1. Mơi trường chính là ngơi nhà chung của con người và tồn thể sinh
vật trên trái đất
Nếu khơng có môi trường chúng ta chẳng thể nào sống và phát
triển được. tuy nhiên, chính sự phát triển của khoa học công nghệ
nhu cầu đời sống nâng cao của con người đã vơ tình gây nên hàng
loạt những tác động xấu làm môi trường ngày càng tệ đi
2. Nguồn cung ứng tài nguyên cần thiết cho đời sống, các hoạt động
sản xuất của con người
Đây chính là một trong những chức năng này , cuộc sống con
người mới được đảm bảo phát triển
- Rừng: cung cấp nước bảo tồn độ phì nhiêu và đa dạng sinh học
của đất, cung cấp nguồn củi gỗ dược liệu và cải thiện điều kiện
sinh thái
- Động thực vật cung cấp lương thực thực phẩm và các nguồn
thủy hải sản và nơi vui chơi giải trí
- Khơng khí nhiệt độ nước gió nằn lượng mặt trời có chức năng
duy trì các hoạt động trao đổi chất
- Các quặng kim loại cung cấp nguyên liệu cho hoạt động sản.
3. Nơi chứa đựng các loại chất thải phát sinh trong quá trình sống lao
động và sản xuất
Các loại chất thải nước thải phát sinh từ sinh hoạt hay hoạt
dodognj công nghiệp sẽ được phân hủy thành chất đơn giản hơn,
tham gia vào các q trình sinh địa hóa. Thế nhưng nhìn chung q
trình này khơng cịn diễn ra theo đúng cơ chế tự nhiên của nó nữa,
dân số tang nhanh cơng nghiệp phát triển chóng mặt đã dẫn đến
lượng chất thải xả ra môi trường vượt mức kiểm sốt chưa kể hành
động vơ ý thywcs của một bộ phận con người đã khiến môi trường
ô nhiễm đến mức báo động.
Thậm chí các nmhaf khoa học đã cảnh báo nếu chúng ta khơng có
biện pháp khắc phục và nâng cao ý thức bảo vệ thì thiên nhiên sẽ
quay trở lại phạt con người. hiện nay sự ra đời của nhiều cơng ty
mơi trường tphcm đang góp phần đáp ứng yêu cầu xử lý thải ngày
càng tang cao.
4. Nơi lưu trữ cung cấp nguồn thông tin cho con người
Mọi hoạt động kể từ jhi con người xuất hiện trải qua các thời kì
tiến hóa từ ngàn đời xưa các nền văn minh đế chế đều được ghi lại
rõ rang bằng những vật chứng cụ thể. Có được điều này chính là
nhờ cuốn sách khổng lồ của mơi tường
Nhờ có mơi trường chúng ta mưới có thể lưu trữ những nguồn gen
các loài động thực vật các vẻ đepj cảng quan có giá trị thẩm mỹ
các hệ sinh thái tự nhiên và nhận tạo. vì vậy chức năng của môi
trường này luôn được đánh giá cao.
5. nơi bảo vệ comg người và sinh vật khỏi những tác dộng từ bên
ngồi
Nơi con người sinh sống và phát triển chính là mototj trong những
hành tinh của hệ mặt trời trái ddaats. Chính vì vậy hành tinh này
cũng sẽ chịu các tác động từ vũ trụ nhưu tia cực tím lực hút . nhờ
có mơi trường của chúng ta hồn tồn an toàn trước các tác nhân
nguy hiểm.
Câu 2
1. Những nguyên nhân phổ biển tồn cầu của suy thối đa dạng sinh
học và biểu hiện của chúng ở Việt Nam
Suy thoái đa dạng sinh học diễn ra do tác động của hàng loạt nguyên
nhân khác nhau. Sự thay đổi khí hậu, những trận động đất hay các thảm
hoạ thiên nhiên khác đều có thể gây suy thối đa dạng sinh học. Tuy
nhiên, thiên nhiên có thể tạo ra sự cân bằng trở lại. Điều đáng lo ngại là
các nguyên nhân gây suy thối đa dạng sinh học từ phía con người.
Cũng là một loài trong tự nhiên, sống phụ thuộc vào tự nhiên, vào đa
dạng sinh học song con người là loài tác động xấu nhất đến đa dạng sinh
học. Các cơng trình nghiên cứu thực hiện ttong khn khổ của Ngân
hàng phát triển châu á (ADB) đã nêu ra 6 ngun nhân phổ biến tồn cầu
sau đây của suy thối đa dạng sinh học do tác động của con người.
1.1. Sự gia tăng dân số diễn ra khơng bình thường trên thể giới:
Sự gia tăng dân số những năm gần đây trên thế giới đang diễn ra có
nhiều biến động đặc biệt ở châu Phi, châu á và châu Mỹ Latin: Trong
những thập kỉ gần đây, dân số thế giới tăng một cách nhanh chóng và
được cảnh báo như là mối đe doạ đối với sự phát triển của nhiều quốc
gia. Dự đốn trong ba thập kỉ tới sẽ có thêm một tỉ người nữa bổ sung
cho dân số hiện có của trái đất. Sự gia tăng dân số với nhu cầu tiêu thụ
các hệ sinh vật ngày càng tăng. Các nguồn thực vật, động vật có giới hạn
sẽ khơng chịu được sóc ép của gia tăng dân số. Gia tăng dân số cũng
đồng nghĩa với cả việc tăng chất thải, tăng nguy cơ ô nhiễm dẫn đến sự
suy giảm các giống loài. Cả hai hệ quả này của gia tăng dân số là được
coi là thách thức lớn đối với đa dạng sinh học. Nguyên nhân sức ép dân
số biểu hiện khá đậm nét ở Việt Nam. Tốc độ tăng dân số của Việt Nam
từ năm 1994 đến năm 2004 đã tăng thêm 10 triệu người.Dự báo là với
tốc độ tăng dân số như hiện nay thì đến năm 2050, dân số Việt Nam sẽ là
158 triệu người.
