Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TỔNG QUAN ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2000 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.36 KB, 22 trang )

II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Tăng trưởng kinh tế
1.1. Kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng ngày càng cao
Thành phố đặt mục tiêu cho giai đoạn 2001 - 2005 tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm nội địa (GDP) cao hơn giai đoạn 5 năm trước, với mức tăng bình quân là
11%/năm.
Kết quả tăng trưởng kinh tế 5 năm 2001- 2005 cho thấy Thành phố đã đạt
được mục tiêu tăng trưởng đề ra, đạt mức bình quân 11%/năm, cao hơn tốc độ tăng
10,3%/năm của giai đoạn 1996 - 2000.
Nét nổi bật là tốc độ tăng trưởng GDP trong những năm qua ngày càng cao,
năm sau cao hơn năm trước (năm 2005 ước đạt 12,2%, năm 2004 đạt 11,6%; năm
2003 đạt 11,4%; năm 2002 đạt 10,2%; năm 2001 đạt 9,5% và năm 2000 đạt 9,0%).
Về giá trị tuyệt đối, trong năm 2005, GDP của thành phố theo giá hiện hành ước
đạt 164 nghìn tỷ đồng (tương ứng với 10,4 tỷ USD).
1.2. Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn
Kinh tế trên địa bàn Thành phố chủ yếu dựa vào 2 khu vực công nghiệp –
xây dựng và dịch vụ - thương mại:
- Khu vực cơng nghiệp - xây dựng ln có tốc độ tăng giá trị gia tăng nhanh
nhất, bình quân giai đoạn 2001-2005 là 12,6%/năm (kế hoạch đề ra là 13%);
- Khu vực dịch vụ - thương mại với tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình
quân là 9,8%/năm (kế hoạch đề ra là 9,5%);
- Khu vực nông nghiệp (bao gồm nơng lâm nghiệp và thủy sản) có tốc độ
tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân 3,5%/năm (kế hoạch đề ra là 2%).
Với tốc độ tăng trưởng như vậy, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp
tục diễn ra theo xu hướng như giai đoạn 1996-2000, tức là khu vực cơng nghiệp có
tỷ trọng tăng dần trong cơ cấu GDP của Thành phố.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nếu cơ cấu kinh tế Thành phố năm 2000 là: nông nghiệp (khu vực I) 2,0%,
công nghiệp (khu vực II) 45,4%, dịch vụ (khu vực III) là 52,6%. So với mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố đến 2005 là: Nông nghiệp 1,4%; công nghiệp


48,8%; dịch vụ 49,8%. Nghĩa là cơ cấu kinh tế Thành phố xét về tỷ trọng thứ tự vẫn là
dịch vụ- công nghiệp - nơng nghiệp; trong đó khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn


nhất. Thực tế tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh trong 10 năm qua, tỷ trọng khu
vực công nghiệp ngày càng tăng do có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 3 khu vực và
diễn biến này cũng hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển của Thành phố đang
trong giai đoạn cơng nghiệp hóa nhanh.
Đến cuối năm 2005, trong cơ cấu GDP của Thành phố tỷ trọng khu vực I:
1,7%; khu vực II (công nghiệp - xây dựng): 47,5% và khu vực III (dịch vụ):
50,8%. Những kết quả đạt được phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế Thành phố; đặc biệt, khu vực dịch vụ đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân cao
hơn kế hoạch đề ra.
2.1. Khu vực dịch vụ
Nét nổi bật trong cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 20012005 là các ngành của khu vực dịch vụ đã bắt đầu phát triển khởi sắc. Tuy vậy các
ngành dịch vụ cao cấp vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ và hầu như khơng có sự
thay đổi trong suốt thời qua. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9,8%/năm so với
8,4%/năm của giai đoạn 1996-2000. Một điểm đáng lưu ý là tốc độ tăng trưởng
năm sau cao hơn năm trước, từ 7,0% năm 2000 tăng lên 7,4% năm 2001, 9,3%
năm 2002, 9,4% năm 2003, 11,1% năm 2004 và 12% năm 2005.
Xét về cơ cấu nội bộ các ngành dịch vụ, nhận thấy:
Các loại hình dịch vụ cao cấp: tài chính - ngân hàng, tín dụng bảo hiểm, viễn
thơng, cơng nghệ thơng tin và truyền thơng có tốc độ phát triển rất cao (12,2 % năm
2001, 28,6 % năm 2002, 20,0% năm 2003, 18,7% năm 2004, và trên 20% năm 2005)
nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng khá thấp. Thành phố Hồ Chí Minh khó có thể chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ khi mà các dịch vụ
cao cấp này chưa có sự phát triển mang tính đột phá.
Dịch vụ vận tải, kho bãi, cảng... chưa thực sự phát huy hết tác dụng và thực
đạt đến trình độ tương xứng của một trung tâm lớn hiện nay. Tốc độ tăng trưởng
các năm qua: 10,6% năm 2001, 12,8% năm 2002, 10,9% năm 2003, 9,4% năm

2004 và năm 2005 - 8%.
Dịch vụ thương mại nay đang trên đà phục hồi sau ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế khu vực, (tăng 7,0% năm 2002, 9,4% năm 2003, 10,3% năm 2004 và năm
2005 - 11,6%); thị trường nội địa phát triển ổn định, hàng hóa phong phú, đa dạng,
nhiều sản phẩm của Thành phố đã chiếm lĩnh được thị trường, giành được thị phần
vững chắc; cơ sở vật chất, hạ tầng ngành thương mại đã được quan tâm đầu tư xây


dựng, bước đầu phát huy tác dụng, góp phần tăng cường vai trị, vị trí trung tâm, đầu
mối của Thành phố trong điều phối, cung ứng hàng hóa trong khu vực và ra nước
ngoài qua nhiều kênh phân phối đa dạng và ngày càng lớn mạnh.
Xuất khẩu đã bước đầu cho thấy việc chuyển hướng chú trọng vào tinh chế,
tăng giá trị, hàm lượng công nghệ, chuyển dần sản xuất gia công, chế biến thô về
vùng nguyên liệu (khảo sát hai ngành dệt may và giày dép cho thấy tỷ trọng gia
công trong xuất khẩu liên tục giảm qua các năm 2001-2005: dệt may giảm từ
78,8% xuống còn 73,4%; giày dép giảm từ 52,6% xuống còn 35,8%).
Các loại dịch vụ khác như du lịch, giáo dục, y tế... cũng tăng trưởng cao,
với tốc độ tăng bình quân hơn 10%/năm trong 5 năm qua. Đây là những loại hình
mà Thành phố thật sự có thế mạnh để phát triển phù hợp với định hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế sang các loại hình dịch vụ hiện đại.
2.2. Khu vực cơng nghiệp - xây dựng
Trong 5 năm 2001-2005, giá trị sản xuất cơng nghiệp trên địa bàn tăng bình
qn trên 15%/năm, chiếm tỉ trọng gần 30% so với công nghiệp cả nước. Tỷ trọng của
công nghiệp chế biến trong tổng giá trị sản xuất cơng nghiệp trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2005 có tăng lên nhưng khơng đáng kể (96,2% năm
2001 lên khoảng 97,2% năm 2005). Điều này cho thấy công nghiệp thành phố mới
đạt được sự thay đổi về số lượng và còn chậm thay đổi về chất lượng. Những ngành
có tỉ trọng lớn vẫn là những ngành thâm dụng lao động và hàm lượng giá trị gia tăng
thấp; 4 lĩnh vực có hàm lượng chất xám cao mà Thành phố chọn làm “mũi nhọn”
(điện tử, công nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh học, cơ khí chế tạo) chưa có sự phát

