Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

phân tích công nợ và khản năng thanh toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.08 KB, 61 trang )

PHẦN 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ TÀI PHÂN TÍCH CÔNG NỢ
VÀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN TRONG DOANH NGHIỆP
Một số khái niệm cơ bản về công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Công nợ
Công nợ là khái niệm chỉ quyền lợi được thu hay nghĩa vụ phải trả cho các cá nhân
hay tổ chức phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công nợ
bao gồm các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả.
* Nợ phải trả
Theo VAS 01 thì nợ phải trả là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các
giao dịch và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp phải thanh toán từ các nguồn lực của
mình. Nợ phải trả xác định nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp khi doanh nghiệp nhận
về một tài sản, tham gia một cam kết hoặc phát sinh các nghĩa vụ pháp lý với tổ chức
hay cá nhân xác định. Nợ phải trả phát sinh từ các giao dịch và sự kiện đã qua và sự tồn
tại của nghĩa vụ nợ này khôg phụ thuộc vào bất cứ sự kiện không chắc chắn nào trong
tương lai. Các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp phải đảm bảo hai tiêu chuẩn: có đủ
điều kiện chắc chắn là doanh nghiệp sẽ phải dùng một lượng tiền chi ra để trang trải cho
những nghĩa vụ hiện tại mà doanh nghiệp phải thanh toán và các khoản nợ này phải
được xác định một cách đáng tin cậy. Nợ phải trả được phân loại theo nhiều cách khác
nhau, nhưng nhìn chung nợ phải trả được phân loại theo thời hạn thanh toán ngắn hạn
hoặc dài hạn. Nợ phải trả bao gồm các loại chính sau:
- Vay: đây là một hình thức huy động vốn của doanh nghiệp. Vay gồm có vay
ngắn hạn và dài hạn, vay ngắn hạn thường để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động còn thiếu
hoặc để đầu tư chứng khoán ngắn hạn, vay dài hạn thường để đầu tư cho tài sản dài hạn.
Để vay vốn doanh nghiệp có thể vay của các chủ nợ, ngân hàng, phát hành trái phiếu
- Nợ phải trả người bán: là khoản phát sinh trong quá trình mua hàng hóa, vật tư
hoặc nhận cung ứng dịch vụ để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Người mua ứng tiền trước: là số tiền nhận ứng trước của khách hàng để doanh
nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ Khoản tiền ứng trước này sẽ là một khoản nợ phải
trả của doanh nghiệp đối với người bán.
- Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước: trong quá trình hoạt động doanh nghiệp


phải nộp Nhà nước các khoản thuế đã được quy định như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, lệ phí , nếu doanh
nghiệp chưa nộp vào ngân sách nhà nước sẽ hình thành khoản thuế phải nộp Nhà nước.
- Phải trả người lao động: bao gồm các khoản tiền lương, tiền phụ cấp, trợ cấp phải
trả cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp. Các khoản phụ cấp, trợ cấp gồm: trợ
cấp độc hại, trợ cấp khu vực, trợ cấp bảo hiểm xã hội,
- Chi phí phải trả: bao gồm các khoản ghi nhận vào chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ nhưng thực tế chưa chi trả trong kỳ để đảm bảo nguyên tắc phù hợp giữa doanh
thu và hci phí. Bao gồm: trích trước chi phí sửa chữa lớn, trích trước chi phí tiền lương
cho công nhân sản xuất, trích trước chi phí lãi vay
- Phải trả nội bộ: là khoản nợ phải trả giữa đơn vị cấp trên và đơn vị cấp dưới hoặc
giữa các đơn vị cấp dưới có tổ chức đơn vị kế toán riêng với nhau.
- Phải trả theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng:
- Các khoản phải trả khác: bao gồm các khoản phải trả của doanh nghiệp mà chưa
được phản ánh vào các tài khoản từ TK331 đến TK 337, thể hiện các nghiệp vụ chủ yếu:
giá trị tài sản thừa chưa xử lý hoặc đã xử lý, số tiền trích các khoản trích theo lương, các
khoản phải trả do kỹ quỹ ký cược với các đơn vị bên ngoài,
- Các khoản dự phòng phải trả: bao gồm các khoản dự phòng trợ cấp mất việc,
phải trả dài hạn.
* Nợ phải thu là một bộ phận tài sản của doanh nghiệp và được thể hiện bằng việc
doanh nghiệp có quyền nhận tiền, sản phẩm, hàng hóa từ khách hàng, tổ chức hay cá
nhân khác trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các khoản phải thu của doanh nghiệp
bao gồm các khoản như sau:
- Nợ phải thu khách hàng: đây là khoản nợ được hình thành từ chính sách bán chịu
trong quá trình buôn bán hoặc cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp, là bộ phận chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng khoản mục phải thu nhất là ở các doanh nghiệp thương mại.
- Trả trước cho người bán: đây là khoản ứng trước của doanh nghiệp cho người
cung cấp để mua hàng hóa hay được cung cấp dịch vụ.
- Nợ phải thu nội bộ: đây là khoản phát sinh trong quan hệ thanh toán giữa đơn vị
cấp trên với các đơn vị cấp dưới, giữa các đơn vị nội bộ có tổ chức kế toán riêng trong

một công ty hoặc tổng công ty về giao vốn, bán hàng nội bộ, chi hộ theo quy chế của
từng đơn vị.
- Tạm ứng: là khoản phải thu của doanh nghiệp đối với người lao động của mình
khi doanh nghiệp ứng tiền để người lao động thực hiện nhiệm vụ kinh doanh được giao.
- Phải thu khác: bao gồm nhiều khoản phải thu ngoài phạm vi các khoản nợ phải
thu ở trên như: giá trị các tài sản thiếu đang chờ xử lý; các khoản phải thu bồi thường từ
các cá nhân hay tổ chức đã được quy trách nhiệm bắt bồi thường; các khoản chi như chi
phí sản xuất, chi dự án mà chưa được cấp có thẩm quyền duyệt phải thu hồi; các khoản
chi phát sinh khi cổ phần hóa: hỗ trợ thôi việc, đào tạo lao động
Khả năng thanh toán
Tình hình tài chính của một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng và tác động trực tiếp lên
tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Để chúng ta có thể thấy rõ được tình
hình tài chính hiện tại và tương lai cần xác định các chỉ tiêu phân tích khả năng thanh
toán của doanh nghiệp. Vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp là gì? Khả năng
thanh toán của doanh nghiệp là khả năng trang trải các khoản công nợ được bảo đảm
bằng tiền và tài sản của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán còn là nhân tố phản ánh trực
tiếp rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng thanh toán quá
thấp có thể đối mặt với sự mất khả năng thanh toán trầm trọng, có nguy cơ phá sản cao.
Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán
của doanh nghiệp
Tầm quan trọng của việc phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh
toán trong doanh nghiệp
Công nợ bao gồm các khoản phải thu và nợ phải trả, đây là một vấn đề rất phức tạp
nhưng lại hết sức quan trọng, vì nó tồn tại trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của
mọi doanh nghiệp. Sự tăng hay giảm của các khoản phải thu cũng như các khoản nợ
phải trả có tác động rất lớn đến việc bố trí cơ cấu nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh. Việc
bố trí cơ cấu nguồn vốn cho chúng ta thấy được sức mạnh tài chính của doanh nghiệp
khi mà tỷ lệ nợ của doanh nghiệp quá cao thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp chịu tác động bởi các nguồn lực bên ngoài, phụ thuộc rất lớn đến các chủ