1.2. Tác động của thương mại nông sản, lâm sản và hải sản:
Khi các cộng đồng không cách biệt, không giao lưu với nhau thì các sản
phẩm nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp chỉ đóng khung trong cộng
đồng. Vì vậy, nhu cầu khai thác hàng loạt để buôn bán, xuất khẩu quy
mô lớn không xảy ra. Tuy nhiên, khi các quốc gia phát triển với với
những lợi thế tương đối khác nhau, với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
tăng thì việc khai thác và mua bán các loại nông sản, lâm sản và hải sản
trở nên có quy mơ lớn hơn. Điều này đồng nghĩa với việc một số giống
lồi có thể bị hi sinh để nhường chỗ cho một vài giống lồi có thể phục
vụ cho nhu cầu phát triển thương mại của cộng đồng. Các cộng đồng có
thể hi sinh những giống lúa đặc hữu của mình để nhập và trơng những
giống lúa lai tạo có năng suất cao hơn phục vụ thương mại. Những cánh
rừng đước ngập mặn và những lồi mà cuộc sống gắn liền với chúng có
thể bị hi sinh để mang lại những sản lượng tôm lớn đủ cho xuất khẩu thu
ngoại tệ. Những tác động như thế này của thương mại nông sản, hải sản,
thuỷ sản tác động xấu đến đa dạng sinh học. Việc xuất khẩu cà phê với
lợi nhuận cao đã khiến cho diện tích đất trồng cà phê của Đắc Lắc tăng
từ 52.418 ha năm 1993 lên 156.230 ha năm 1996. Phần lớn diện tích
trồng cà phê là do phá rừng. Việc hoạch định các chính sách kinh tế
khơng thấy hết giá trị của môi trường và tài nguyên môi trường. Đây là
một thực tế dễ nhìn thấy ở các nước đang phát triển. Do nhu cầu phát
triển, nhiều quốc gia đang phát triển không thực sự chú trọng các khía
cạnh mơi ữường ttong các chính sách phát triển của mình. Việc thực hiện
chính sách mở cửa rừng cho các công ti xuyên quốc gia hay các công ti
nội địa khai thác gỗ và lâm sản rõ ràng khơng tính đến tác động xấu đối
với mơi trường nói chung và đa dạng sinh học nói riêng. Đối với Việt
Nam đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng xẩu tới đa
dạng sinh học. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu lâm thổ sản của nước ta
trong những năm 1976 - 1986 đã góp phần rất lớn trong việc giảm diện
tích rừng trong cả nước. Từ năm 1976 đến 1980 Việt Nam đã khai thác
và xuất khẩu 11.700m3 gỗ trịn. Quy mơ khai thác và xuất khẩu gỗ còn
tăng mạnh trong giai đoạn 1986 - 1991. Trong giai đoạn này, 412 lâm
trường đã khai thác gỗ xuất khẩu với số lượng tăng nhanh: Chỉ tính gỗ
trịn, năm 1986 là 22.000m3, năm 1988 là 17.000m3, năm 1991 là
240.000m3. Một số chính sách khác như chính sách đất đai, chính sách
hợp tác hố nơng nghiệp, chính sách khai hoang mở rộng diện tích trồng
lúa do thực hiện khơng tốt cũng đã góp phần thu hẹp diện tích rừng, tác
động xấu đến đa dạng sinh học.
1.3.Sự bất bình đẳng trong việc sở hữu, quản lí và phân phối nguồn
lợi :
Việc bảo tồn và sử dụng các nguồn sinh học mang lại nhiều lợi ích kinh
tế to lớn. Tuy nhiên, phần lớn các lợi ích này lại nằm ttong tay những
nhóm các nhà kinh doanh chứ không thuộc về những cộng đồng đang
sống và bảo tồn các nguồn sinh học. Trên phạm vi quốc tế, nguồn lại của
đa dạng sinh học thuộc về các nước phát triển chứ không phải các nước
đang phát triển mặc dù phân lớn các nguồn lợi sinh học lại thuộc sở hữu
của các nước phát triển. Các nguồn sinh học được đưa từ các nước đang
phát triển sang các nước phát triển dưới dạng nguyên liệu thô, rất rẻ tiên
song sau khi được chế biến, được chuyển sang các nước đang phát triển
với giá cao hơn nhiều lần. Chính sự bất cân bằng này trong phân phối
các nguồn sinh học đã khiến cho các cộng đồng không cịn quan tâm tói
việc bảo tồn đa dạng sinh học.