triển vượt trội so với các ngành khác.
Ngành cơ khí chế tạo rất yếu kém, khơng làm được vai trò chủ đạo trong đổi
mới thiết bị, do vậy hầu hết thiết bị mới đều phải nhập khẩu.
Đầu tư thiếu tầm nhìn dài hạn đã làm cho nhiều doanh nghiệp đầu tư không
đúng nhu cầu. Trong công nghiệp thiếu các “nhạc trưởng” của từng lĩnh vực; mạnh ai
nấy làm, nên xảy ra tình trạng nhập trùng lắp, cạnh tranh dìm lẫn nhau khơng cần
thiết. Trong khi đó thị trường còn bỏ ngỏ để hàng ngoại nhập chiếm lĩnh.
Trong lĩnh vực xây dựng, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt bình quân
11,86% trong giai đoạn 2001 – 2005. Tuy tốc độ có chậm hơn các ngành công
nghiệp, nhưng vẫn cao hơn tốc độ của giai đoạn 1996 – 2000, chỉ đạt dưới 10%.
2.3. Khu vực nông nghiệp
Trong cơ cấu GDP, khu vực nông nghiệp cũng chuyển dịch tích cực theo


hướng tăng tỉ trọng ngành thủy sản và chăn nuôi, giảm tỉ trọng ngành trồng trọt. Cơ
cấu nội bộ ngành nông nghiệp như sau: chăn nuôi 32,3%, thủy sản 29,5%, trồng
trọt 27,9%, dịch vụ nông nghiệp 8%, lâm nghiệp 2,3%. Điểm nổi bật trong 5 năm
qua là sự chuyển dịch mạnh sản xuất nơng nghiệp theo mơ hình sản xuất hiệu quả
hơn đối với quỹ đất nông nghiệp với sự phát triển của các ngành chăn nuôi, thủy
sản, cây kiểng, cá kiểng ...
3. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
3.1. Khu vực kinh tế cơng nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước. Năm
2004 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 101.962 tỷ đồng, tăng 15,07% so với năm
2003 (giá cố định 1994), chiếm 28,8% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước và
chiếm 59,32% giá trị sản xuất công nghiệp vùng Đông Nam bộ.
Năm 2004, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 35.096 cơ sở sản xuất cơng
nghiệp, trong đó: 217 cơ sở sản xuất công nghiệp Nhà nước; 75 cơ sở sản xuất công
nghiệp tập thể; 3.335 cơ sở sản xuất công nghiệp tư nhân; 30.891 cơ sở sản xuất công
nghiệp cá thể và 578 cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.

Trong giai đoạn vừa qua, công nghiệp Thành phố mới đạt được sự thay đổi
về lượng và còn chậm thay đổi về chất. Những ngành có tỷ trọng lớn vẫn là những
ngành thâm dụng lao động, cịn những ngành có hàm lượng chất xám cao (điện tử,
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cơ khí chế tạo) tuy có tăng nhưng vẫn
cịn chiếm tỷ trọng khiêm tốn.
Cụ thể là, công nghiệp trên địa bàn Thành phố tập trung chủ yếu là các
ngành: chế biến thực phẩm và đồ uống (19,4%), nhựa-cao su (8,8%), hoá chất
(8,3%), may mặc (7,5%), giày da (7,1%), dệt (5,0%), máy móc-thiết bị điện
(5,0%). Trong nhóm cơng nghiệp chế biến, cơng nghiệp thực phẩm và đồ uống có
tỷ trọng cao (chiếm 13,9%). Trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp theo thành
phần kinh tế, cơng nghiệp ngồi quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn.
Tổng cộng có 15 khu cơng nghiệp tập trung đã hoạt động (gồm 12 khu công
nghiệp, 03 khu chế xuất), đến nay đã triển khai đạt 2.752 ha.
Ngoài các khu công nghiệp - khu chế xuất, trên địa bàn Thành phố đã hình
thành nhiều cụm cơng nghiệp – làng nghề được quy hoạch và xây dựng theo Quyết
định phê duyệt của Ủy ban nhân dân Thành phố nằm trong quy hoạch chung các
quận huyện, với diện tích khoảng 940 ha (48 cụm, trong đó 36 cụm cơng nghiệp làng nghề đã đi vào hoạt động ). Theo thống kê, diện tích lấp đầy khoảng 224,3 ha


đạt 23,8% so với quy hoạch đợt đầu.
Ngành nghề phát triển chủ yếu ở các khu cụm công nghiệp do các quận
huyện quản lý là cơ khí (chiếm khoảng 23,7% số doanh nghiệp đăng ký hoạt
động), dệt, da, may (khoảng 26,9%), hoá chất, nhựa, cao su (khoảng 13,3%), giấy,
gỗ (khoảng 14%), chế biến thực phẩm (khoảng 6,5%)…
Một số cụm công nghiệp bố trí xen cài trong các khu dân cư, đầu tư cơ sở hạ
tầng không đồng bộ. Giữa khu sản xuất và khu dân cư khơng có khoảng cách ly để
đảm bảo về vệ sinh, môi trường, an ninh, trật tự xã hội. Việc phát triển, xây dựng
nhà ở sát các khu vực tập trung các xí nghiệp sản xuất công nghiệp là nguyên nhân
dẫn đến ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng đến đời sống dân cư.
Các khu công nghiệp – chế xuất tập trung trên địa bàn Thành phố phần lớn

là các khu công nghiệp tổng hợp, chưa phân định rõ ngành nghề chủ đạo khó kiểm
sốt chất lượng môi trường.
Định hướng quy hoạch xây dựng công nghiệp trong quy hoạch chung của
Thành phố đến năm 2020 theo quyết định 123/1998/TTg chưa quan tâm đến việc
bố trí các khu công nghiệp gắn với các khu dân cư, đặc biệt dân cư nông thôn
nhằm thực hiện chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp
nơng thơn. Chính sách giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp
chưa đồng bộ. Đặc biệt chương trình di dời các cơ sở cơng nghiệp gây ô nhiễm
trong nội thành vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung đã làm phát
sinh thêm nhu cầu sử dụng đất tại các nơi này.
Ngành xây dựng
Giá trị sản xuất và GDP của ngành xây dựng liên tục tăng trong giai đoạn
2001 - 2004, năm năm 2001 đạt 12.497 tỷ đồng, năm 2002 đạt 17.866,4 tỷ đồng,
năm 2003 đạt 21.282 tỷ đồng và đến năm 2004 đạt 23.436,2 tỷ đồng (giá thực tế);
GDP của ngành xây dựng tương ứng với các năm trên là: 4.682 tỷ đồng; 5.118 tỷ
đồng; 6.185 tỷ đồng và năm 2004 đạt 7.186 tỷ đồng (giá thực tế).
Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 đạt 34.986,4 tỷ đồng, phân theo
ngành kinh tế: Ngành công nghiệp 11.009,5 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng cao nhất)
31,46%; ngành vận tải kho bãi và thông tin liên lạc 5.664,3 tỷ đồng, chiếm 16,19%;
ngành giáo dục đào tạo 1.115,5 tỷ đồng, chiếm 3,3%; khoa học công nghệ 928,5 tỷ
đồng; ngành y tế và cứu trợ xã hội 664 tỷ đồng… Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản liên tục tăng trong giai đoạn 2001 - 2004, năm 2001 là 13,35%; năm
2002 là 13,51%; năm 2003 là 14,78% và năm 2004 là 15,8%.
3.2. Khu vực kinh tế dịch vụ


Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại - dịch vụ quan trọng của
cả nước. Với nguồn lực về tài chính và mạng lưới kinh doanh trải rộng khắp các
vùng sản xuất nguyên liệu, các thành phố lớn, ngành thương nghiệp Thành phố Hồ
Chí Minh góp phần quan trọng trong việc kích thích sản xuất phát triển thơng qua

việc tiêu thụ sản phẩm. Mức độ ảnh hưởng của ngành thương nghiệp vượt ra khỏi
phạm vi địa lý của một Thành phố với trên 6 triệu dân, ngành thương nghiệp trên
địa bàn không chỉ phục vụ cho nhu cầu của Thành phố mà còn phục vụ cho nhu cầu
của cả nước, nhất là các tỉnh Nam bộ.
Giá trị GDP của các ngành dịch vụ Thành phố năm 2004 đạt 68.349 tỷ đồng,
chiếm 50,07% GDP của Thành phố. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 2004 đạt 14,47%. Số cơ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ là
258.428 cơ sở, trong đó: Có 136.844 cơ sở thương nghiệp; 36.676 cơ sở khách sạn,
nhà hàng; 306 cơ sở du lịch và 84.602 cơ sở dịch vụ tiêu dùng (Niên giám Thống kê
TP năm 2004).
GDP của ngành thương nghiệp năm 2004 đạt 17.443 tỷ đồng (chiếm
12,78%), chỉ đứng vị trí thứ hai sau ngành cơng nghiệp chế biến (chiếm 41,40%).
Giai đoạn 1994 - 1996 có mức tăng trưởng nhanh nhất, tăng bình quân từ 12% 23%/năm. Giai đoạn 1997 - 1999, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ
thế giới và khu vực, sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng làm tăng trưởng chậm lại.
Ngành thương mại, khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ của Thành phố
Hồ Chí Minh đóng vai trị quan trọng trong việc thu hút lao động, giải quyết công
ăn việc làm. Năm 2004 ngành này đã thu hút được gần 637.362 lao động, chiếm
24,89% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế.
3.3. Khu vực kinh tế nông nghiệp
Theo số liệu thống kê, tổng giá trị sản xuất ngành nông lâm thuỷ sản năm
2001 là 2.109,4 tỷ đồng, năm 2002 là 2.208,7 tỷ đồng; năm 2003 là 2.478,5 tỷ
đồng và năm 2004 là 2.512,6 tỷ đồng (giá cố định 1994). Tốc độ tăng trưởng bình quân
giai đoạn 2001 - 2004 đạt 7,6%.
Về lâm nghiệp: Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp năm 2001 đạt 40.536 triệu
đồng; 2002 đạt 48.195 triệu đồng; 2003 đạt 33.442 triệu đồng và năm 2004 đạt 35.819
triệu đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 - 2004 giảm 2,2%.
Trong cơ cấu tổng giá trị sản xuất năm 2004 của ngành nông lâm thuỷ sản,
ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất 63,24%, ngành thuỷ sản 35,33%,
ngành lâm nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ 1,43%.



4. Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
4.1. Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Năm 2004, dân số Thành phố Hồ Chí Minh là 6.062.993 người, chiếm
7,39% dân số cả nước. Trong đó dân số nội thành là 5.087.513 người, chiếm 84%;
dân số ngoại thành 975.480 người, chiếm 16%. Mật độ là 2.920 người/km2.
Dân số nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất nhỏ 4,13%; dân số phi nông nghiệp
chiếm 95,87% (Niên giám thống kê Thành phố năm 2004).
Bảng 1.2. Biến động dân số TP Hồ Chí Minh 2000 - 2004
Đơn vị
hành chính
Quận 1
Quận 2 (a)
Quận 3
Quận 4
Quận 5
Quận 6
Quận 7 (b)
Quận 8
Quận 9 (a)
Quận 10
Quận 11
Quận 12 (c)
Quận Tân Phú (d)
Quận Bình Tân (e)
Quận Gị Vấp
Quận Tân Bình
Quận Bình Thạnh
Quận Phú Nhuận
Quận Thủ Đức

Huyện Củ Chi
Huyện Hóc Mơn
Huyện Bình Chánh
Huyện Nhà Bè
Huyện Cần Giờ
Tổng

2000

2001

2002

2003

2004

227.578

227.805

230.544

201.117

199.247

101.545
221.068
196.662

211.108
258.014
114.490
336.201
152.268
244.028
241.138
178.200

108.497
223.897
197.583
210.989
262.379
117.149
341.913
156.647
245.904
244.189
193.224

108.141
224.579
199.925
212.410
265.806
132.319
347.262
160.012
247.465

246.217
215.476

117.633
206.550
187.486
176.706
248.605
148.166
351.868
186.836
236.312
235.260
265.284

331.266
611.045
409.332
183.596
214.924
257.805
207.591
352.589
64.857
59.480
5.174.785

345.420
634.995
407.758

184.482
223.866
255.844
210.358
365.580
66.586
60.389
5.285.454

370.814
664.149
410.305
185.081
234.190
260.702
214.952
430.766
67.688
52.271
5.481.074

412.802
728.329
420.854
176.695
305.367
284.376
239.658
604.553
68.856

64.183
5.867.496

123.968
201.425
182.493
171.966
241.902
156.895
359.194
199.150
235.442
229.837
282.864
361.747
384.889
443.419
392.521
422.875
175.668
329.231
287.807
243.462
298.623
72.271
66.097
6.062.993

Ghi chú: - Nguồn: Niên giám Thống kê TP Hồ Chí Minh 2004
(a) thuộc Thủ Đức cũ; (b) thuộc Nhà Bè cũ; (c) thuộc Hóc Mơn cũ; (d) thuộc Tân Bình cũ; (e)

thuộc Bình Chánh cũ


Theo báo cáo “Tình hình biến động dân số TP. Hồ Chí Minh giai đoạn
1999-2004” của Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh tháng 02/2006, tỷ lệ tăng dân số
bình quân năm là 3,57%, trong đó, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,27%, tỷ lệ tăng cơ học
2,30%.
Qua số liệu thống kê, dân số của Thành phố có xu hướng giảm ở các quận
trung tâm, nội thành; tăng nhiều ở các quận mới; tăng chậm ở các quận ven và các
huyện. Năm 1999, dân số tại khu vực nội thành cũ (13 quận cũ kể cả quận Tân Phú
tách ra từ quận Tân Bình) chiếm 67,18% tổng dân số thành phố, đến tháng 10/2004 tỷ
lệ này giảm còn 59,3%; dân số 06 quận mới chiếm 14,69% tổng dân số thành phố,
đến tháng 10/2004 tỷ lệ này tăng lên 22,13%. Đây là kết quả bước đầu trong việc thực
hiện chủ trương giãn dân của Thành phố trong những năm qua.
Cũng theo báo cáo trên, dân nhập cư tính tới ngày 01/10/2004 là 1.767.290
người chiếm 28,9% dân số Thành phố (diện KT3, KT4).
4.2. Lao động, việc làm và mức sống dân cư
Năm 2004 dân số trong độ tuổi lao động của Thành phố Hồ Chí Minh là
4.168.308 người, chiếm 68,75% tổng dân số toàn Thành phố. Dân số trong độ tuổi
lao động tập trung chủ yếu ở thành thị với số lượng 3.550.981 người, chiếm 85,19%
dân số trong độ tuổi lao động của Thành phố.
Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch khá nhanh sang các ngành công nghiệp
(34.9%) và dịch vụ (58,8%). Năng suất lao động chung các ngành kinh tế trên địa
bàn Thành phố tăng bình quân 8,5%/năm.
Cơ cấu lao động nơng nghiệp có sự dịch chuyển khá nhanh sang các ngành
công nghiệp và dịch vụ. Lao động trong khu vực nơng-lâm-ngư nghiệp hiện chỉ
cịn chiếm 6,3% tổng lao động đang làm việc trên địa bàn Thành phố và 25% số
lao động đang sinh sống ở nông thôn.
Số lao động được giới thiệu việc làm bình quân đạt 215.000 người/năm,
vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 190.000 người/năm. Số lượng việc làm mới tạo ra

hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước; giai đoạn 2001-2005 đã tạo ra
được khoảng 350.000 việc làm mới cho người lao động. Bình quân hàng năm có
trên 50.000 người có việc làm mới thông qua hoạt động kinh doanh, dịch vụ cá thể,
kinh tế hộ gia đình. Trong khu vực nơng thơn ngoại thành, nhiều ngành nghề được
khôi phục và phát triển đã tạo việc làm ổn định cho lao động, đưa nhanh tỷ lệ sử
dụng lao động trong nông nghiệp tăng đều qua các năm. Những nỗ lực tích cực tạo
việc làm mới trong thời gian qua đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp: tỷ lệ lao động


