là công việc hệ trọng,
trong đó đáng chú ý nhất là các khâu chọn đất làm nền nhà, lấy nguyên vật liệu,
khởi công xây dựng. Tất cả các khâu này đều thấy có sự ảnh hưởng từ nhiều yếu
tố tín ngưỡng. Nếu khơng đáp ứng được tất cả các yếu tố đó thì ngôi nhà mới được
dựng lên không phải để ở mà chỉ để sinh hoạt cộng đồng như nhà văn hóa thôn,
trường học. Trước hết, họ xem hướng của miếng đất phải phù hợp để mở cửa
chính, hướng mở cửa chính thường theo tuổi của chủ nhà, nếu hướng Đông là đẹp
nhất, vì đó là hướng chào đón ánh nắng mặt trời, đồng thời đó cũng là hướng
tượng trưng cho sự phát triển, họ cịn cho rằng hướng mở cửa chính cần nhìn
thẳng vào đồi hoặc núi, kị nhìn thẳng vào đỉnh núi hoặc tảng đá, nhất là nhòm vào
hang đá. Theo người Lơ Lơ ở Hà Giang, có nhiều cách để kiểm tra miếng đất đã
chọn để làm nhà, trong đó phổ biến là dựa vào truyền thống tín ngưỡng. Về cơ
bản, tâp quán kiểm tra miếng đất để làm nhà mới của người Lô Lô cũng tương tự
như tộc người Dao, Hmong, chứng tỏ có sự tương đồng về văn hóa của nhiều tộc
người khác nhau.

Cách thể hiện cuộc sống sinh hoạt trong ngôi nhà của mỗi tộc người lại có
những nét riêng. Một trong những đặc điểm thể hiện rõ nét nhất tập quán sinh hoạt
của người Lô Lơ là cách bố trí những chiếc giường ngủ cho các thành viên trong
gia đình. Họ thường căn cứ vào số lượng các thành viên trong gia đình mà đặt số
lượng giường ngủ cho thích hợp.
2.3.2.2. Cơng cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt
Công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt là những vật phẩm gắn liền với nhà
ở, là những dụng cụ chủ yếu phục vụ đời sống hằng ngày của tộc người Lô Lô,
Hà Giang. Công cụ sản xuất không chỉ đơn thuần là đồ dùng để kiếm kế sinh nhai,
11


mà nó cịn chứa đựng những biểu trưng của các đặc điểm văn hóa mang tính địa
phương và tính tộc người. Các công cụ chủ yếu mà người Lô Lô thường dùng:
dao búa, cuốc, cày, bừa, liềm. Có thể dựa vào các cơng đoạn trong q trình sản
xuất nơng nghiệp mà phân chia một cách tương đối thành những nhóm nông cụ
khác nhau. Phần lớn những nông cụ đều được người Lơ Lơ mua ở chợ, một số ít
do họ tự làm lấy như cày, bừa.
Dựa vào các công đoạn trong q trình sản xuất nơng nghiệp, mà phân chia
thành những nhóm nơng cụ khác nhau. Những nơng cụ dùng để phát cỏ, chặt cây
gồm có dao và búa. Tiếp đến là các loại nông cụ dùng để làm đất là cuốc, cày và
bừa. Nông cụ làm cỏ và gieo trồng thường là cuốc bướm, cuốc bướm cùng kiểu
với cuốc bàn, chỉ có điểm khác biệt là lưỡi rộng hơn nhiều và dùng để rẫy cỏ. Cịn
đối với loại nơng cụ thu hoạch thì từng theo loại cây trồng mà sử dụng một số loại
dụng cụ thu hoạch cho thích hợp. Bởi vậy dụng cụ thu hoạch của họ khá đa dạng.
cơng đoạn thu hoạch nơng sản, có lẽ khơng thể thiếu các loại đồ để đựng, vận
chuyển và cất giữa như bàn đạp lúa, gùi, bao tải, đòn gánh. Ngồi những cơng cụ
sản xuất điển hình thì trong gia đình người Lơ Lơ cũng khơng thể thiếu một số đồ
dùng cần thiết để sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày. Cối, có hai loại: cối xay thóc
và cố xay ngơ, cối có thể làm bằng gỗ hoặc bằng đá. Chõ đồ mèn mén, xôi hay