1.4.Tình trạng thiếu kiến thức và sử dụng kiến thức bảo vệ đa dạng
môi trường sinh học:
Đây là nguyên nhân phổ biến nhất đối với các nước nghèo, đang phát
triển. Sự kém hiểu biết của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng về ảnh
hưởng tiêu cực của suy thối mơi trường nói chung và và đa dạng sinh
học nói riêng khiến họ khai thác hoặc huỷ diệt môi trường sinh thái một
cách vô thức. Việc đánh cá bằng chất nổ, bằng điện là ví dụ sinh động
cho tình trạng kém hiểu biết này. Việc đốt cả cánh rừng chỉ vì khai thác
một tổ ong mật cũng là ví dụ khơng xa lạ, nhất là đối với Việt Nam
chúng ta. Việc dùng hoá chất, điện, chất nổ để khai thác thuỷ sản là hiện
tượng hiếm thấy ở các nước trên thế giới song lại rất phổ biến ở nhiều
địa phương nước ta. Những sự khai thác mang tính huỷ diệt, thiếu kiến
thức và thiếu ý thức đang đe doạ nghiêm trọng đến hệ sinh thái đầm phá
Tam Giang - một trong những hệ sinh thái lớn đầm phá lớn nhất khu vực
Đơng Nam Á. Vói diện tích 248,7 km2 phá Tam Giang là noi sinh
trưởng của nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm của thế giới và của
Việt Nam. Tuy nhiên, tình trạng khai thác bừa bãi đang diễn ra ở vùng
phá Tam Giang. Riêng năm 2004, chỉ riêng các vụ vi phạm như dùng
xung điện, chất nổ để khai thác đã được phát hiện và xử lí là 200 vụ
bằng khoảng 1/10 số vụ vi phạm. Chính vì tình trạng khai thác trái pháp
luật, ưái quy hoạch như vậy nên nhiều loài động thực vật quý hiếm này
đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Các hệ thống pháp lí và các định
chế tạo điều kiện cho việc khai thác không bền vững: Pháp luật của
nhiều quốc gia chưa thực thực chú ý đến việc bảo vệ mơi trường, đến
khía cạnh phát triển bền vững. Các hành vi chống lại môi trường, chông
lại đa dạng sinh học chưa được xử lí hoặc được xử lí khơng đủ sức răn
đe.Việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng các cơng
trình hạ tầng chưa được gắn với những đánh giá tác động môi trường.
Nhiều công trình cơng nghiệp đã gây tổn hại nghiêm trọng đến đa dạng
sinh học.
2. Nguyên nhân đặc trưng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam ?
Bên cạnh những nguyên nhân nêu trên, suy thoái đa dạng sinh học ở Việt
Nam còn xảy ra do các nguyên nhân đặc thù sau:
+ Hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại cho môi trường ở Việt Nam:
Việc thiêu huỷ hàng triệu ha rừng bằng bom napan và chất độc màu da
cam do Mỹ tiến hành đã để lại di chứng nặng nề cho các hệ sinh thái ở
nước ta. Tính từ năm 1961 đến năm 1975, chiến ttanh do Mỹ thực hiện
đã huỷ diệt 4,5 triệu ha rừng ở Việt Nam. Khó có thể khắc phục được
hậu quả này trong vài thập kỉ. Khơng có quốc gia nào trên thế giới lại
chịu sự tàn phá nặng nề của các cuộc chiến tranh lâu dài như đất nước ta
đã trải qua kể cả về tổn thất về tài sản, con người và mơi trường sinh
thái.
+ Tình trạng ơ nhiễm nhanh chóng do sự phát triển các ngành cơng
nghiệp chế biến mà khơng có những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn từ
đầu: Các ngành công nghiệp giấy, rượu bia, thuộc da khai thác quặng đã
làm cho hệ sinh thái tồn tại ở các vùng phụ cận bị tổn hại nặng nề. Việc
đổi lấy sự phát triển công nghiệp bằng sự đi xuống của môi trường là
một trong những điểm dễ nhận thấy ở Việt Nam trong vài thập kỉ vừa
qua. Đây cũng có thể coi là một trong những nguyên nhân đặc thù của
suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam.
+ Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc ít người mà nhiều nhóm trong
số đó có tập quán du canh, du cư: Trong số 54 dân tộc sinh sống ở Việt
Nam thì có 50 dân tộc với khoảng 9 triệu người có tập quán du canh, du
cư. Các cộng đồng này thường sống ở vùng rừng núi. Việc di chuyển của
họ từ nơi đang sống sang nơi khác kéo theo sự mất đi của một diện tích
rừng nhất định mà họ chặt đốt để làm nương rẫy. Cứ vài ba năm, họ lại
di chuyển một lần như vậy. Chính tập quán này cũng gây tác động không
nhỏ đến việc chặt phá rừng, tác động xấu đến đa dạng sinh học ở nước
ta. Chỉ riêng hình thức du canh, du cư đã biến 15 triệu ha rừng thành đồi
trọc.
+ Nhu cầu thưởng thức các món ăn, đồ uống chế biến từ động thực vật
hoang dã đã phát triển mạnh ở nước ta: Nhà hàng đặc sản thú rừng mọc
lên khắp nơi và trở thành nguồn tiêu thụ mạnh các loài động vật hoang
dã. Nhiều người dân đã tìm mọi cách săn thú rừng quý hiếm để bán cho
các nhà hàng đặc sản hoặc bán cho các tổ chức xuất khẩu bất hợp pháp
sang Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và các nước trong khu vực.