thất nghiệp trên địa bàn Thành phố có xu hướng giảm xuống, từ mức 6,8% trong
năm 2001 xuống còn 6,1% trong năm 2004.
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Nếu tính theo tỉ giá cố định năm 1994 là 1 USD = 7.500 VNĐ thì GDP bình quân
đầu người của Thành phố năm 2000: 1.365 USD/người/năm; năm 2001:
1.460 USD; năm 2002: 1.558 USD; năm 2003: 1.675 USD; năm 2004: 1.800 USD
(năm 2005 dự ước 1920USD(1)). Thu nhập ngày càng cao khiến cho cơ cấu chi tiêu
của người dân chuyển dịch theo hướng tích cực: chi cho ăn uống ngày càng giảm
và tương ứng là sự gia tăng tỷ phần chi tiêu cho các hoạt động mua sắm, giải trí
khác.
Cơng tác xóa đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả hết sức tích cực khả
quan. Về cơ bản, đến cuối năm 2003, Thành phố đã khơng cịn hộ nghèo theo
chuẩn cũ. Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 145/2004/QĐUB ngày 25/5/2004 phê duyệt chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo Thành
phố giai đoạn 2 (2004-2010). Trên cơ sở đó, các cấp các ngành đã có kế hoạch
triển khai thực hiện, trước mắt đề ra mục tiêu tập trung hỗ trợ cho hộ nghèo nâng
mức thu nhập đầu người trên 4 triệu đồng/năm và giảm hộ nghèo trong 2 năm
2004-2005. Kết quả thực hiện đến cuối năm 2005 cho thấy Thành phố cơ bản
khơng cịn hộ nghèo ở mức thu nhập này. Hiện Thành phố đang phấn đấu giảm
nghèo theo tiêu chuẩn mới (6 triệu đồng/người/năm) xuống cịn 6,6%.
5. Thực trạng phát triển đơ thị và các khu dân cư nơng thơn
Với bình qn diện tích đất tự nhiên gần 3500 m 2/người, do dân cư phân bố

không đồng đều, chủ yếu tập trung ở 13 quận nội thành với mật độ 25.911
người/km2, trong khi đó mật độ dân số của 6 quận ven chỉ khoảng 4.992 người/km 2
và mật độ dân số của 5 huyện ngoại thành khoảng 610 người/km 2; Căn cứ vào lịch
sử hình thành và phân bố dân cư, có thể phân làm 03 khu vực phát triển đô thị và
khu dân cư nơng thơn như sau:
Khu vực trung tâm: Có q trình định hình và phát triển hàng trăm năm, do
vậy hệ thống cơ sở hạ tầng đơ thị hình thành từ lâu với quy mơ nhỏ, khơng cịn đáp
ứng nhu cầu phát triển trong tương lai. Tồn bộ diện tích đất đều đã được sử dụng
với mật độ xây dựng rất cao.
Dân số tăng thấp hơn dự báo là 186.150 người (4,8%). Theo số liệu thống kê
1 Nếu tính theo tỷ giá hiện hành thì GDP đầu người của Thành phố năm 2000 là 990 USD và tăng lên đến mức
khoảng 1430 USD năm 2004 và năm 2005 khoảng 1650 USD.


năm 2005 đất dân dụng bình quân 25,5m2/ người, tăng so với chỉ tiêu dự báo là
22,7m2/người. Đất cơng trình công cộng và cây xanh đạt rất thấp 3,5m 2/người so
với chỉ tiêu là 4,7m2/người. Đất giao thông và bãi đậu xe đạt 2,97m 2/người so với
chỉ tiêu là 3,0m2/người.
Khu vực 6 quận ven: tuy mật độ dân số thấp hơn so với 13 quận nội thành,
nhưng còn bất cập về phát triển không gian đô thị, hạ tầng kỹ thuật khơng theo kịp
với tốc độ đơ thị hóa và phát triển cịn mang tính tự phát.
Dân số tăng hơn so với dự báo là 73.023 người. Năm 2005, đất dân dụng
bình quân 89,2m2/người so với chỉ tiêu dự báo là 92,0m2/người.
Khu vực 5 huyện ngoại thành: Mật độ dân số khá thấp, các khu vực dân cư
phân tán, thuận lợi cho việc phát triển các khu đô thị mới. Dân số tăng so với dự
báo là 153.065 người. Năm 2005, đất dân dụng bình quân 95,7m 2/người tăng so
với chỉ tiêu dự báo là 85,6m2/người.
Thành phố đã và đang triển khai nhiều khu đô thị mới hiện đại trên địa bàn
các quận ven và huyện ngoại thành như: Khu đơ thị mới Thủ Thiêm tổng diện tích
khoảng 772 ha; Khu Nam Thành phố Hồ Chí Minh với quy mơ khoảng 3.000 ha;

Khu đô thị mới Tây Bắc Thành phố với quy mơ khoảng 6.000 ha....
6. Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội
6.1. Giao thông (đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, hàng khơng)
Thành phố Hồ Chí Minh có hệ thống giao thơng tương đối hồn thiện và
đa dạng so với các tỉnh trong khu vực.
- Thành phố hiện có một sân bay Tân Sơn Nhất, thuận tiện cho việc giao lưu
giữa TP. Hồ Chí Minh với các vùng trong nước và quốc tế. Qua nhiều thời kỳ phát
triển, diện tích sân bay đã bị thu nhỏ lại từ 1500 ha xuống còn 886,3 ha.
- Đường sắt khu vực Thành phố và vùng phụ cận nếu tính từ ga Trảng Bom
về ga Hịa Hưng dài 56 km. Tổng diện tích chiếm đất của các nhà ga trên địa bàn
Thành phố là 238,4 ha. Mạng lưới đường sắt và hệ thống ga chưa đáp ứng yêu cầu
chuyên chở của khu vực phía Nam.
- Mạng lưới đường bộ của Thành phố bao gồm các trục quốc lộ do Trung ương
quản lý và các đường tỉnh, đường liên tỉnh, đường nội đô do Thành phố quản lý có
tổng chiều dài khoảng 3.038 km; tổng diện tích chiếm đất là 2.373,2 ha.
Trong những năm qua Thành phố đã từng bước nâng cấp mở rộng và xây


dựng các đoạn của các tuyến đường vành đai như: đường Nguyễn Văn Linh (thuộc
Vành đai 1 và 2), Xa lộ Đại hàn (Vành đai 2)....
Thành phố hiện có 1.350 nút giao thông; các nút giao thông đều giao cắt
đồng mức nên dễ ùn tắc. Để điều hịa giao thơng, tại các giao lộ có đèn tín hiệu
giao thơng, nhưng chưa đủ theo yêu cầu.
- Trên địa bàn Thành phố hiện có khoảng 190 cầu các loại với tổng chiều
dài hơn 16.215 m. Khoảng 14% là các loại cầu sắt, xi măng, gạch xây, gỗ, phần
lớn tập trung nhiều ở các quận ven và các huyện ngoại thành, bị hư hỏng nhiều,
có nguy cơ sụp đổ. Đây là một nhu cầu cấp bách và rất nặng đòi hỏi Thành phố
phải giải quyết trong 5 - 10 năm tới.
- Hệ thống bến-bãi đỗ xe ở Thành phố Hồ Chí Minh gồm có :