nợ, doanh nghiệp không chủ động được các nguồn vốn để đảm bảo hoạt động kinh
doanh, điều này sẽ không tốt và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Để nắm được tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu và nợ phải trả của doanh
nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét phân tích chỉ tiêu về các khoản nợ phải thu và các
khoản nợ phải trả. Trên cơ sở đó chúng ta có thể thấy được xu hướng vận động của các
khoản phải thu cũng như các khoản phải trả như thế nào để từ đó có kế hoạch điều chỉnh
cơ cấu tài chính hợp lý cũng như đưa ra các biện pháp hiệu quả nhất để thu hồi công nợ,
hạn chế nợ quá hạn,nợ khó đòi tăng cao. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài ,đảm bảo khả năng
thanh toán, tránh nguy cơ phá sản.
Ý nghĩa của việc phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán
trong doanh nghiệp
Đối với nhà quản lý doanh nghiệp
Việc phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán giúp nhà quản lý doanh
nghiệp biết được xu hướng vận động của tình hình công nợ, khả năng thanh toán, các
khoản phải thu, nợ phải trả Từ đó tìm hiểu nguyên nhân sự biến động đó, nhận định nó
tốt hay xấu để có biện pháp để duy trì hay nâng cao các chỉ tiêu này, đẩy mạnh công tác
thu hồi các khoản phải thu, có các kế hoạch trả các khoản nợ, điều chỉnh cơ cấu vốn hợp
lý, đảm bảo khả năng thanh toán tốt giảm thiểu rủi ro phá sản.
Đối với chủ sở hữu
Chủ sở hữu là những người giao vốn cho doanh nghiệp hoạt động và có thể chịu
rủi ro, nếu chủ sở hữu trực tiếp quản lý hoạt động kinh doanh thì họ sẽ chịu trách nhiệm
về tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhưng nếu chủ sở hữu tách biệt với người quản
lý thì chủ sở hữu cần biết đến tình hình tài chính chung cũng như tình hình công nợ và
khả năng thanh toán của doanh nghiệp để quyết định có cấp vốn cho doanh nghiệp tiếp
tục hoạt động nữa hay không hay ngừng hoạt động hoặc bán cổ phiếu (nếu trong công ty
cổ phần). Một doanh nghiệp có tình trạng nợ phải thu lớn và dây dưa kéo dài thì xem
như doanh nghiệp đó làm ăn không hiệu quả, không quản lý tốt công tác thu hòi nợ phải
thu.
Đối với các chủ nợ

Chủ sở hữu là những người giao vốn cho doanh nghiệp hoạt động và có thể chịu
rủi ro, nếu chủ sở hữu trực tiếp quản lý hoạt động kinh doanh thì họ sẽ chịu trách nhiệm
về tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhưng nếu chủ sở hữu tách biệt với người quản
lý thì chủ sở hữu cần biết đến tình hình tài chính chung cũng như tình hình công nợ và
khả năng thanh toán của doanh nghiệp để quyết định có cấp vốn cho doanh nghiệp tiếp
tục hoạt động nữa hay không hay ngừng hoạt động hoặc bán cổ phiếu (nếu trong công ty
cổ phần). Một doanh nghiệp có tình trạng nợ phải thu lớn và dây dưa kéo dài thì xem
như doanh nghiệp đó làm ăn không hiệu quả, không quản lý tốt công tác thu hòi nợ phải
thu.
Nội dung phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
Nội dung phân tích tình hình công nợ
Phân tích tình hình công nợ phải thu
Khoản phải thu là những khoản tiền mà khách hàng và những bên liên quan đang
nợ doanh nghiệp vào thời điểm lập báo cáo, các khoản nợ này sẽ được trả và được coi là
tài sản của doanh nghiệp. Khoản nợ phải thu là những khoản của doanh nghiệp bị đơn vị
khác chiếm dụng. Khoản nợ phải thu bao gồm cả khoản nợ phải thu ngắn hạn và nợ phải
thu dài hạn. Các khoản phải thu của doanh nghiệp bao gồm: khoản phải thu khách hàng,
trả trước cho người bán, thuế VAT được khấu trừ, phải thu nội bộ, tạm ứng, phải thu
khác,
Tùy vào đặc điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, quan hệ của doanh nghiệp với
các doanh nghiệp khác, thời kỳ kinh daonh… mà tỷ trọng của khoản phải thu trong tổng
tài sản có tỷ trọng khác nhau. Để đánh giá khoản này ta thông qua chỉ tiêu tỷ lệ giữa
tổng giá trị các khoản phải thu và tổng tài sản như sau:
Tỷ lệ giữa tổng giá trị khoản
phải thu và tổng tài sản
=
Tổng giá trị các khoản phải thu
x 100%
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình và mức độ vốn kinh doanh của doanh nghiệp đang

bị các đơn vị khác tạm thời chiếm dụng. Tùy từng doanh nghiệp mà chỉ tiêu này có thể
cao hay thấp. Một số nhân tố tác động lên chỉ tiêu này như sau:
+ Phương thức bán hàng của doanh nghiệp: thông thường ở các doanh nghiệp bán
lẻ, bán hàng thu tiền ngay thì tỷ trọng khoản phải thu chiếm tỷ trọng thấp. Ngược lại ở
các doanh nghiệp bán buôn, bán sĩ thì tỷ trọng khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn.
+ Khả năng quản lý nợ của doanh nghiệp, chính sách tín dụng bán hàng của doanh
nghiệp: thể hiện qua các điều khoản tín dụng (tiêu chuẩn tín dụng, thời hạn tín dụng, tỷ
lệ chiết khấu nếu trả trước hạn) và hạn mức tín dụng tối đa cho phép đối với từng khách
hàng. Ở những doanh nghiệp mà kỳ hạn tín dụng dài, số dư nợ định mức cho khách
hàng cao thì các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn. Để đánh giá tính hợp lý của chỉ tiêu
này cần đặt trong mối quan hệ doanh thu của doanh nghiệp.
+ Khả năng thanh toán của khách hàng: bao gồm các thông tin thu thập cũng như
sự phân tích về khả năng thanh toán của khách hàng như: uy tín trong thanh toán, khả
năng trả nợ, vốn, điều kiện kinh doanh, tài sản đảm bảo, quan hệ với doanh nghiệp, và
các biệ pháp xử lý các khoản nợ phải thu quá hạn. Nếu khoản phải thu chiếm tỷ trọng
lớn mà nguyên nhân không xuất phát từ hai truờng hợp trên thì tỷ trọng này càng cao
càng thể hiện tình hình sử dụng vốn chưa được tốt, vốn bị đơn vị khác chiếm dụng
nhiều.
Trong các khoản phải thu thì tỷ trọng khoản phải thu khách hàng trong tổng khoản
phải thu thường chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì thế ta cần chú trọng kỹ hơn đến các khoản
phải thu khách hàng, xem xét chi tiết đến từng khách hàng của doanh nghiệp, đặc biệt là
các khách hàng có số dư khoản phải thu khách hàng lớn. Để làm được điều này ta cần
tính chỉ tiêu Tỷ trọng giữa khoản phải thu của từng khách hàng K trong tổng khoản phải
thu khách hàng.
Tỷ trọng giữa khoản phải thu
khách hàng K trong tổng khoản phải
thu khách hàng
=
Khoản phải thu khách
hàng K x