Điều này dẫn tới nguy cơ là một số loài thú quý hiếm của nước ta đang
đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
+ Sự thoái hoá nguồn gen do nhu cầu: Thực ttạng vấn đề nguồn gen
trong sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam là một nguyên nhân của suy
thoái đa dạng sinh học. Đây cũng là nguyên nhân phổ biến toàn cầu song
biểu hiện ở Việt Nam với những đặc thù riêng. Việt Nam vào những năm
1970 - 1976, sản xuất 15 triệu tấn lương thực là mục tiêu xa vời. Để đảm
bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, nền nông nghiệp
nước ta đã sử dụng các giống mới có biến đổi gen hay lai tạo khoa học,
các giống nhập nội có năng suất cao, chất lượng tốt. Hiện nay có tới
70% giống dùng trong nơng nghiệp nước ta là những giống có áp dụng
tiến bộ khoa học và biến đổi gen. Tuy nhiên, thực tế này cũng dẫn đến sự
biến mất hoặc suy thoái các giống bản địa truyền thống. Những giống
bản địa này có nhiều thuộc tính q giá như khả năng thích nghi với khí
hậu nhiệt đới, khả năng chống chịu sâu bệnh đặc thù của khí hậu và mơi
trường nhiệt đới gió mùa.
+ Sự xâm nhập các lồi lạ vào mơi trường sinh thái Việt Nam. Sự xâm
nhập các lồi lạ vào mơi trường của Việt Nam có vẻ như tạo thêm sự đa
dạng sinh học vì có thêm những loài mới. Loài lạ được hiểu là loài tồn
tại bên ngồi mơi trường của các lồi bản địa. Tuy nhiên, sự xuất hiện
của lồi lạ nếu khơng được kiểm sốt sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến
đa dạng sinh học. Sự phát triển quá nhanh của loài lạ này trong môi
trường mới tạo ra nguy cơ đối với các giống loài khác vốn tồn tại trong
khu vực bản địa của chúng. Ở Việt Nam, việc kiểm sốt lồi lạ xâm nhập
chưa được chú trọng đúng mức. Người ta có thể đem vào mơi trường bất
kì động thực vật hay vi sinh vật nào, miễn là nó khơng phải là lồi gây
bệnh dịch hoặc đang trong tình trạng bị bệnh. Song trên thực tế, ngay cả
khi một lồi lạ khơng hề có khả năng gây bệnh dịch khi xâm nhập vào
các hệ sinh thái ở nước ta thì cũng khơng thể coi là an tồn. Tác động
của các lồi lạ khơng dễ thấy trước. Trong những năm 1994 - 1995, nạn
dịch ốc bươu vàng trên miền Bắc Việt Nam là một minh chứng cho vấn
đề này. Sự xâm nhập và tác hại của ốc bươu vàng ở nước ta trong những
năm đó là ví dụ điển hình. Nó được nhập vào Việt Nam với mục đích
kinh tế, được nhân giống và phổ biến khắp cả nước. Do sự sinh sản
nhanh và tạp ăn, ốc bươu vàng đã lan rộng với tốc độ vơ cùng nhanh,
khơng thể kiểm sốt. Thực tế, nó trở thành lồi cơn trùng gây hại vơ
cùng nguy hiểm đối vói cây lúa nước. Hàng chục ngàn ha lúa nước trên
nhiều tỉnh có nguy cơ mất ttắng. Sự xuất hiện các loài lạ rõ ràng đang là
một trong những nguyên nhân đáng lo ngại cho tình trạng suy thối mơi
trường ở nước ta.
3. Chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát triển bền vững về đa
dạng sinh học:
-Ưu tiên bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện
cho một vùng sinh thái, bảo tồn loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý,
hiếm được ưu tiên bảo vệ; bảo đảm kiểm soát việc tiếp cận nguồn gen.
- Bảo đảm kinh phí cho hoạt động điều tra cơ bản, quan trắc, thống kê,
xây dựng cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học và quy hoạch bảo tồn đa
dạng sinh học; đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho khu bảo tồn, cơ sở bảo
tồn đa dạng sinh học của Nhà nước; bảo đảm sự tham gia của Nhân dân
địa phương trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch bảo tồn đa
dạng sinh học.
- Khuyến khích và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tri thức truyền thống vào
việc bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học.
- Phát triển du lịch sinh thái gắn với việc xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm
ổn định cuộc sống của hộ gia đình, cá nhân sinh sống hợp pháp trong
khu bảo tồn; phát triển bền vững vùng đệm của khu bảo tồn.
1. Những nguyên nhân phổ biển tồn cầu của suy thối đa dạng sinh
học và biểu hiện của chúng ở Việt Nam
Suy thoái đa dạng sinh học diễn ra do tác động của hàng loạt nguyên
nhân khác nhau. Sự thay đổi khí hậu, những trận động đất hay các thảm
hoạ thiên nhiên khác đều có thể gây suy thoái đa dạng sinh học. Tuy
nhiên, thiên nhiên có thể tạo ra sự cân bằng trở lại. Điều đáng lo ngại là
các nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học từ phía con người.
Cũng là một loài trong tự nhiên, sống phụ thuộc vào tự nhiên, vào đa
dạng sinh học song con người là loài tác động xấu nhất đến đa dạng sinh
học. Các cơng trình nghiên cứu thực hiện ttong khuôn khổ của Ngân
hàng phát triển châu á (ADB) đã nêu ra 6 nguyên nhân phổ biến tồn cầu
sau đây của suy thối đa dạng sinh học do tác động của con người.