đồ cơm tẻ, đồ cất rượu và mâm ăn cơm. Mâm ăn cơm của người Lơ Lơ có sự khác
biệt tương đối giữa những gia đình gia Lơ Lơ ở nhà nhà sàn và gia đình ở nhà trệt.
Người Lơ Lơ sử dụng một số phương tiện vận chuyển chủ yếu: gùi, túi, sọt.
Trước đây, người Lô Lô thường dùng sức người và sức ngựa để thồ hàng hóa.
2.3.2.3. Trang phục nam, nữ
Cùng với nhà ở, hệ thống nông cụ và phương tiện vận chuyển, trang phục
cũng là một trong nét độc đáo của văn hóa vật chất, tạo những sắc thái khác nhau
giữa các tộc người, thậm chí giữa các nhóm địa phương trong một tộc người. Mặc
dù có nhiều yếu tố tác động trong lịch sử và giao lưu văn hóa với nhiều anh em,
nhưng bộ trang phục của người phụ nữ Lô Lơ vẫn cịn mang nhiều nét truyền
thống và được nhiều người phụ nữ Lô Lô mặc. Sự biến đổi trong trang phục của
người phụ nữ Lơ Lơ tuy có những khơng nhiều, trở thành quy tắc trang trí trên
trang phục của đồng bào. Bộ y phục cổ truyền của người phụ nữ Lô Lô gồm: khăn,
áo, dây lưng, quần, váy, xà cạp và tạp dề. Khăn đội của người phụ nữ có màu
chàm hoặc đen với nhiều kích cỡ khác nhau. Khăn thường được trang trí khá cơng
phu, ở đoạn cuối của mỗi đầu, người ta người ta gắn các tua sợi màu có đính hạt
12


cườm và thêu hoặc đắp các mảnh vải nhỏ hình tam giác với nhiều màu sắc khác
nhau. Khi quấn quanh đầu thì hoa văn và hạt cườm đó khéo lộ ra ngồi.
Áo, được trang trí gần hết, chỉ cịn hai vai là màu nền của áo. Đặc biệt là
loại áo để mặc trong các dịp lễ hội luôn được thêu thùa kết hợp khâu táp vải màu
tạo các loại hoa văn được trang trí để làm đẹp. Thân trước và thân sau của áo được
trang trí cơng phu bằng các mảng màu hình tam giác khâu ghép lại với nhau. Quần
của người phụ nữ thường làm bằng vải màu chàm hoặc đen, cắt theo kiểu ống
chân què, ống dài hoặc ngắn tùy theo người sử, thường dài đến mắt cá chân, khơng
có túi, khơng thêu thùa hay khâu ghép vải màu trang trí. Trong lễ hội thì họ cũng
mặc kiểu quần này, nhưng ống rất rộng. Mảnh vải hình chữ nhật mà phụ nữ dùng
để buộc chùm ra phía ngồi sau khi mặc quần hoặc váy là tạp dề hay cịn gọi là

yếm quần. Tạp dề cũng được người Lơ Lơ trang trí sặc sỡ bằng các hoa văn thêu
kết hợp khâu ghép vải màu hình tam giác để thành các hình vng hoặc hình chữ
nhật. Phụ nữ Lơ Lơ, ở Mèo Vạc thường sử dụng chiếc dây lưng màu chàm hoặc
đen, hai đầu được trang trí khá cầu kì. Đó là một khổ vải cắt chéo và được may
cuốn để thành một ống dài. Còn xà cạp thường làm bằng vải hoa màu hơi tối hay
vải màu đen hoặc vải chàm. Xà cạp có đặc điểm là được khâu thành ống giống
như ống chân. Ngồi những trang phục nói trên, thì có thêm giày. Mặc dù thường
ngày người phụ nữ Lơ Lơ ít đi giày, nhưng trong ngày lễ, tết cổ truyền hoặc trong
những ngày trời lạnh họ có đi giày vải.
Qua các đặc điểm từng thành tố trong bộ trang phục của người Lơ Lơ có
thể nhận thấy rằng, cách trang trí các họa tiết và màu sắc hoa văn trên khăn, áo,
quần, dây lưng và tạp dề mặc dù rất phong phú, nhưng đều phải tuân theo những
quy ước bắt buộc mang tính bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này đã trở thành thói
quen tự nhiên và đã ăn sâu vào trong tâm thức của người phụ nữ Lơ Lơ. Thói quen
đó đã được hình thành từ xa xưa trong lịch sử tộc người và trao truyền qua nhiều
thế hệ.
Gắn với hình ảnh trang phục của người phụ nữ, trang phục của người đàn
ông Lô Lô có một số sự khác biệt. Bộ trang phục truyền thống của người đàn ơng
Lơ Lơ có màu chàm là màu chủ đạo. Họ thường đội khăn dài giống như khăn của
người phụ nữ, màu chàm hay đen, có đính nhiều tua màu và thêu trang trí hoa văn
ở hai đầu. Do cư trú xen kẽ với đồng bào tộc người khác, đặc biệt là tộc người
Hmong, nên từ lâu, nam giới Lô Lô ở huyện Mèo Vạc ăn vận những bộ y phục
tương đồng, gần gũi với nhiều tộc người như Hmong, Tày... hơn nữa đối với người
13