+ Các bến xe liên tỉnh: 5 bến (bến xe Miền Đông, bến xe Miền Tây, bến xe
Chợ Lớn, bến xe Cần Giuộc và bến xe Hóc Mơn), tổng diện tích khoảng 18,18 ha.;
+ 1 bến xe buýt chính bố trí ở khu vực chợ Bến Thành;
+ 3 bãi đỗ xe tải bố trí ở vành đai 2 tại khu vực quận 12, An Lạc (Bình
Tân) và Hóc Mơn, với tổng diện tích 3,8 ha;
+ 7 bãi đỗ xe taxi, với tổng diện tích khoảng 3,2 ha;
+ 6 bến kỹ thuật dành cho xe búyt, với tổng diện tích khoảng 8 ha.
Nhìn chung, số lượng và diện tích bến-bãi cịn ít. Đa số các bến xe liên tỉnh
do tập trung ở trong nội đơ, có vị trí khơng phù hợp, bị hạn chế về mặt bằng nên
làm phức tạp thêm cho giao thông đô thị. Hệ thống bến ô tơ tải cịn thiếu nhiều so
với nhu cầu, nhưng chưa có dự án đầu tư cụ thể.
- Về giao thơng vận tải đường thuỷ:
+ Tổng chiều dài các tuyến sông, kênh trên địa bàn Thành phố khoảng 867,5
km. Hầu hết các sông và kênh đào được khai thác sử dụng từ lâu, nhưng chưa được
nạo vét, mở rộng, cải tạo.
+ Hệ thống cảng sông, biển khu vực Thành phố gồm 10 cảng biển và 3 cảng
sông; với 29 cầu cảng biển có chiều dài 5.968 m, và 7 cầu cảng sơng với chiều dài
486 m. Các cảng chính là Sài Gòn, Bến nghé, Tân Thuận đều nằm sâu trong nội
thành nên lượng xe tải ra vào rất lớn, gây ùn tắc gaio thông và ô nhiễm môi trường.
Trong tương lai hệ thống cảng này phải được di dời.
Diện tích đất dành cho giao thông trên địa bàn Thành phố chiếm 10.816,93 ha,


bằng 5,16% diện tích tự nhiên, chiếm 37,62% diện tích đất chun dùng, chiếm
66,6% so với đất có mục đích công cộng.
6.2. Thuỷ lợi (đê điều, hồ chứa nước, kênh mương, cơng trình đầu mối)
Chức năng của hệ thống thủy lợi và mặt nước chuyên dùng của Thành phố Hồ
Chí Minh là tưới tiêu cho nơng nghiệp và điều hồ tiêu thốt nước thải cho Thành
phố. Diện tích đất thủy lợi theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2005 là 2.516,52 ha; đất
sông suối và mặt nước chuyên dùng là 33.250,02 ha .

Trên địa bàn Thành phố có khoảng trên 1.200 km kênh rạch, trong đó có 234
km do Cơng ty thốt nước đơ thị quản lý dùng cho chức năng thốt nước. Hệ thống
sơng ngịi, kênh rạch chịu tác động của chế độ bán nhật triều không đồng đều của
biển Đơng, nên gây khó khăn cho việc thốt nước của cả hệ thống cống - kênh rạch
- sông lớn. Lòng lạch bị bồi lắng, làm khả năng tiêu thoát nước tự nhiên của hệ
thống này bị giảm đi khoảng 50 - 60%.
Hệ thống cống ngầm được xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 19, sau đó
được phát triển thêm vào cuối những năm 1960, vừa thu nước thải, vừa thu nước
mưa, đến nay phát triển mang tính chắp vá và phân bố tập trung ở các quận trung
tâm. Các quận mới như quận 2, quận 9, quận 12, quận Bình Tân, hệ thống thốt
nước cịn ít. Nhiều khu tập trung dân cư ở các quận ven, trong nội thành chưa có
cống thốt nước. Nước thải được thải trực tiếp xuống mặt đất, chảy tràn lan và tự
thấm gây ơ nhiễm mơi trường.
Về cống thốt nước có khoảng 931 km, gần 200 cửa xả trên diện tích lãnh
thổ khoảng 650 km2, phục vụ thoát nước cho 140km2 nội thành và 510 km2 khu
vực xung quanh. Mật độ mạng lưới bình quân là 0,143 m/ha. Chất lượng cống rất
kém do xây dựng từ lâu, hay bị tắc nghẽn, riêng các cống tròn và cống hộp đa số
mới xây dựng nên chất lượng cịn tốt.
Các cơng trình, hệ thống thủy lợi chính của Thành phố gồm:
- Cơng trình thủy lợi đầu tư chủ yếu phục vụ cải tạo đất phèn, mặn, đất
hoang hóa để đưa vào xản xuất, xây dựng các nông trường quốc doanh vùng ven
kênh Thày Cai, An Hạ, kênh Xáng, kênh Ngang, kênh A, B, C (khu Tây Băc thành
phố, diện tích 20.000ha với tổng chiều dài kênh chính 100km, kênh cấp 1, 2: trên
300km)
- Các cơng trình ngăn mặn, tạo nguồn nước ngọt cho vùng đất thấp, nhiễm
mặn theo mùa ven sơng Sài Gịn, Đồng Nai, Nhà Bè, Cần Giuộc.... như các hệ


thống: đê bao ven Rạch Tra - kênh Xáng, Thầy Cai, An Hạ, sơng Chợ Đệm, ven
sơng Sài Gịn - Đồng Nai, sông Nhà Bè, sông Cần Giuộc – Cây Khô.... với tổng

chiều dài 190km
- Hệ thống tưới tiêu các vùng triền, gị thiếu nước tưới với các giếng tưới
cơng nghiệp, bán công nghiệp.... phục vụ phát triển rau, màu, cây công nghiệp
ngắn ngày: Bến Mương - Láng The, Cây Xanh - Bà Bếp (Củ Chi), Rạch Chiếc –
Trau Trảu (Quận 2, 9), Rạch Gò Dưa - Rạch Đĩa (Quận Thủ Đức)....tổng chiều dài
65km
- Các cơng trình khai thác nguồn nước của hồ Dầu Tiếng Tây Ninh (hệ thống kêng
Đông Củ Chi), lượng nước xả các hồ Trị An, Thác Mơ (giảm mặn mùa khơ, tăng lượng
tưới, các cơng trình ngăn triều cường gây úng ngập mùa mưa)
Từng bước nâng cấp, bê tơng hóa, hiện đại hóa và đồng bộ hóa các cơng
trình thủy lợi như kiên cố hóa kênh Đơng Củ Chi, xây dựng hệ thống thủy lợi Hóc
Mơn-Bắc bình Chánh, cơng trình bảo vệ bờ sơng, bờ biển Cần Giờ, các cơng trình
tiêu thốt nước, phịng chống úng ngập.
6.3. Giáo dục - đào tạo
Ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố hiện có 1.425 trường học với khoảng
1,2 triệu học sinh, sinh viên các ngành học, bậc học. Số cán bộ và giáo viên là
52.534 người (Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ TP lần thứ VIII).
Để tăng cường nguồn nhân lực có chất lượng cao, Thành phố đã thực hiện
thành công và tiếp tục triển khai chương trình đào tạo 300 thạc sỹ và tiến sỹ,
chương trình đào tạo 1.000 giám đốc các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tính đến tháng 9 năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 556 trường giáo
dục mầm non, 443 trường tiểu học, 228 trường trung học cơ sở, 115 trường trung
học phổ thông và 29 trường trung học chuyên nghiệp, trong đó có 17 trường trung
học chuyên nghiệp do Thành phố quản lý và 54 trường đại học – cao đẳng (Báo
cáo tình hình phát triển sự nghiệp giáo dục của Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ
Chí Minh tháng 9/2005).
Phần lớn các trường tiểu học của Thành phố, nhất là ở khu vực nội thành
không đạt chuẩn quốc gia theo Quyết định số 1366/GD-ĐT ngày 26/4/1996 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Về cơ sở vật chất trường lớp nhìn chung tuy đã cải thiện
nhiều, nhất là vài năm gần đây, nhưng so với mục tiêu đào tạo mới được Luật Giáo