100%
Tổng khoản phải thu
khách hàng
Tỷ trọng giữa khoản phải thu khách hàng K trong tổng khoản phải thu khách hàng
cho biết trong 100% tổng khoản phải thu khách hàng thì khoản phải thu của khách hàng
K chiếm bao nhiêu %. Xem xét tỷ lệ này sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được khách
hàng nào nợ nhiều, khách hàng nào nợ ít; khách hàng nào cần tăng cường thu hồi nợ để
có các biện pháp thu hồi nợ hợp lý và hiệu quả.
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp càng bị một khách hàng chiếm dụng
vốn nhiều, điều này là không tốt vì doanh nghiệp đã sử dụng vốn không hiệu quả, đặc
biệt nếu khách hàng không có khả năng thanh toán nợ thì doanh nghiệp sẽ mất đi một
lượng vốn lớn. Để hạn chế tỷ lệ này tăng cao thì doanh nghiệp nên cấp hạn mức tín dụng
cho từng khách hàng sau khi đã phân tích kỹ càng, cụ thể.
Không chỉ xem xét, phân tích tình hình các khoản phải thu chúng ta còn cần phân
tích đến các khoản nợ phải trả. Nếu quản lý không tốt các khoản phải thu sẽ đem đến
nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp mà ngay cả việc yếu kém trong quản lý các khoản phải
trả cũng tác động không nhỏ đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Nếu mua chịu
quá nhiều trong khi lượng hàng bán ra không nhiều, doanh nghiệp lại không có các biện
pháp tăng tốc độ luân chuyển dòng tiền thì sẽ làm tình hình tài chính của doanh nghiệp
xấu đi, có thể dẫn đến thiếu nguồn tiền thanh toán cho nhà cung cấp. Chính vì vậy
chúng ta cần phân tích để nắm rõ hơn tình hình công nợ phải trả.
Phân tích tình hình công nợ phải trả
Khoản nợ phải trả là những khoản nợ phát sinh trong suốt quá trình sản xuất kinh
doanh mà doanh nghiệp phải trả, phải thanh toán cho các chủ nợ trong thời hạn nhất
định và được coi là nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản nợ
ngắn hạn cũng như nợ dài hạn, nguồn vốn do đi vay và nguồn vốn trong thanh toán.
Nguồn vốn đi vay gồm các khoản tiền doanh nghiệp vay của ngân hàng hay vay của các
đối tượng khác với cam kết hay những điều kiện nhất định. Nguồn vốn trong thanh toán
gồm các khoản mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng và sử dụng trong thời gian chưa
đến hạn trả tiền cho chủ nợ và các đối tượng khác như: phải trả cho ngời bán, thuế và

các khoản phải nộp cho Nhà nước, phải trả người lao động, phải trả nội bộ, các khoản
phải trả khác…
Để đánh giá các khoản phải trả trong tổng tài sản ta thông qua chỉ tiêu tỷ suất nợ.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nợ trong tổng tài sản của doanh nghiệp, cho thấy trong
tổng tài sản sở hữu thực chất của doanh nghiệp là bao nhiêu.
Tỷ suất nợ =
Tổng nợ phải trả
x 100%
Tổng tài sản
Tỷ suất nợ càng cao thể hiện tính tự chủ của doanh nghiệp càng thấp, mức độ phụ
thuộc của doanh nghiệp vào chủ nợ càng lớn và khả năng tiếp nhận các khoản vay nợ
càng khó một khi doanh nghiệp không thanh toán kịp thời các khoản nợ đến hạn. Đối
với các chủ nợ, tỷ suất nợ là một tiêu chí quan trọng để đánh giá khả năng cho doanh
nghiệp vay vốn, tỷ suất này càng cao thì khả năng thu hồi nợ càng thấp. Do vậy, các chủ
nợ thường thích những doanh nghiệp có tỷ suất nợ thấp, giảm thiểu rủi ro trong thu hồi
nợ.
Trong một doanh nghiệp thường có nhiều khoản nợ phải trả nhưng trong doanh
nghiệp thương mại thì Nợ phải trả nhà cung cấp thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng khoản nợ phải trả. Để nắm được tỷ trọng này cũng như sự biến động của nó ta cần
tính Tỷ trọng giữa khoản phải trả cho từng nhà cung cấp trong tổng khoản phải trả.
Tỷ trọng giữa khoản phải trả nhà cung
cấp K trong tổng khoản phải trả
=
Khoản phải trả nhà cung cấp K
x 100%
Tổng khoản phải trả
Dựa vào tỷ trọng này ta có thể biết được đâu là nhà cung cấp chính cho doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp có cái nhìn bao quát về các nhà cung cấp từ đó có các chính
sách thanh toán nợ, tạo dựng và giữ gìn uy tín trong quan hệ lâu dài với nhà cung cấp.
Ngoài các chỉ tiêu đã tính ở trên chúng ta có thể tính thêm chỉ tiêu tỷ lệ nợ ngắn