đàn ông Lô ở các lứa tuổi, y phục của họ hầu như khơng có sự thay đổi về cách
cắt may, chỉ khác biệt về kích cỡ to nhỏ để phù hợp với người mặc. Họ thường
đội một loại khăn vải bằng vải màu chàm, cũng có thể đội bất kì loại mũ nào mà
người đàn ơng trong vùng thường đội, nhất là mũ nồi. Khi đội thì quấn quanh đầu

như đội khăn xếp của người Việt xưa kia. Lớp người già và trung niên thường đội
mũ nồi hay mũ dạ, mũ lưỡi trai của Trung Quốc còn lớp thanh niên thì để đầu
trần. Riêng trẻ em thì đội loại mũ mà trẻ em Hmong vẫn đội nhưng do mẹ và bà
làm cho, gần đây, họ có thể đội bất kể loại mũ được mua từ chợ.
Quần của họ là loại quần truyền thống có ống rộng giống như quần của đàn
ông người Nùng hoặc người Hmong. Quần màu đen hay màu chàm, cạp lá tọa,
ống rộng, dài đến mắc cá chân, khơng có túi. So với áo, thì việc cắt may quần còn
đơn giản hơn nhiều. Áo của người đàn ông Lô Lô ở Hà Giang giống áo của đàn
ông Hmong. Áo cắt dạng tứ thân từ vải bông màu chàm hoặc màu đen, cổ tròn,
ống tay khá hẹp, xẻ ngực, cài khuy bằng vải hoặc đồng đối với những gia đình
khá giả, áo xẻ tà, thường có bốn túi khơng nắp ở phía trước ngực. Việc may chiếc
áo này cũng khá đơn giản, bởi vì khơng phải thêu hoa văn trang trí. Mặc khác,
việc mua vải sợi cũng khơng mấy khó khăn nên các gia đình Lơ Lơ vẫn duy trì
tập quán tự các may cho các thành viên nam ở mọi lứa tuổi. Bộ trang phục của
người Lơ Lơ là một sáng tạo nghệ thuật, địi hỏi người phụ nữ khơng chỉ cần có
lịng kiên trì, mà cịn phải khéo léo, có trình độ thẩm mĩ cao. Đây là một trong
những tiêu chuẩn quan trọng để các chàng trai Lơ Lơ kén vợ.
Văn hóa được sáng tạo theo cái đẹp, đồ trang sức do con người tạo nên đều
nhằm tơn vinh thêm cái đẹp của chính mình và đây cũng là một nét văn hóa. trang
sức của người Lô Lô cũng không kém phần phong phú. Phụ nữ Lô Lô sử dụng
khá nhiều loại trang sức bằng bạc. Mỗi người phụ nữ thường có hai đến bốn chiếc
vịng cổ, một hoặc hai đơi khun tai, nhiều chiếc cúc áo bằng đồng, nhiều loại
nhẫn, dây chuyền và một chùm dây xà tích bằng bạc với nhiều bộ đồ khác nhau
được làm từ bạc như những chuông nhạc nhỏ, que tăm, dao con, cánh hoa hình
bướm. Người phụ nữ còn sử dụng khá nhiều loại tua sợi, chỉ hay len nhiều màu
khác nhau, đặc biệt là hạt cườm với khơng ít màu sắc để trang trí cho bộ y phục
của mình.
Khác với phụ nữ, nam giới Lơ Lơ thường đeo vòng tay bằng bạc hay bằng
đồng và dùng khá nhiều nhẫn. Giống như nhiều tộc người, đồ trang sức là vật
dụng không thể thiếu đối với người Lô Lô trong mọi dịp tết, nhằm tô thêm vẻ đẹp