dục quy định thì vẫn cịn bất cập; chất lượng kiến trúc trường khá cách biệt giữa
nội thành - ngoại thành.
- Bình qn 1,4 xã/ phường có 1 trường THCS ; tương ứng khoảng 26.776
dân và đạt khoảng 53 học sinh cấp 2/1.000 dân ; tỷ lệ lớp bình quân/1 trường là
31,40; cơ sở vật chất của các trường tương đối tốt.
- Bình qn 2,7 xã/phường có 1 trường THPT, tương ứng khoảng 51.640 dân
và đạt 27 học sinh THPT/1.000 dân (tỷ lệ này giảm dần từ nội thành ra ngoại thành).
Kiến trúc các trường khá tốt, đảm bảo tiêu chuẩn cho việc dạy và học.
Thành phố đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào
năm 2002. Hiện đang tiến hành phổ cập giáo dục bậc trung học, đã có 129/317
phường xã đạt chuẩn phổ cập bậc trung học (đạt 40,7%). Dự kiến đến hết năm
2005 sẽ hồn thành phổ cập giáo dục phổ thơng trung học các quận nội thành. Năm
2005, tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi cấp trung học cơ sở ước đạt 86,4% và phổ
thông trung học ước đạt 53,6% (Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ
TP lần thứ VIII).
Đầu tư cho giáo dục tăng dần (24% trong ngân sách chi thường xuyên của
Thành phố được đầu tư cho giáo dục và khoảng 20% tổng ngân sách đầu tư xây
dựng cơ bản giành để xây dưng trường lớp), cơng tác xã hội hóa giáo dục ngày
càng đạt hiệu quả tốt và được sự hưởng ứng, đồng tình của xã hội (Báo cáo chính
trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ TP lần thứ VIII).
Hiện nay, tỷ lệ các trường đạt chuẩn quốc gia còn thấp: trường tiểu học có
20/443 trường (chiếm 4,51%); trường trung học cơ sở có 7/228 trường (3,07%);
trường trung học phổ thơng có 1/115 (0,86%) đạt chuẩn quốc gia. Chủ yếu là do
các trường ở thành phố không bảo đảm chuẩn tối thiểu về diện tích/mỗi học sinh.
Tổng số diện tích trường học thuộc hệ thống giáo dục phổ thông (Mầm non, Tiểu
học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) trên địa bàn Thành phố hiện nay mới
có 515,24 ha. Trong đó diện tích bình qn một trường, đối với tiểu học là 0,4 ha;
đối với trung học cơ sở là 0,55 ha và đối với trung học phổ thông là 0,87 ha; diện

tích bình qn trên một học sinh tương ứng với các cấp là 4,27 m 2; 3,99 m2; 6,30
m2 (Báo cáo tình hình phát triển sự nghiệp giáo dục của Sở Giáo dục và Đào tạo
TP. Hồ Chí Minh tháng 9/2005).
- Về Trung tâm giáo dục thường xuyên (GDTX), học tập cộng đồng (HTCĐ).
Hiện nay Thành phố có 26 trường GDTX, 24 HTCĐ. Trong đó có một số trung
tâm lớn như: Trung tâm GDTX Chu Văn An - Trung tâm cấp Thành phố với


khoảng trên 3.000 học viên, cơ sở vật chất đang cần tu sửa nâng cấp để có thể đáp
ứng yêu cầu học tập của khoảng trên 5.000 học viên; Trường Bổ túc dân chính Lê
Q Đơn (lớp đêm): khoảng 800 học viên, chủ yếu là cán bộ, công nhân viên chức,
nhưng khơng có cơ sở riêng, phải mượn địa điểm của trường THPT Lê Q Đơn Quận 3; Ngồi ra mỗi quận, huyện cịn có 1 Trung tâm GDTX với qui mô từ 600 2.000 học viên. Một số quận, huyện như Nhà Bè, Quận 4 chưa có Trung tâm
GDTX
- Về giáo dục trung học chuyên nghiệp (THCN): Trên địa bàn thành phố
hiện nay có 29 trường Trung học Chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, 12 trường
đại học, cao đẳng có hệ THCN trực thuộc nhiều Sở, Bộ ngành quản lý. Hầu hết các
trường này được thành lập từ sau ngày giải phóng 1975. Từ năm 1990 trở lại đây
có 10 trường THCN (8 trường thuộc thành phố và 2 trường thuộc Trung ương)
được thành lập trên cơ sở sắp xếp lại hoặc nâng cấp từ các trường nghiệp vụ,
trường trung học nghề. Tất cả các trường THCN đều là loại trường đào tạo theo hệ
trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật cùng các loại bồi dưỡng, dạy nghề
ngắn hạn.
- Về cơ sở dạy nghề: Thành phố thành lập và đăng ký mới trên 100 cơ sở,
nâng tổng số cơ sở dạy nghề đến cuối năm 2005 đóng trên địa bàn là 290 cơ sở.
Mạng lưới này phân bố ở khắp 24 quận, huyện, có quy mơ đào tạo trên 30 nghìn
học sinh cơng nhân kỹ thuật và 300 nghìn học viên ngắn hạn (Báo cáo chính trị
trình Đại hội đại biểu Đảng bộ TP lần thứ VIII).
- Về giáo dục đại học, sau đại học: Công tác giáo dục đại học và sau đại học
không chỉ phục vụ cho nhu cầu Thành phố mà còn cho các tỉnh phía Nam. Số trường
đại học-cao đẳng (ĐH-CĐ) trên địa bàn Thành phố tăng nhanh từ năm 1994-1998

(năm 1990 có 21 trường, năm 1994 tăng lên 25 trường, năm 1995 tăng lên 29 trường,
năm 1997 tăng lên 37 trường và năm 1998 là 38 trường).Tính đến nay trên địa bàn
TP. Hồ Chí Minh đã có 54 trường ĐH-CĐ, trong đó TP quản lý 2 trường ĐH và 8
trường CĐ. (Báo cáo tình hình phát triển sự nghiệp giáo dục của Sở Giáo dục và Đào
tạo TP. Hồ Chí Minh tháng 9/2005).
- Trong những năm qua thành phố thực hiện chủ trương xã hội hóa bằng nhiều
hình thức đa dạng như huy động các thành phần kinh tế trong và ngòai nước đầu tư
xây dựng các trường dân lập, tư thục và bán cơng. Hiện thành phố có 85 trường bán
cơng (chiếm 6,3%), 244 trường dân lập (chiếm 18,1%) và một số trường đại học tư
thục mới vừa được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập.
6.4. Y tế


Hoạt động y tế Thành phố trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu
đáng kể, ngày càng thể hiện vai trò trung tâm y tế của Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam và Nam bộ. Chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao, cơng
tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng ngày càng phát triển, mạng lưới y tế cơ sở tiếp
tục được củng cố và phát triển, cơng tác xã hội hóa y tế đã đạt được những kết quả
khả quan.
Loại hình y tế trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh có 8 loại với tổng số 398 cơ sở
trong đó trạm y tế phường xã là 317 cơ sở, chiếm 79,65%; bệnh viện 38 cơ sở,
chiếm 9,54; phòng khám khu vực 29 cơ sở, chiếm 7,28%; còn lại là các loại cơ sở
khác như nhà điều dưỡng, trại phong, nhà hộ sinh….
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cịn có 10.849 cơ sở Y tế tư nhân hoạt
động và một số bệnh viện tư nhân (24 bệnh viện tư nhân) trong và ngòai nước. Tuy
nhiên chỉ có 03 bệnh viện (Việt Pháp, Tâm Đức, Triều An) là đầu tư mới với quy
mô lớn, các bệnh viện còn lại đều sử dụng mặt bằng nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh
trong khu vực nội thành nên quy mô rất nhỏ .
Trên địa bàn Thành phố cịn có cơ sở đào tạo đại học y dược do Bộ Y Tế
quản lý và trường trung học y tế, trường nữ hộ sinh trung cấp là nguồn cung cấp