1.1. Sự gia tăng dân số diễn ra khơng bình thường trên thể giới:
Sự gia tăng dân số những năm gần đây trên thế giới đang diễn ra có
nhiều biến động đặc biệt ở châu Phi, châu á và châu Mỹ Latin: Trong
những thập kỉ gần đây, dân số thế giới tăng một cách nhanh chóng và
được cảnh báo như là mối đe doạ đối với sự phát triển của nhiều quốc
gia. Dự đốn trong ba thập kỉ tới sẽ có thêm một tỉ người nữa bổ sung
cho dân số hiện có của trái đất. Sự gia tăng dân số với nhu cầu tiêu thụ
các hệ sinh vật ngày càng tăng. Các nguồn thực vật, động vật có giới hạn
sẽ khơng chịu được sóc ép của gia tăng dân số. Gia tăng dân số cũng
đồng nghĩa với cả việc tăng chất thải, tăng nguy cơ ô nhiễm dẫn đến sự
suy giảm các giống loài. Cả hai hệ quả này của gia tăng dân số là được
coi là thách thức lớn đối với đa dạng sinh học. Nguyên nhân sức ép dân
số biểu hiện khá đậm nét ở Việt Nam. Tốc độ tăng dân số của Việt Nam
từ năm 1994 đến năm 2004 đã tăng thêm 10 triệu người.Dự báo là với
tốc độ tăng dân số như hiện nay thì đến năm 2050, dân số Việt Nam sẽ là
158 triệu người.
1.2. Tác động của thương mại nông sản, lâm sản và hải sản:
Khi các cộng đồng không cách biệt, không giao lưu với nhau thì các sản
phẩm nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp chỉ đóng khung trong cộng
đồng. Vì vậy, nhu cầu khai thác hàng loạt để buôn bán, xuất khẩu quy
mô lớn không xảy ra. Tuy nhiên, khi các quốc gia phát triển với với
những lợi thế tương đối khác nhau, với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
tăng thì việc khai thác và mua bán các loại nông sản, lâm sản và hải sản
trở nên có quy mơ lớn hơn. Điều này đồng nghĩa với việc một số giống
lồi có thể bị hi sinh để nhường chỗ cho một vài giống loài có thể phục
vụ cho nhu cầu phát triển thương mại của cộng đồng. Các cộng đồng có
thể hi sinh những giống lúa đặc hữu của mình để nhập và trơng những
giống lúa lai tạo có năng suất cao hơn phục vụ thương mại. Những cánh
rừng đước ngập mặn và những lồi mà cuộc sống gắn liền với chúng có
thể bị hi sinh để mang lại những sản lượng tôm lớn đủ cho xuất khẩu thu
ngoại tệ. Những tác động như thế này của thương mại nông sản, hải sản,
thuỷ sản tác động xấu đến đa dạng sinh học. Việc xuất khẩu cà phê với
lợi nhuận cao đã khiến cho diện tích đất trồng cà phê của Đắc Lắc tăng
từ 52.418 ha năm 1993 lên 156.230 ha năm 1996. Phần lớn diện tích
trồng cà phê là do phá rừng. Việc hoạch định các chính sách kinh tế
không thấy hết giá trị của môi trường và tài ngun mơi trường. Đây là
một thực tế dễ nhìn thấy ở các nước đang phát triển. Do nhu cầu phát
triển, nhiều quốc gia đang phát triển không thực sự chú trọng các khía
cạnh mơi ữường ttong các chính sách phát triển của mình. Việc thực hiện
chính sách mở cửa rừng cho các công ti xuyên quốc gia hay các công ti
nội địa khai thác gỗ và lâm sản rõ ràng khơng tính đến tác động xấu đối
với mơi trường nói chung và đa dạng sinh học nói riêng. Đối với Việt
Nam đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng xẩu tới đa
dạng sinh học. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu lâm thổ sản của nước ta
trong những năm 1976 - 1986 đã góp phần rất lớn trong việc giảm diện
tích rừng trong cả nước. Từ năm 1976 đến 1980 Việt Nam đã khai thác
và xuất khẩu 11.700m3 gỗ trịn. Quy mơ khai thác và xuất khẩu gỗ cịn
tăng mạnh trong giai đoạn 1986 - 1991. Trong giai đoạn này, 412 lâm
trường đã khai thác gỗ xuất khẩu với số lượng tăng nhanh: Chỉ tính gỗ
trịn, năm 1986 là 22.000m3, năm 1988 là 17.000m3, năm 1991 là
240.000m3. Một số chính sách khác như chính sách đất đai, chính sách
hợp tác hố nơng nghiệp, chính sách khai hoang mở rộng diện tích trồng
lúa do thực hiện khơng tốt cũng đã góp phần thu hẹp diện tích rừng, tác
động xấu đến đa dạng sinh học.
1.3.Sự bất bình đẳng trong việc sở hữu, quản lí và phân phối nguồn
lợi :
Việc bảo tồn và sử dụng các nguồn sinh học mang lại nhiều lợi ích kinh
tế to lớn. Tuy nhiên, phần lớn các lợi ích này lại nằm ttong tay những
nhóm các nhà kinh doanh chứ không thuộc về những cộng đồng đang
sống và bảo tồn các nguồn sinh học. Trên phạm vi quốc tế, nguồn lại của
đa dạng sinh học thuộc về các nước phát triển chứ không phải các nước
đang phát triển mặc dù phân lớn các nguồn lợi sinh học lại thuộc sở hữu
của các nước phát triển. Các nguồn sinh học được đưa từ các nước đang
phát triển sang các nước phát triển dưới dạng nguyên liệu thô, rất rẻ tiên
song sau khi được chế biến, được chuyển sang các nước đang phát triển
với giá cao hơn nhiều lần. Chính sự bất cân bằng này trong phân phối
các nguồn sinh học đã khiến cho các cộng đồng khơng cịn quan tâm tói
việc bảo tồn đa dạng sinh học.