14


cho con người. Mỗi khi mặc bộ trang phục truyền thống, nữ giới Lơ Lơ thường
đeo cả hai vịng cổ to và dây chuyền hoặc xà tích tạo thành một khoảng sáng lấp
lánh trước ngực để trở nên duyên dáng hơn. Đồ trang sức của họ đều rất có giá trị
về mặt vật chất, kinh tế.
2.3.2.4. Tập quán ăn uống
Trong ăn, uống và hút, mỗi tộc người có những quan niệm và tập quán riêng
phụ thuộc vảo sự phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với nhiều tộc người khác
nhau. Nguồn lương thực, thực phẩm của người Lô Lô chủ yếu là các sản phẩm từ
trồng trọt như lúa, ngô, khoai, sắn. Do đặc điểm của điều kiện tự nhiên, phần lớn
người Lô Lô ở Hà Giang thường ăn ngơ, cịn người Lơ Lơ ở Cao Bằng lại ăn gạo
là chính. Từ ngơ họ có chế biến thành nhiều món như cơm ngơ, bánh ngơ hay
cháo ngơ, thậm chí nấu độn với các loại khoai hay củ. Từ gạo họ cũng có thể chế
biến thành nhiều món như cơm, cháo, bánh hoặc gạo nấu độn với ngô, khoai. Họ
rất thích ăn đồ nếp, nhất là xơi nhiều màu, bánh dầy, bánh chưng. Với người Lô
Lô cũng như nhiều tộc người trong vùng, nguồn thực phẩm chủ yếu là các sản
phẩm chăn nuôi và tự gieo trồng. Họ nuôi khá nhiều lợn, gà, vịt, ngan, bị, dê, với
mục đích để cung cấp thực phẩm hằng ngày và cho các nghi lễ, khi gia đình có
khách đến thăm. Ngồi chăn nuôi, việc gieo trồng các loại rau cỏ và cây ăn quả ở
quanh nhà hoặc trên nương rẫy như đậu các loại, mướp, rau cải, bầu, bí, rau dền
cũng góp phần quan trọng vào việc cải thiện bữa ăn hằng ngày. Trước kia khi rừng
cịn nhiều loại chim, thú thì việc tìm kiếm rau hoặc săn bắt thú rừng hay đánh cá
ở dưới sông, suối là việc không thể thiếu được trong hoạt động hàng ngày của
người Lô Lô. Những hoạt động đó nhằm mục đích vừa để cải thiện bữa ăn và bảo
vệ mùa màng, vừa đáp ứng các sở thích về săn bắn, hái lượm mà từ lâu đời đã trở
thành thói quen được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Lương thực và thực phẩm của người Lô Lô được đáp ứng từ ba nguồn là tự
trồng trọt và chăn ni, tìm kiếm từ trong thiên nhiên và thơng qua trao đổi mua

bán ở chợ. Trong đó, trồng trọt và chăn ni dưới hình thức tự cung, tự cấp là
nguồn chủ yếu. Với nguồn lương thực, thực phẩm phong phú như vậy đã ra nhiều
điều kiện thuận lợi cho việc chế biến chế biến nhiều món ăn, đáp ứng các nhu cầu
dinh dưỡng cần thiết cho con người nơi đây. Những món ăn trong ngày thường
của họ là những món ăn có nguồn gốc chủ yếu là từ tinh bột được chế biến gạo,
ngô, khoai, sắn. Đây là những món ăn chính và chiếm vị trí quan trọng trong cơ
cấu bữa ăn, bởi vì bất kì bữa ăn nào cũng có. Mặt khác, nếu gia đình nào thường
15


×