cán bộ hỗ trợ, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chuyên môn ngành y.
Số giường bệnh trên 10.000 dân ở các bệnh viện công lập đã tăng từ 30
giường năm 2000 lên 32,5 giường năm 2004 (Báo cáo chính trị trình Đại hội đại
biểu Đảng bộ TP lần thứ VIII).
Cơ sở vật chất ngành y tế không ngừng được nâng cấp và mở rộng trong thời
gian qua, đã khánh thành và đưa vào hoạt động nhiều cơ sở y tế như Trung tâm y tế
chuyên sâu của bệnh viện Từ Dũ, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, cơ sở mới của
bệnh viện Hùng Vương, Khoa thận của bệnh viện Nhân dân 115, Trung tâm y tế
quận 12.
6.5. Văn hoá
Trong những năm gần đây, Thành phố đã thực hiện tốt các chương trình hành
động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về “ Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; cuộc vận động “Toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa” được thực hiện rộng khắp; các chương trình “Năm trật
tự đơ thị”, “Năm kỷ cương, văn minh đơ thị” được khiển khai đã có kết quả bước
đầu, góp phần xây dựng mơi trường văn hóa đơ thị và diện mạo văn hóa mới cho


Thành phố.
Năm 2004, Thành phố có 21 rạp chiếu bóng - video, 25 thư viện (trong đó
cấp quận, huyện là 24), 9 bảo tàng, 10 nhà truyền thống, 12 di tích lịch sử và khá
nhiều đình, chùa, miếu, nhà thờ, có 4 nhà văn hố gắn với hoạt động đối ngoại
nhằm mở rộng giao lưu văn hoá thế giới. Ngành văn hóa thơng tin có nhiều cố gắng
phục vụ nhu cầu của xã hội nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao, chưa tương
xứng với tầm cỡ của một thành phố lớn. Mạng lưới văn hóa thơng tin phân bổ khơng
đều, nhiều cơ sở có từ trước giải phóng, các quận huyện mới thì thiếu, các quận nội
thành sử dụng không hết công suất. Cơ sở xuất bản, in ấn báo chí trên địa bàn Thành
phố khá nhiều, đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo.
Chủ trương xã hội hóa trong các hoạt động văn hóa xã hội được thực hiện
thường xuyên và có hiệu quả cao, huy động được tiềm lực vật chất và tinh thần của

nhân dân, có ý nghĩa sâu rộng trên các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội.
6.6. Thể dục thể thao
Hoạt động thể dục thể thao, đặc biệt là phong trào thể thao nhân dân tiếp tục
sôi động, lan rộng theo hướng xã hội hóa ngày càng tốt hơn.
Trong những năm gần đây, ngành thể dục thể thao của Thành phố rất được
các cấp, các ngành quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần. Năm 2005, số người tập
luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 20% số dân. Hình thức nội dung tập luyện
thể dục thể thao của quần chúng ngày càng đa dạng phong phú và rộng khắp, các
hoạt động thể dục thể thao quần chúng gắn với các ngày lễ lớn của đất nước đã trở
thành truyền thống.
Công tác đào tạo vận động viên (VĐV) trong giai đoạn 2001 - 2005 được tổ
chức đào tạo ở 38 môn và được phân thành 4 tuyến: dự tuyển, năng khiếu tập trung,
dự bị tập trung và trọng điểm. Hệ thống đào tạo ngày càng hoàn thiện và có tính khoa
học cao đã đáp ứng được chất lượng đào tạo trong giai đoạn phát triển của xã hội nói
chung và ngành thể dục thể thao nói riêng. Cơng tác đào tạo vận động viên thể thao
thành tích cao cũng được chú trọng thông qua việc tổ chức tập huấn nước ngoài, mời
chuyên gia cho các đội thể thao. Sự đầu tư chuyên môn tăng đều hàng năm ở cả số
lượng môn và số lượng nhân sự tập huấn.
Sự đầu tư tài năng thể thao Thành phố trong giai đoạn 2001 - 2005 mang lại
kết quả rất khả quan thơng qua thành tích thi đấu tại các giải trong nước và quốc tế.


Cụ thể: đạt hạng nhất toàn đoàn tại hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc lần thứ VI năm
2004 tại Huế; đoạt 15 HCV, 20 HCB; 20 HCĐ trong các giải thi đấu quốc tế năm
2001; 42 HCV, 29 HCB; 28 HCĐ trong các giải thi đấu quốc tế năm 2004. Đặc
biệt, trong giai đoạn này thể thao Thành phố đã đóng góp nhiều cán bộ, HLV, VĐV
tham dự các kỳ SEA Games (năm 2001 & 2003), Olympic 2000 và Asiad 2002 hơn
22 môn thể thao và đã đạt được kết quả rất cao, đặc biệt hơn là năm 2003 nước ta
là nước chủ nhà của SEAGames 22, các VĐV Thành phố đóng góp vào đội tuyển

quốc gia tham gia thi đấu 24/32 môn và đã đạt được 25 HCV - 19HCB - 22HCĐ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành thể thao Thành phố cũng được cải thiện
đáng kể, một số cơ sở sân bóng chuyền, bóng rổ, sân quần vợt, sân cầu lơng, sân
bóng bàn, bóng ném được làm mới và nâng cấp cải tạo thường xuyên, các cơ sở
lớn như: SVĐ Thống Nhất, SVĐ Quân khu 7, Nhà thi đấu Phan Đình Phùng,
Nhà thi đấu Phú Thọ, Trung tâm TDTT Thành long, Hồ bơi Yết Kiêu - Lam Sơn
- Tân Sơn Nhất có khả năng phục vụ thi đấu trong nước và quốc tế.
Lợi thế của Thành phố là có 3 cơ sở lớn về đào tạo chuyên ngành thể dục thể
thao là: Trường Đại học Thể dục Thể thao II - Thủ Đức; Trường Cao đẳng sư phạm
thể dục thể thao II - Nguyễn Trãi; Trường Nghiệp vụ thể dục thể thao thuộc Sở Thể
dục Thể thao Thành phố, là nơi đào tạo cung ứng lực lượng vận động viên thi đấu
chủ yếu cho Thành phố và quốc gia (Những năm qua 1/3 số vận động viên cấp
quốc gia được đào tạo từ đây).
Thực hiện chủ trương xã hội hóa, hiện nay nhiều cơ sở ngịai cơng lập đã
phát triển như đầu tư sân bóng đá, bóng bàn, cầu lông, quần vợt, thể dục thẩm mỹ
và hồ bơi … Tuy nhiên do chi phối bởi Luật Doanh nghiệp nên việc quản lý về
chuyên môn nhằm đảm bảo an tòan, sức khỏe cho người đến tập luyện chưa được
chặt chẽ.
6.7. Năng lượng
Nhu cầu tiêu thụ điện của Thành phố Hồ Chí Minh rất lớn, trong đó bên
cjcạnh nhu cầu điện sử dụng cho sản xuất kinh doanh, điện phục vụ cho tiêu dùng
dân cư cũng rất cao. Tính chung tốc đọ tăng trưởng tiêu dùng điện năng toàn Thành
phố cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
Nguồn cấp điện tại chỗ của Thành phố là nhiệt điện với các nhà máy nhiệt
điện Thủ Đức, Chợ Quán, Hiệp Phước. Tuy nhiên nguồn điện trên chỉ đáp ứng
được một phần nhu cầu của Thành phố, vì vậy trong cơ cấu điện năng phụ thuộc
nhiều vào nguồn cung cấp từ các tỉnh lân cận, như Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu,


Bình phước....