hạn so với tài sản ngắn hạn:
Tỷ lệ giữa nợ ngắn hạn so với
tài sản ngắn hạn
=
Nợ ngắn hạn
x 100%
Tài sản ngắn hạn
Tỷ số giữa các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả
Ngoài phân tích cụ thể riêng tình hình công nợ phải thu và công nợ phải trả chúng
ta còn cần có cái nhìn chung về tình hình biến động chung của cả hai khoản công nợ
này. Ta sử dụng tỷ số giữa các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả. Tỷ số này cho
chúng ta thấy được mối quan hệ chiếm dụng vốn giữa doanh nghiệp với các chủ nợ cũng
như với các khách hàng nợ. Nếu tỷ số giữa các khoản phải thu so với các khoản nợ phải
trả lớn hơn 100% chứng tỏ số vốn mà doanh nghiệp bị chiếm dụng lớn hơn số vốn mà
doanh nghiệp đi chiếm dụng và ngược lại.
Tỷ số giữa khoản phải thu
so với khoản nợ phải trả
=
Tổng các khoản phải thu
x 100%
Tổng các khoản nợ phải trả
Dựa vào tỷ số này doanh nghiệp đưa ra các chính sách cụ thể để trả nợ cho các chủ
nợ cùng như thu hồi nợ phải thu nhằm hạn chế thấp nhất các khoản chiếm dụng vốn của
các cá nhân, đơn vị khác. Các khoản công nợ dù là phải thu hay phải trả đều là những
khoản phát sinh tất yếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ở mỗi
ngành kinh doanh khác nhau có đặc điểm khác nhau, ở mỗi doanh nghiệp cũng có các
đặc điểm đặc thù, chiến lược riêng tùy thuộc vào mỗi giai đoạn của quá trình kinh doanh
do vậy chúng ta cần xem xét tình hình riêng cũng như mối quan hệ giữa các khoản công
nợ trong điều kiện nhất định để có được cái nhìn chính xác nhất về tình hình công nợ
của doanh nghiệp.

Ta còn có thể tính thêm chỉ tiêu sau:
Tỷ số giữa khoản phải thu ngắn hạn
so với khoản nợ phải trả ngắn hạn
=
Tổng các khoản phải thu NH
x 100%
Tổng các khoản nợ phải trả NH
Do tính chất quan trọng của nợ ngắn hạn nên chúng ta cần tính thêm chỉ tiêu này
để biết hiện tại ở doanh nghiệp tương quan tỷ lệ giữa khoản phải thu ngắn hạn và khoản
nợ phải trả ngắn hạn là bao nhiêu, xác định được trong ngắn hạn doanh nghiệp đang sư
dụng ngắn hạn từ bên ngoài nhiều hơn hay đang bị chiếm dụng vốn nhiều hơn, từ đó xác
định được tính chủ động hay bị động trong cơ cấu nợ ngắn hạn. Nếu tương quan này bị
chi phối chủ yếu bởi các khoản công nợ đã xác định thời hạn thanh toán cụ thể thì là cơ
cấu nợ chỉ động. Ngược lại nếu doanh nghiệp không xác định được cụ thể thời hạn
thanh toán thì là cơ cấu nợ mang tính chất thụ động và doanh nghiệp khó có thể điều
chỉnh tình hình cơ cấu nợ.
Nội dung phân tích khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
Phân tích khả năng thanh toán trong doanh nghiệp bao gồm phân tích các chỉ tiêu
về tình hình công nợ: các khoản phải thu và tình hình thu nợ, các khoản phải trả và khả
năng chi trả. Đây là nhóm chỉ tiêu được sự quan tâm của nhà quản trị, chủ sở hữu và
đặc biệt là đối với các nhà cho vay. Khả năng thanh toán của một doanh nghiệp đo
lường khả năng đảm đương với các nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải huy động vốn từ các chủ sở hữu, vay
vốn hay chiếm dụng vốn tạm thời từ các cá nhân, đơn vị khác, hay nhà cung cấp để cung
cấp để đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra bình thường. Hầu hết doanh nghiệp nào
cũng vay nợ để duy trì, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, đặc biệt
trong doanh nghiệp thương mại thì các khoản nợ phải trả chiếm tỷ trọng cao trong tổng
nguồn vốn. Nhưng để huy động vốn phục vụ hoạt động kinh doanh từ vay nợ cũng
khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn như: vay nợ quá nhiều rất nguy hiểm cho doanh
nghiệp cho dù thời hạn trả nợ chưa đến, việc mắc nợ sẽ kéo theo các khoản chi phí phải

trả cố định hàng năm như hoàn trả nợ gốc và tiền lãi, khi doanh nghiệp nợ quá nhiều sẽ
gặp khó khăn trong việc tiếp tục đi vay. Nếu doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn của nhà
cung cấp thì nhà cung cấp sẽ không chịu bán hàng cho doanh nghiệp nữa. Như vậy uy
tín của doanh nghệp sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng không tốt.
Khi doanh nghiệp huy động vốn từ nguồn vốn vay hay chiếm dụng tạm thời từ các
tổ chức các nhân khác thì doanh nghiệp sẽ phải trả nợ. Nếu doanh nghiệp không có đủ
khả năng để thanh toán các khoản nợ đến hạn này thì sẽ gặp nhiều khó khăn, có thể
không thể hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đúng hạn và có thể dẫn tới tình trạng ngừng hoạt
động. Một doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán có thể dẫn tới nhiều hậu
quả không tốt đến nhiều đối tượng:
+ Đối với doanh nghiệp: thiếu hụt về tài chính sẽ hạn chế sự phát triển, hạn chế cơ
hội nắm bắt như: mua hàng hóa với giá hấp dẫn, hưởng chiết khấu theo giá bán buôn
Sự không đảm bảo trong thanh toán có thể làm doanh nghiệp mất quyền kiểm soát.
+ Đối với chủ nợ của doanh nghiệp: với khả năng thanh khoản xấu có thể dẫn tới
việc chẫm trễ trong việc thanh toán tiền gốc và lãi cho các chủ nợ, trong trường hợp xấu
chủ nợ có thể mất một phần hoặc toàn bộ nợ phải thu.
+ Đối với các khách hàng: khách hàng có thể không được hưởng những điều kiện
trong thanh toán như cũ, các điều kiện bán chịu của doanh nghiệp cho khách hàng có thể
bị thay đổi, thời hạn thanh toán có thể bị rút ngắn
Chính vì vậy đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp là vấn đề cấp thiết
giúp doanh nghiệp có cái nhìn tổng quan về khả năng thanh toán của mình, đánh giá rủi
ro, đưa ra các chính sách để cải thiện hay duy trì khả năng thanh toán hiện tại. Ngoài ra
đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp còn giúp các nhà đầu tư, các chủ nợ
đánh giá về khả năng thanh toán của doanh nghiệp từ đó đưa ra các quyết định đầu tư
hay cho vay hợp lý, tránh rủi ro khi thu hồi nợ. Để đánh giá khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp, ta dựa vào khả năng hoán chuyển thành tiền các tài sản của
doanh nghiệp. Hệ số chung có thể đưa ra đánh giá khả năng thanh toán của doanh
nghiệp như sau:
Khả năng thanh toán chung (K) =
Số tiền có thể dùng để trả nợ