1.4.Tình trạng thiếu kiến thức và sử dụng kiến thức bảo vệ đa dạng
môi trường sinh học:
Đây là nguyên nhân phổ biến nhất đối với các nước nghèo, đang phát
triển. Sự kém hiểu biết của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng về ảnh
hưởng tiêu cực của suy thối mơi trường nói chung và và đa dạng sinh
học nói riêng khiến họ khai thác hoặc huỷ diệt môi trường sinh thái một
cách vô thức. Việc đánh cá bằng chất nổ, bằng điện là ví dụ sinh động
cho tình trạng kém hiểu biết này. Việc đốt cả cánh rừng chỉ vì khai thác
một tổ ong mật cũng là ví dụ khơng xa lạ, nhất là đối với Việt Nam
chúng ta. Việc dùng hoá chất, điện, chất nổ để khai thác thuỷ sản là hiện
tượng hiếm thấy ở các nước trên thế giới song lại rất phổ biến ở nhiều
địa phương nước ta. Những sự khai thác mang tính huỷ diệt, thiếu kiến
thức và thiếu ý thức đang đe doạ nghiêm trọng đến hệ sinh thái đầm phá
Tam Giang - một trong những hệ sinh thái lớn đầm phá lớn nhất khu vực
Đơng Nam Á. Vói diện tích 248,7 km2 phá Tam Giang là noi sinh
trưởng của nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm của thế giới và của
Việt Nam. Tuy nhiên, tình trạng khai thác bừa bãi đang diễn ra ở vùng
phá Tam Giang. Riêng năm 2004, chỉ riêng các vụ vi phạm như dùng
xung điện, chất nổ để khai thác đã được phát hiện và xử lí là 200 vụ
bằng khoảng 1/10 số vụ vi phạm. Chính vì tình trạng khai thác trái pháp
luật, ưái quy hoạch như vậy nên nhiều loài động thực vật quý hiếm này
đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Các hệ thống pháp lí và các định
chế tạo điều kiện cho việc khai thác không bền vững: Pháp luật của
nhiều quốc gia chưa thực thực chú ý đến việc bảo vệ mơi trường, đến
khía cạnh phát triển bền vững. Các hành vi chống lại môi trường, chông
lại đa dạng sinh học chưa được xử lí hoặc được xử lí khơng đủ sức răn
đe.Việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng các cơng
trình hạ tầng chưa được gắn với những đánh giá tác động mơi trường.
Nhiều cơng trình cơng nghiệp đã gây tổn hại nghiêm trọng đến đa dạng
sinh học.
2. Nguyên nhân đặc trưng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam ?
Bên cạnh những nguyên nhân nêu trên, suy thối đa dạng sinh học ở Việt
Nam cịn xảy ra do các nguyên nhân đặc thù sau:
+ Hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại cho môi trường ở Việt Nam:
Việc thiêu huỷ hàng triệu ha rừng bằng bom napan và chất độc màu da
cam do Mỹ tiến hành đã để lại di chứng nặng nề cho các hệ sinh thái ở
nước ta. Tính từ năm 1961 đến năm 1975, chiến ttanh do Mỹ thực hiện
đã huỷ diệt 4,5 triệu ha rừng ở Việt Nam. Khó có thể khắc phục được
hậu quả này trong vài thập kỉ. Khơng có quốc gia nào trên thế giới lại
chịu sự tàn phá nặng nề của các cuộc chiến tranh lâu dài như đất nước ta
đã trải qua kể cả về tổn thất về tài sản, con người và mơi trường sinh
thái.
+ Tình trạng ơ nhiễm nhanh chóng do sự phát triển các ngành công
nghiệp chế biến mà không có những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn từ
đầu: Các ngành công nghiệp giấy, rượu bia, thuộc da khai thác quặng đã
làm cho hệ sinh thái tồn tại ở các vùng phụ cận bị tổn hại nặng nề. Việc
đổi lấy sự phát triển công nghiệp bằng sự đi xuống của môi trường là
một trong những điểm dễ nhận thấy ở Việt Nam trong vài thập kỉ vừa
qua. Đây cũng có thể coi là một trong những nguyên nhân đặc thù của
suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam.
+ Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc ít người mà nhiều nhóm trong
số đó có tập quán du canh, du cư: Trong số 54 dân tộc sinh sống ở Việt
Nam thì có 50 dân tộc với khoảng 9 triệu người có tập quán du canh, du
cư. Các cộng đồng này thường sống ở vùng rừng núi. Việc di chuyển của
họ từ nơi đang sống sang nơi khác kéo theo sự mất đi của một diện tích
rừng nhất định mà họ chặt đốt để làm nương rẫy. Cứ vài ba năm, họ lại
di chuyển một lần như vậy. Chính tập quán này cũng gây tác động không
nhỏ đến việc chặt phá rừng, tác động xấu đến đa dạng sinh học ở nước
ta. Chỉ riêng hình thức du canh, du cư đã biến 15 triệu ha rừng thành đồi
trọc.
+ Nhu cầu thưởng thức các món ăn, đồ uống chế biến từ động thực vật
hoang dã đã phát triển mạnh ở nước ta: Nhà hàng đặc sản thú rừng mọc
lên khắp nơi và trở thành nguồn tiêu thụ mạnh các loài động vật hoang
dã. Nhiều người dân đã tìm mọi cách săn thú rừng quý hiếm để bán cho
các nhà hàng đặc sản hoặc bán cho các tổ chức xuất khẩu bất hợp pháp
sang Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và các nước trong khu vực.