Hệ thống cung cấp điện của Thành phố khá phát triển với trạm nguồn 500
kV tại Phú Lâm, các trạm nguồn 220 kV Phú Lâm, Hóc Mơn, Nhà Bè, Sài Gòn,
Cát Lái, Tao Đàn và hệ thống trạm nguồn 110kV, 66kV bố trí đều khắp địa bàn (30
trạm). Hiện Thành phố có kế hoạch cải tạo các trạm 66 kV lên 110 kV đẻ thuận
tiện trong việc quản lý, vận hành và sửa chữa.
6.8. Bưu chính viễn thơng
Xác định bưu chính viễn thơng là chìa khóa trong hội nhập quốc tế và là một
tiền đề tăng khả năng cạnh tranh, thu hút đầu tư, thời gian qua Thành phố rất quan
tâm đầu tư cơ sở hạ tầng và hiện đại hóa cơng nghệ. Tốc độ tăng trưởng bưu chính,
viễn thông luôn đạt mức 20-21%/ năm, đáp ứng phần lớn nhu cầu thông tin liên lạc
phục vụ phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Hiện nay, Thành phố có 03 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện thoại cố
định phục vụ khoảng 880.000 thuê bao và 05 đơn vị cung cấp điện thoại di động sử
dụng công nghệ khác nhau (GSM, CDMA, iPASS) với dung lượng thuê bao khoảng
1.900.000. Mật độ thuê bao điện thoại đạt 45 máy/100 dân.
Tốc tăng trưởng cung cấp và thuê bao Internet rất cao: 100-200%/ năm, với
quy mô khoảng 800.000 thuê bao quy đổi và khoảng 10.000 thuê bao ADSL.
Hệ thống bưu điện trung tâm, các bưu cục và các điểm bưu điện văn hóa
quan tâm đầu tư và phân bổ rộng khắp địa bàn dân cư.
Tổng diện tích đất dành cho chuyển dẫn năng lượng và truyền thông đạt
63,56 ha.
6.9. Khoa học và cơng nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh, với vai trị trung tâm khoa học và cơng nghệ phía
Nam đã và đang tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu các đề tài ứng dụng, chuyển giao
công nghệ phục vụ phát triển kinh tế và mọi mặt đời sống. Hiện nay Thành phố
đang tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao như: thơng tin, sinh học, cơ khí – tự
động, vật liệu mới nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
Công viên Phần mềm Quang trung, với quy mô sử dụng đất 44 ha, đã thu hút
68 doanh nghiệp hoạt động (có 31 doanh nghiệp nước ngoài), tổng vốn đăng ký

1.000 tỷ đồng với trên 3.300 người đang làm việc và học tập.


Khu cơng nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai đầu tư xây
dựng trên quy mơ diện tích 913 ha, hiện đã có 17 dự án đầu tư, trong đó đầu tư
trực tiếp nước ngồi có 10 dự án với số vốn 712,5 triệu USD và 7 dự án đầu tư
trong nước với tổng số vốn 933,6 tỷ đồng.
Sự gắn kết giữa khoa học và công nghệ với q trình phát triển kinh tế - xã
hội có bước tiến bộ mới, tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học khoảng 6080%. Sự liên kết giữa doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu và cơ quan quản lý nhà
nước được hình thành, thị trường khoa học cơng nghệ được tạo lập góp phần tăng
năng lực cạnh tranh và lợi nhuận cho các doanh nghiệp.
7. Quốc phòng, an ninh
Thành phố Hồ Chí Minh có vai trị then chốt trong việc bảo vệ chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, do đó tăng cường tiềm lực quốc phịng và an ninh,
tiếp tục giữ vững và ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội; tạo mơi trường ổn
định cho đầu tư, sản xuất - kinh doanh; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn Thành phố và khu vực Nam bộ luôn được xác định là nhiệm vụ chính trị quan
trọng hàng đầu.
Hiện Thành phố đã giành 490 khu vực với diện tích khoảng 2.047 ha để bố
trí các cơng trình phục vụ quốc phịng, an ninh
8. Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế - xã hội gây áp lực
đối với đất đai
Những phân tích trên về phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố trong 5
năm qua đã phản ánh những áp lực đối với qui mô đất đai của thành phố. Đó là tác
động của các yếu tố sau:
- Sự đề cao các mục tiêu về số lượng, chưa chú trọng đầy đủ các yếu tố về chất
lượng trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trước đây đã làm cho
các ngành, các cấp, các địa phương của thành phố chưa quan tâm đúng mức về chất
lượng phát triển nói chung và mơi trường sống của cư dân nói riêng.
- Một số các cơng trình, chương trình trọng điểm về phát triển cơ sở hạ tầng và

dịch vụ đô thị triển khai chậm, làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế của thành phố
và cải thiện chất lượng đơ thị. Tính đồng bộ các cơng trình chưa được đề cao. Chất
lượng một số cơng trình đầu tư chưa đạt u cầu, nhanh xuống cấp.
- Công tác quy hoạch đô thị, quản lý thực hiện quy hoạch của bộ máy Chính
quyền các cấp cịn yếu kém làm phát sinh tình trạng xây dựng tự phát trong dân cư,


thiếu kết nối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội chung của thành phố, làm phát
sinh những vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường, giao thơng, tiện ích cơng cộng
và các vấn đề xã hội khác. Các quy hoạch dài hạn liên quan đến phát triển đơ thị
bền vững cịn thiếu.
- Sự gia tăng dân số nhanh, chủ yếu là tăng cơ học đang gây áp lực rất lớn về
nhu cầu sử dụng đất xây dựng đô thị, đặc biệt ở các quận nội thành. Trong đó đáng
kể là nhu cầu đất cho các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật tăng cao. Sự phối hợp
phát triển với các tỉnh xung quanh còn chậm, chưa phát huy đầy đủ vai trò của
thành phố như là hạt nhân của Vùng, vừa hợp tác vừa hỗ trợ các tỉnh phát triển, kết
nối hạ tầng đồng bộ trong Vùng còn nhiều bất cập.
- Việc nâng cấp, cải tạo, chỉnh trang đô thị phục vụ cho mục tiêu hiện đại
hố, cơng nghiệp hố cũng u cầu diện tích đất không nhỏ, đi kèm với giải quyết
hàng loạt vấn đề về như bồi thường, giải phóng mặt bằng, di dời các cơ sở ô
nhiễm, xây dựng các khu tái định cư...
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm biến đổi cơ cấu sử dụng đối với
đất đai. Với chiến lược phát triển kinh tế lấy công nghiệp làm then chốt, chủ đạo, dịch
vụ làm mũi nhọn thì hàng loạt các khu cơng nghiệp, thương mại dịch vụ đang và sẽ
được xây dựng là tiền đề cho việc chuyển một khối lượng đất đai tương đối từ mục
đích sử dụng vào nơng nghiệp sang đất đơ thị, có đầu tư cơ sở hạ tầng.
- Từ sự thay đổi trong cơ cấu sử dụng đất hiện có dẫn đến địi hỏi phải có
giải pháp chiến lược cho vấn đề này.
- Chính sách thị trường bất động sản ln thay đổi tác động đến quan hệ
cung cầu, chất lượng hàng hóa bất động sản trên thị trường, gây áp lực lên quỹ đất,

về cả phương diện qui mô diện tích cũng như cơ cấu sử dụng.
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở hạ lưu và lưu vực sông Đồng Nai nên vừa
chịu tác động của sản xuất và sinh hoạt tại địa bàn, vừa bị tác động đến môi trường
sống từ các hoạt động trên của toàn lưu vực.
- Với vị trí, vai trị của một Thành phố lớn, đối với vùng ngoại thành, yêu
cầu tăng cường diện tích đất cho phát triển thủy lợi, giao thông, cải tạo lại các khu
dân cư nông thôn theo hướng đô thị hoá tại chỗ là tất yếu khách quan. Tuy nhiên,
một khi lao động nông nghiệp chưa chuyển kịp theo yêu cầu tại chỗ thì việc mất
đất canh tác sẽ là một áp lực lớn phải tính đến trong việc cơ cấu lại việc sử dụng
quỹ đất đai.




×