Nợ ngắn hạn phải trả
Khả năng thanh toán chung là ở dang tỷ số so sánh cân bằng vì vậy trường hợp tốt
nhất là hệ số bằng 1. Nếu khác đi là dẫn đến hai cực: thiếu khả năng thanh toán hoặc
thừa vốn, gây ứ đọng. Áp dụng công thức tổng quát trên ta có các chỉ tiêu cụ thể sau:
Khả năng thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ so sánh giữa tài sản ngắn hạn
và các khoản nợ ngắn hạn
K
hh
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Dựa vào khả năng thanh toán hiện hành ta biết tại một thời điểm nhất định ứng với
một đồng nợ ngắn hạn thì doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn làm bảo
đảm thanh toán. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp tiến dần đến đủ và dư
thừa khả năng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao
không hẳn là tốt, mặc dù nó chỉ cho thấy sự dồi dào đảm bảo khả năng thanh toán của
doanh nghiệp nhưng có thể dẫn đến việc quản lý và sử dụng không hiệu quả các loại tài
sản, làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, chưa tận dụng tốt
các nguồn tài trợ mà không phải trả lãi từ các nhà cung cấp. Chỉ tiêu này quá thấp sẽ là
gánh nặng cho việc trả các khoản nợ ngắn hạn, lúc này doanh nghiệp không đủ khả năng
để thanh toán các khoản nợ đã đến hạn, dễ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
Theo các nhà cho vay chỉ tiêu này phải đạt được từ 2,0 trở lên thì tốt.
Một số hạn chế của chỉ tiêu này:
+ Chỉ tiêu này cho ta thấy khả năng đảm đương trách nhiệm nợ với các chủ nợ
ngắn hạn trong trường hợp xét đến sự thanh lý tài sản ngắn hạn để trả nợ và không cần
tới một khoản vay mượn thêm nào. Tất nhiên trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động
bình thường thì không thể thanh lý tài sản ngắn hạn để trả nợ trừ khi doanh nghiệp buộc
giải thể hoặc phá sản. Chính vì vậy việc thanh lý tài sản ngắn hạn để trả nợ trong điều
kiện kinh doanh bình thường là không khả thi, chỉ tiêu này đã bỏ qua nguyên tắc kế toán

Hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Nó xem xét dựa trên tình trạng doanh nghiệp
ngừng hoạt động hơn là tình trạng phát triển liên tục.
+ Ngoài ra chỉ tiêu này được tính dựa trên số liệu thời điểm (thường là số liệu cuối
niên độ kế toán) nên nó chưa thể hiện chính xác khả năng thanh toán của doanh nghiệp
trong cả quá trình kinh doanh. Các số liệu cuối kỳ của doanh nghiệp được lập trên Bảng
cân đối kế toán có thể đã được làm chưa chính xác và bị bóp méo theo ý muốn của
người quản lý.
+ Ở tử số ta thấy tài sản ngắn hạn gồm rất nhiều loại tài sản khác nhau với khả
năng thanh khoản khác nhau. Hàng tồn kho, khoản phải thu có khả năng thanh khoản
kém nhất trong các loại tài sản và còn tùy thuộc vào tình hình kinh doanh, đặc điểm
ngành nghề kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nên đây chỉ là một công cụ thô đo lường
khả năng thanh toán, một doanh nghiệp có tài sản ngắn hạn chủ yếu là tiền mặt và khoản
phải thu khách hàng sẽ có khả năng chuyển nhượng hơn so với một doanh nghiệp có tài
sản ngắn hạn chủ yếu là hàng tồn kho.
+ Khả năng thanh toán hiện hành còn phụ thuộc vào tình hình nhập tiền vào quỹ và
các khoản ngân quỹ có thể huy động được (như hạn mức tín dụng ). Nhưng ở chỉ tiêu
này đã không đề cập đến khả năng huy động tín dụng.
Trong công thức này tử số là tài sản ngắn hạn gồm rất nhiều loại tài sản với khả
năng thanh khoản khác nhau. Hàng tồn kho có khả năng thanh khoản kém nhất và đặc
biệt sẽ càng khó hơn đối với hàng tồn kho đã bị kém phẩm chất. Việc nhóm gộp chung
các loại tài sản khác nhau với khả năng thanh khoản khác nhau đã hạn chế cái nhìn về
khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Để khắc phục hạn chế và bổ sung thêm công cụ
tính toán giúp nhà phân tích có cái nhìn đầy đủ, chính xác hơn về khả năng thanh toán ta
sử dụng chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh.
Khả năng thanh toán nhanh
Chỉ tiêu phân tích:
K
nhanh
=
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho

Nợ ngắn hạn
=
Tiền + ĐTTC ngắn hạn + Nợ phải thu
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn lưu
động trước các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này phản ánh tốt hơn khả năng thanh toán
hiện hành của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, chính
sách tín dụng, của từng doanh nghiệp. Ở tử số ta thấy vẫn còn nhiều loại tài sản khác
nhau, các chi phí trả trước cũng như các khoản phải thu có quá trình chuyển đổi sang
tiền mặt chậm hơn nhiều so với tiền và các khoản tương đương tiền nên ta có thể sử
dụng chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời để bổ sung.
Khả năng thanh toán tức thời
Với hai chỉ tiêu về khả năng thanh toán trên, ta xem rằng khoản phải thu có khả
năng thanh khoản nhanh thành tiền để trả nợ ngắn hạn, việc thu hồi các khoản này chỉ là
vấn đề thời gian. Trong môi trường kinh tế hoàn hảo thì điều này có thể chính xác
nhưng trong nền kinh tế thị trường nói chung và thị trường tài chính nói riêng chưa được
phát triển như hiện nay, chỉ số phản ánh khả năng thanh toán thích hợp hơn cả là chỉ số
được tính toán dựa trên vốn bằng tiền. Ta có công thức sau:
K
tt
=
Tiền
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn lưu động trước các khoản nợ
ngắn hạn. Khoản này có thể dùng trả ngay các khoản nợ đến hạn là tiền và các chứng
khoán ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng lớn thể hiện khả năng thanh toán càng cao, tình hình
tài chính khả quan. Thông thường chỉ tiêu này thường biến động trong khoảng từ 0,5
đến 1. Nếu chỉ tiêu này quá nhỏ (< 0,5) thì doanh nghiệp nhất định sẽ gặp khó khăn
trong việc thanh toán nợ đến hạn, và vào thời điểm cần gấp, doanh nghiệp có thể buộc
phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán vội cổ phiếu đầu tư để có đủ tiền thanh toán.