Điều này dẫn tới nguy cơ là một số loài thú quý hiếm của nước ta đang
đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
+ Sự thoái hoá nguồn gen do nhu cầu: Thực ttạng vấn đề nguồn gen
trong sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam là một nguyên nhân của suy
thoái đa dạng sinh học. Đây cũng là nguyên nhân phổ biến toàn cầu song
biểu hiện ở Việt Nam với những đặc thù riêng. Việt Nam vào những năm
1970 - 1976, sản xuất 15 triệu tấn lương thực là mục tiêu xa vời. Để đảm
bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, nền nông nghiệp
nước ta đã sử dụng các giống mới có biến đổi gen hay lai tạo khoa học,
các giống nhập nội có năng suất cao, chất lượng tốt. Hiện nay có tới
70% giống dùng trong nơng nghiệp nước ta là những giống có áp dụng
tiến bộ khoa học và biến đổi gen. Tuy nhiên, thực tế này cũng dẫn đến sự
biến mất hoặc suy thoái các giống bản địa truyền thống. Những giống
bản địa này có nhiều thuộc tính quý giá như khả năng thích nghi với khí
hậu nhiệt đới, khả năng chống chịu sâu bệnh đặc thù của khí hậu và mơi
trường nhiệt đới gió mùa.
+ Sự xâm nhập các lồi lạ vào mơi trường sinh thái Việt Nam. Sự xâm
nhập các loài lạ vào mơi trường của Việt Nam có vẻ như tạo thêm sự đa
dạng sinh học vì có thêm những lồi mới. Lồi lạ được hiểu là lồi tồn
tại bên ngồi mơi trường của các loài bản địa. Tuy nhiên, sự xuất hiện
của lồi lạ nếu khơng được kiểm sốt sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến
đa dạng sinh học. Sự phát triển q nhanh của lồi lạ này trong mơi
trường mới tạo ra nguy cơ đối với các giống loài khác vốn tồn tại trong
khu vực bản địa của chúng. Ở Việt Nam, việc kiểm sốt lồi lạ xâm nhập
chưa được chú trọng đúng mức. Người ta có thể đem vào mơi trường bất
kì động thực vật hay vi sinh vật nào, miễn là nó khơng phải là lồi gây
bệnh dịch hoặc đang trong tình trạng bị bệnh. Song trên thực tế, ngay cả
khi một lồi lạ khơng hề có khả năng gây bệnh dịch khi xâm nhập vào
các hệ sinh thái ở nước ta thì cũng khơng thể coi là an tồn. Tác động
của các lồi lạ khơng dễ thấy trước. Trong những năm 1994 - 1995, nạn
dịch ốc bươu vàng trên miền Bắc Việt Nam là một minh chứng cho vấn
đề này. Sự xâm nhập và tác hại của ốc bươu vàng ở nước ta trong những
năm đó là ví dụ điển hình. Nó được nhập vào Việt Nam với mục đích
kinh tế, được nhân giống và phổ biến khắp cả nước. Do sự sinh sản
nhanh và tạp ăn, ốc bươu vàng đã lan rộng với tốc độ vơ cùng nhanh,
khơng thể kiểm sốt. Thực tế, nó trở thành lồi cơn trùng gây hại vơ
cùng nguy hiểm đối vói cây lúa nước. Hàng chục ngàn ha lúa nước trên
nhiều tỉnh có nguy cơ mất ttắng. Sự xuất hiện các loài lạ rõ ràng đang là
một trong những nguyên nhân đáng lo ngại cho tình trạng suy thối mơi
trường ở nước ta.
3. Chính sách của Nhà nước về bảo tồn và phát triển bền vững về đa
dạng sinh học:
-Ưu tiên bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện
cho một vùng sinh thái, bảo tồn loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý,
hiếm được ưu tiên bảo vệ; bảo đảm kiểm sốt việc tiếp cận nguồn gen.
- Bảo đảm kinh phí cho hoạt động điều tra cơ bản, quan trắc, thống kê,
xây dựng cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học và quy hoạch bảo tồn đa
dạng sinh học; đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho khu bảo tồn, cơ sở bảo
tồn đa dạng sinh học của Nhà nước; bảo đảm sự tham gia của Nhân dân
địa phương trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch bảo tồn đa
dạng sinh học.
- Khuyến khích và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tri thức truyền thống vào
việc bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học.
- Phát triển du lịch sinh thái gắn với việc xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm
ổn định cuộc sống của hộ gia đình, cá nhân sinh sống hợp pháp trong
khu bảo tồn; phát triển bền vững vùng đệm của khu bảo tồn.