Tuy nhiên chỉ tiêu này quá lớn lại gây tình trạng mất cân đối của vốn lưu động vì tập
trung quá nhiều vào vốn bằng tiền và chứng khoán ngắn hạn có thể không hiệu quả.
Khi phân tích các chỉ tiêu khả năng thanh toán người phân tích còn phải kết hợp
với các yếu tố khác như: môi trường kinh doanh, tình hình chung của nền kinh tế, đặc
điểm ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, cơ cấu tài sản, thông tin cụ
thể hơn về số vòng quay của một số tài sản lưu động Ta khó có thể tìm ra được một hệ
số chuẩn để so sánh mà chỉ có thể so sánh các chỉ tiêu này qua thời gian hoặc với doanh
nghiệp khác cùng loại hình, quy mô với doanh nghiệp đang phân tích.
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ở trên đều còn tồn tại nhiều hạn chế
giống như chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành. Từ ba công thức về khả năng thanh
toán ở trên ta thấy chưa có sự chính xác về mức độ cấp thiết còn mang tính chung
chung: về nợ ngắn hạn có rất nhiều thời hạn khác nhau nhưng đều được gộp chung lại
trong một nhóm, thời gian quay vòng vốn thật sự của nợ ngắn hạn là không thể xác
định; khả năng hoán chuyển thành tiền của hàng tồn kho, khoản phải thu khó đánh giá
tùy thuộc vào cái nhìn cái mỗi doanh nghiệp. Vì vậy ta không thể chỉ dựa vào 3 chỉ tiêu
trên để nhận xét chính xác về khả năng thanh toán của doanh nghiệp nên ta cần tính toán
thêm các chỉ tiêu sau đây.
Số vòng quay hàng tồn kho, số ngày một vòng quay hàng tồn kho
Chỉ tiêu phân tích:
Hhàng =
Giá vốn hàng bán
Giá trị hàng tồn kho bình quân
Số vòng quay hàng tồn kho là chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển hàng hoá
nhanh hay chậm, hay cho biết thời gian hàng hoá nằm trong kho trước khi bán ra. Thời
gian này càng giảm thì khả năng hoán chuyển thành tiền của hàng tồn kho càng nhanh.
Chính vì vậy mà số vòng quay hàng tồn kho ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của
doanh nghiệp. Mặt khác, chỉ tiêu này còn phản ánh chất lượng và chủng loại hàng hoá
kinh doanh có phù hợp trên thị trường hay không.
Chỉ tiêu số vòng quay của hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh thường được
đánh giá là tốt, hoạt động quản lý hàng tồn kho được đánh giá là tốt, hàng tồn kho càng

mới và khả năng hoán chuyển thành tiền cao. Ngoài ra, đứng trên góc độ của vốn luân
chuyển thì một doanh nghiệp có hệ số quay vòng cao thường đòi hỏi đầu tư thấp hơn
hàng tồn kho so với doanh nghiệp khác có cùng mức doanh thu nhưng có hệ số quay
vòng thấp. Nhưng nếu số vòng quay hàng tồn kho rất cao thì việc duy trì mức tồn kho
thấp có thể khiến cho mức tồn kho đó không đủ đáp ứng các hợp đồng tiêu thụ của kỳ
sau, và điều này có thể gây ảnh hưởng không tốt cho công việc kinh doanh của doanh
nghiệp, lúc này doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng cạn trữ. Số vòng quay hàng tồn
kho thấp là dấu hiệu của việc duy trì nhiều hàng hóa lỗi thời, quá hạn và chậm luân
chuyển, khi hàng hóa quá lạc hậu doanh nghiệp có thể phải mang thanh lý làm giảm giá
trị hàng tồn kho. Vì vậy khi tính toán chỉ tiêu này ta nên xem xét giá trị hàng tồn kho có
phản ánh chính xác với giá trị thực của nó hay không, xem xét đến tính hợp lý khi ước
tính khoản mục Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Nếu doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau và ngành nghề khác biệt
thì phải tính số vòng quay hàng tồn kho cho từng nhóm hàng cụ thể xem có mất cân đối
hay không, điều này cũng giúp chỉ ra doanh nghiệp có duy trì quá mức một loại hàng
tồn kho nào đó hay không.
Ngoài ra chúng ta còn có một công cụ khác tương tự số vòng quay hàng tồn kho
nhưng được biểu diễn theo đơn vị ngày, đó là Số ngày một vòng quay hàng tồn kho.
Nhàng =
Thời gian kỳ phân tích
Số vòng quay hàng tồn kho
=
Giá trị hàng tồn kho bình quân
x Thời gian kỳ phân tích
Giá vốn hàng bán
Thời gian kỳ phân tích có thể là tháng (tương đương 30 ngày), quý (tương đương
90 ngày) hoặc năm (tương đương 360 ngày).
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho và khả
năng chuyển hoá thành tiền của hàng tồn kho. Nếu số ngày của một vòng quay hàng tồn
kho quá lớn làm tăng chi phí sử dụng vốn, vốn ứ đọng nhiều và tăng chi phí hàng tồn

kho khiến cho doanh nghiệp có nguy cơ phải giảm giá mạnh hàng tồn kho để giả phóng
lượng hàng này gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chung.
Số vòng quay nợ phải thu, số ngày một vòng quay nợ phải thu
Chỉ tiêu phân tích:
= Doanh thu thuần + Thuế VAT đầu ra
Số vòng quay các
khoản phải thu
Số dư bình quân khoản phải thu khách hàng
Số dư bình quân các khoản
phải thu
=
Số dư phải thu đầu kỳ + số dư phải thu
cuối kỳ
2
Số vòng quay các khoản phải thu khách hàng phản ánh tốc độ hoán chuyển các
khoản phải thu khách hàng thành tiền để đảm bảo cho thanh toán và hoạt động của
doanh nghiệp. Ta có thể áp dụng chỉ tiêu này để tính chung cho cả doanh nghiệp hoặc
một số khách hàng quan trọng.
Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của
việc đi thu hồi nợ. Chỉ tiêu này càng cao phản ánh tốc độ thu hồi các khoản nợ càng
nhanh, điều này đựơc đánh giá là tốt vì khả năng hoán chuyển các khoản phải thu thành
tiền càng nhanh, đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên chỉ tiêu
này quá cao cũng không tốt vì nó đồng nghĩa với thời hạn tín dụng bán chịu ngắn hay kỳ
thanh toán ngắn, do đó có thể ảnh hưởng đến sản lượng tiêu thụ làm giảm hiệu quả kinh
doanh. Nên khi đánh giá khả năng chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền cần xem xét
đến chính sách tín dụng bán hàng của doanh nghiệp.
Để đánh giá khả năng chuyển hoá thành tiền của các khoản phải thu cụ thể hơn ta
kết hợp phân tích với chỉ tiêu Số ngày một vòng quay khoản phải thu. Chỉ tiêu phân
tích:
Số ngày một vòng

quay khoản phải thu
=
Thời gian kỳ phân tích
Số vòng quay các khoản phải thu
Số ngày quy ước của thời gian kỳ phân tích thường theo tháng, quý hoặc năm:
+ 1 tháng là 30 ngày.
+ 1 quý là 90 ngày.
+ 1 năm là 360 ngày.
Chúng ta thường phân tích theo quy mô năm nên thời gian kỳ phân tích là 360
ngày. Chỉ tiêu này thể hiện số ngày bình quân của một chu kỳ nợ. Chỉ tiêu càng nhỏ thể
hiện tốc độ hoán chuyển các khoản phải thu thành tiền càng nhanh, điều này cho thấy
việc thu hồi công nợ là tốt, doanh nghiệp i bị khách hàng chiếm dụng vốn, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp chủ động được nguồn vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh
được thuận lợi. Tuy nhiên số ngày trung bình để thu được các khoản phải thu sẽ có ý
nghĩa hơn nếu biết được kỳ hạn tín dụng của doanh nghiệp áp dụng chung hoặc riêng
cho từng khách hàng
Ngoài các chỉ tiêu ở trên chúng ta cần xem xét đến các chỉ tiêu phản ánh mức độ
bảo đảm nợ và có thêm công cụ để phân tích về khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Hệ số bảo đảm nợ dài hạn
Đây là chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ giữa tỷ lệ giá trị tài sản dài hạn với nợ dài
hạn. Chỉ tiêu phân tích:
K
dh
=
Tài sản dài hạn
Nợ dài hạn
Dựa vào chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành chúng ta biết được khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn dựa trên tài sản ngắn hạn thì chỉ tiêu này giúp chúng ta xem
xét được khả năng trả nợ dài hạn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng
chứng tỏ khả năng thanh toán nợ dài hạn của doanh nghiệp tốt, hoạt động tài chính của

doanh nghiệp là khả quan và lành mạnh.
Tỷ lệ lãi thuần trả lãi vay
Chỉ tiêu phân tích:
Tỷ lệ lãi thuần trả lãi vay = Lợi nhuần thuần sau thuế
Chi phí lãi vay
Chỉ tiêu tỷ lệ lãi thuần trả lãi vay biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận thuần
sau thuế thu nhập doanh nghiệp với chi phí trả lãi vay của doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu
này lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán ngắn hạn trả lãi vay củ doanh nghiệp rất
khả quan. Nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán lãi vay của doanh
nghiệp đang gặp khó khăn, doanh nghiệp không đủ khả năng trả lãi vay từ lợi nhuận thu
về của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phương pháp phân tích
Phương pháp chi tiết
Gồm có các trường hợp sau:
Chi tiết theo thời gian: để đánh giá sự biến động, xu thế của chỉ tiêu phân tích.
Chi tiết theo không gian: để đánh giá mức đóng góp của các bộ phận kinh doanh
trong kết quả tổng hợp của cả công ty.
Chi tiết theo yếu tố cấu thành: để đánh giá yếu tố biến động của các yếu tố cấu
thành.
Phương pháp so sánh
Ta sử dụng phương pháp này để đánh giá kết quả, xác định vị trí, xu hướng của chỉ
tiêu cần phân tích. Ta cần so sánh cả về lượng tuyệt đối cũng như số tương đối.
Phương pháp loại trừ
Phương pháp này được sử dụng để xác định xu thế, mức độ ảnh hưởng của từng
nhân tố đến chỉ tiêu phân tích khi loại trừ ảnh hưởng của các chỉ tiêu còn lại. Phương
pháp này gồm hai phương pháp cụ thể là Phương pháp thay thế liên hoàn và Phương
pháp số chênh lệch.
Phương pháp liên hệ cân dối
Đây là phương pháp mô tả và phân tích các hiện tượng kinh tế khi tồn tại mối quan
hệ cân bằng giữa hai mặt của các yếu tố, quá trình kinh doanh.

Nguồn thông tin sử dụng
Để có thể tiến hành phân tích ta cần phải có dữ liệu, vậy thu thập dữ liệu để phân
tích ta thường thu thập từ các nguồn chính sau đây:
Thông tin từ hệ thống kế toán
Thông tin từ hệ thống kế toán cung cấp là thông tin cơ bản nhất cho công tác phân
tích. Kế toán sẽ cung cấp thông tin ban đầu cho người sử dụng và tùy vào mục đích
phân tích mà người phân tích sẽ dựa vào số liệu ban đầu, tìm hiểu nguyên nhân từ đó đề
ra các định hướng hoạt động và các giải pháp thực hiện các định hướng đó.
Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là nguồn cung cấp thông tin cơ bản nhất về tài sản và nguồn
vốn tại một thời điểm nào đó, thường là cuối năm. Ta có thể dựa vào bảng cân đối kế
toán để tìm hiểu kĩ hơn về tình hình các khoản nợ của công ty kể cả khoản phải thu cũng
như nợ phải trả trong ngắn hạn và dài hạn, biết được khả năng thanh toán của công ty,
tình hình nợ khó đòi… Điều này rất quan trọng đối với những người quan tâm đến tình
hình tài chính của công ty, giúp họ có các quyết định trong điều hành hoạt động kinh
doanh, đầu tư, cho vay Để có thể nắm rõ hơn tình hình hoạt động kinh doanh của công
ty bên cạnh sử dụng bảng cân đối kế toán ta còn sử dụng đến Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh và Thuyết minh báo cáo tài chính và các báo cáo kế toán khác mà bộ máy kế
toán của công ty cung cấp.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Để phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán ta sử dụng một số chỉ tiêu
trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh như doanh thu,… để có cài nhìn tổng quan
hơn về tình hình công nợ, xem xét tính cân đối phù hợp trong sự biến động của doanh
thu và các chỉ tiêu khác như khoản phải thu, thuế phải nộp…
Thuyết minh báo cáo tài chính và các báo cáo kế toán nội bộ khác
Để phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán ta sử dụng một số chỉ tiêu
trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh như doanh thu,… để có cài nhìn tổng quan
hơn về tình hình công nợ, xem xét tính cân đối phù hợp trong sự biến động của doanh
thu và các chỉ tiêu khác như khoản phải thu, thuế phải nộp…
Các nguồn thông tin khác