Câu 2,2
Chúng ta là một phần của giải pháp’ Để ứng phó với thực trạng trên,
ngày 01/3/2021, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã ra tuyên bố giai đoạn
2021 - 2030 là “Thập kỷ về phục hồi Hệ sinh thái” nhằm nhân rộng trên
quy mô lớn việc phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái và bị phá hủy để
chống lại cuộc khủng hoảng khí hậu, tăng cường an ninh lương thực,
nguồn nước và đa dạng sinh học. Đây là thời điểm để mỗi quốc gia cùng
chung tay và có những hành động cụ thể, thiết thực vì thiên nhiên và
Trái Đất của chúng ta. Việt Nam là 1 trong 16 quốc gia có sự đa dạng
sinh học cao nhất thế giới, tính chất đa dạng sinh học cũng đang chịu áp
lực ngày càng tăng do hoạt động của con người và tình trạng biến đổi
khí hậu. Để bảo tồn đa dạng sinh học, Việt Nam đã xây dựng được hệ
thống pháp luật khá đầy đủ, như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng
sinh học, các văn bản hướng dẫn Luật, các Chiến lược quốc gia về đa
dạng sinh học… Tuy nhiên, bên cạnh những chế định về luật pháp, cần
chú trọng đến các giải pháp có tính thực tiễn, tác động trực tiếp đến hành
vi, cuộc sống của người dân, phù hợp với cộng đồng địa phương để
người dân tham gia vào cơng tác bảo tồn. Từ đó, Ngày Quốc tế Đa dạng
sinh học năm 2021 (22/5) được phát động như một lời nhắc nhở đa dạng
sinh học vẫn là giải pháp quan trọng, là một lựa chọn cho sự phát triển
bền vững. Với chủ đề “Chúng ta là một phần của giải pháp - Vì thiên
nhiên” nhằm kêu gọi con người sống hài hoà với thiên nhiên, áp dụng
các giải pháp dựa vào thiên nhiên đối với các vấn đề tồn cầu về khí
hậu, an ninh lương thực và nguồn nước, sinh kế bền vững cho người
dân. Đồng thời nhấn mạnh con người là một mảnh ghép quan trọng
trong các giải pháp này. Theo đó, các giải pháp của con người dựa vào
thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học là chìa khóa để giảm nhẹ biến
đổi khí hậu, tăng khả năng phục hồi và thích ứng ở một số khu vực quan
trọng, bao gồm bảo tồn và phục hồi rừng và các hệ sinh thái trên cạn;
Bảo tồn và phục hồi tài nguyên nước ngọt, cũng như hệ sinh thái biển và
đại dương, hệ thống nông nghiệp và thực phẩm bền vững. Công ước đa
dạng sinh học cũng nhấn mạnh, con người là một phần của thiên nhiên
chứ không tách rời khỏi thiên nhiên. Theo GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh,
nguyên Viện trưởng Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật - Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, hiện nay, Việt Nam có
176 khu rừng đặc dụng, với khoảng 24 - 25 triệu người sống gần nơi có
đa dạng sinh học cao. Để thu hút hàng triệu người dân cùng bảo vệ rừng,
bảo tồn đa dạng sinh học thì phải cải thiện sinh kế cho họ. Nếu người
dân có thể sống được từ rừng, làm giàu được từ rừng và có quyền được
hưởng thụ những lợi ích từ đa dạng sinh học đưa lại cho gia đình, họ sẽ
sẵn sàng đứng ra bảo vệ. “Điều quan trọng nhất là tại các khu
3. Lợi thế khi phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam Việt Nam có
tiềm năng năng lượng tái tạo phong phú. Với tổng số giờ nắng cao (lên
đến trên 2.500 giờ/năm), tổng lượng bức xạ trung bình hàng năm khoảng
230-250 kcal/cm2 theo hướng tăng dần về phía Nam, Việt Nam rất thuận
lợi khi khai thác năng lượng mặt trời. Trong khi đó, ở tiềm năng điện
gió, hơn 39% tổng diện tích của nước ta có tốc độ gió trung bình hàng
năm ở độ cao 65m lớn hơn 6m/s, tương đương với tổng công suất 512
GW. Đặc biệt, hơn 8% diện tích có tốc độ gió ở độ cao 65m đạt trên 78m/s, có thể tạo ra hơn 110 GW. Điện sinh khối, địa nhiệt cũng là những
nguồn năng lượng tái tạo có thể khai thác tốt tại Việt Nam. Năng lượng
tái tạo đang được Chính phủ ưu tiên phát triển. “Đảng và Nhà nước đã
thực thi nhiều chính sách quan trọng để thúc đẩy tiết kiệm năng lượng và
phát triển năng lượng tái tạo, cụ thể hóa bằng Luật Sử dụng năng lượng
tiết kiệm và hiệu quả, Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo và các
chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình quốc gia để thúc đẩy sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Mới đây, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 về định
hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045, trong đó khẳng định việc ưu tiên khai thác, phát
triển các nguồn năng lượng tái tạo và thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả” – Thứ trưởng Bộ Cơng Thương
Hồng Quốc Vượng (nguồn trích dẫn: Cổng thơng tin điện tử Bộ Cơng
Thương). Việt Nam cũng đang đặt mục tiêu giảm 8% lượng phát thải khí
nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm đến 25% nếu nhận được hỗ trợ
hiệu quả từ cộng đồng quốc tế; đặt mục tiêu hằng năm tiết kiệm tối thiểu
2% tổng điện năng tiêu thụ trong giai đoạn 2020-2025 (theo Chỉ thị số
20/CT-TTg ngày 07/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ). Chính vì vậy, có
thể nói tham gia phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo là một giải
pháp mà các hộ gia đình, doanh nghiệp có thể chung tay thực hiện nhằm
bảo vệ môi trường, chống lại biến đổi khí hậu theo định hướng của
Chính phủ cũng như xu hướng trên tồn cầu. Có một điểm rất thuận lợi
khác là chi phí cho năng lượng tái tạo ngày càng rẻ. Chi phí lắp đặt điện
mặt trời hiện nay đã giảm khoảng 80-90% so với 10 năm trước, khiến
thời gian hoàn vốn ngày càng rút ngắn (chỉ cịn 5-6 năm). Sau đó, tỉ suất
lợi nhuận sẽ lên đến 15-17%. Công nghệ điện mặt trời phát triển nên tuổi
thọ các vật tư cũng được nâng cao – hiện tuổi thọ của các tấm quang
năng chất lượng cao lên đến 30-50 năm.