Bên cạnh việc sử dụng các thông tin do kế toán trong công ty cung cấp người phân
tích còn sử dụng các thông tin từ các nguồn khác để có cái nhìn đa chiều, có nhận định
đúng đắn và khách quan hơn. Các nguồn thông tin này có thể là từ sách báo, tạp chí
chuyên ngành có liên quan, tạp chí kế toán, các thông tin từ các website uy tín, thông tin
từ các ngân hàng có liên quan đến công ty… để có các thông tin chung về nền kinh tế,
thuế, tiền tệ, ngành nghề kinh doanh của công ty, thông tin về pháp luật, doanh nghiệp
Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình công nợ và khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
Các nhân tố bên trong
Bao gồm các nhân tố thuộc về doanh nghiệp, nằm trong chính bản thân doanh
nghiệp và doanh nghiệp có khả năng tác động lên để thay đổi. Các nhân tố bên trong bao
gồm các nhân tố chính sau:
Cơ cấu tổ chức quản lý
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ quy định quyền hạn
và nghĩa vụ riêng lẻ và tác động qua lại của các bộ phận, cá nhân với nhau. Cơ cấu tổ
chức quy định rõ nguồn lực và nguồn nhân lực để thực hiện nhiệm vụ nhất định. Một cơ
cấu tổ chức hợp lý sẽ giúp các bộ phận và các cá nhân trong doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả, hiểu rõ quyền hạn cũng như nhiệm vụ của mình trong doanh nghiệp từ đó thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình, giúp tổ chức bộ máy quản lý không cồng kềnh, mỗi một bộ
phận và các nhân đều giữ vai trò riêng trong doanh nghiệp và là mắt xích không thể
thiếu trong mối quan hệ này. Đối với tình hình công nợ và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp liên quan đến nhiều bộ phận và cá nhân trong doanh nghiệp: từ cấp cao
như Hội đồng quản trị, tổng giám đốc phê duyệt các hợp đồng mua bán lớn, các chính
sách kế hoạch mua bán hàng hóa, các biên bản xử lý công nợ khó đòi đến các bộ phận,
phòng ban có liên quan như phòng kế toán, kinh doanh, quản lý công nợ và từng cá
nhân có liên quan trực tiếp đến vấn đề này. Cơ cấu tổ chức quản lý xác định cụ thể tình
hình phân cấp quản lý tài chính trong doanh nghiệp: quy định rõ ràng hạn mức bán chịu
đối với từng loại khách hàng, tổng số dư nợ được phép thực hiện đối với từng khách
hàng hay toàn bộ các khách hàng, thẩm quyền ký duyệt trong hạn mức giá trị hợp đồng
là bao nhiêu, quy định thẩm quyền thanh toán trong một mức nhất định cho các cá nhân
cụ thể, Cơ cấu tổ chức quản lý càng hợp lý thì càng đem lại hiệu quả trong hoạt động

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Yếu tố lao động
Trong các nguồn lực của doanh nghiệp yếu tố lao động là một yếu tố quan trọng,
quyết định lớn đến kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Để quản lý tốt tình hình
công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp thì đòi hỏi đội ngũ nhân viên có trình
độ cao, có khả năng theo dõi, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình công nợ và có các
biện pháp hiệu quả để đảm bảo tốt tình hình công nợ và khả năng thanh toán, lành mạnh
tình hình công nợ cũng như tình hình tài chính, đảm bảo khả năng thanh toán tốt.
Chính sách bán hàng và quản lý công nợ
Trong suốt quá trình hoạt động của mình doanh nghiệp đã đưa ra nhiều chính sách
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Riêng đối với vấn đề công nợ và khả năng thanh toán
cũng cần có những chính sách cụ thể và hợp lý để thúc đẩy tình hình bán hàng, tăng lợi
nhuận, quản lý tốt công nợ và đảm bảo khả năng thanh toán. Ở mỗi doanh nghiệp khác
nhau thì đề ra các chính sách khác nhau nhưng đều tập trung vào các việc chính như: đối
với haotj động bán hàng cần có các chính sách bán hàng hợp lý để thu hút khách hàng,
thực hiện tốt từ khâu tìm hiểu nhu cầu khách hàng đến khi cung cấp hàng hóa hay dịch
vụ đảm bảo khách hàng mua được hàng đúng nhu cầu với giá cả và chất lượng tốt nhất,
bên cạnh đó doanh nghiệp cần áp dụng linh hoạt các chính sách quảng cáo, khuyến mãi,
quan tâm đến các chinh sách bán chịu, chiết khấu cho khách hàng; đối với hoạt động
mua hàng cần quy định rõ trách nhiệm xác định nhu cầu mua, thẩm quyền mua và ký
duyệt, thường xuyên cập nhật chính sách giá của nhà cung cấp ; với các chính sách
mua và bán hàng hợp lý và hiệu quả sẽ tác động đến tình hình công nợ của doanh nghiệp
và doanh nghiệp cũng cần có các chính sách quản lý công nợ cụ thể trong đó quan trọng
nhất phải xác định được hạn mức và thẩm quyền bán chịu, quy định rõ tỷ lệ nợ quá hạn
nợ khó đòi phải thu của khách hàng và tỷ lệ nợ vay ngân hàng, có các chính sách thúc
đẩy thu hồi công nợ và hạn chế sự phát sinh của công nợ khó đòi mới, và các quy định
về xử lý công nợ tồn đọng.
Nguồn vốn của doanh nghiệp
Doanh nghiệp muốn tồn tại và duy trì hoạt động của mình cần có nguồn vốn
thường xuyên và tạm thời đủ lớn. Nguồn vốn doanh nghiệp có thể huy động được bằng

nhiều cách thức khác nhau với chi phí sử dụng vốn cũng khác nhau nhưng đều nhằm
huy động được một nguồn vốn ổn định đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh
được diễn ra bình thường. Một nguồn vốn tốt, cơ cấu vốn hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp
đảm bảo tính độc lập tương đối với các chủ nợ, khả năng tự chủ về tài chính tốt, đảm
bảo cân bằng tài chính trong ngắn hạn và dài hạn, có khả năng trang trải các khoản nợ
đến hạn. Hoạt động tài chính tốt sẽ có khả năng thanh toán dồi dào, giảm công nợ, vốn
kinh doanh ít bị chiếm dụng cũng như có thể tận dụng được nguồn vốn chiếm dụng từ
các cá nhân và tổ chức khác. Ngược lại nếu hoạt động tài chính không tốt sẽ dẫn đến
tình hình công nợ khó đòi cao, khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn thấp, các
khoản công nợ kéo dài. Doanh nghiệp cũng cần chú ý giữ gìn và nâng cao uy tín trong
thanh toán các khoản nợ phải trả đến hạn, nâng cao cái nhìn tốt đẹp về doanh nghiệp từ
phía các đối tác làm ăn các chủ nợ và các nhà đầu tư. Điều này giúp doanh nghiệp dễ
dàng huy động vốn hơn khi cần mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
Bên cạnh các nhân tố bên trong thì còn có các yếu tố bên ngoài phạm vi của doanh
nghiệp ảnh hưởng đến tình hình công nợ và khả năng thanh toán. Các nhân tố bên ngoài
chủ yếu gồm các nhân tố sau:
Các nhân tố bên ngoài
Khách hàng
Khách hàng của doanh nghiệp bao gồm nhiều thành phần khác nhau từ các cá nhân
đến các tổ chức, từ các doanh nghiệp nhà nước đến các tổ chức kinh doanh ngoài nhà
nước và với mục đích khác nhau, có khách hàng mua về để sử dụng hay được cung cấp
dịch vụ, có khách hàng mua về để bán lại Nhưng tóm lại doanh nghiệp nào cũng cần
xác định được các khách hàng và nhu cầu của họ để có thể đáp ứng tối đa nhu cầu của
khách hàng, tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp. Dựa vào nhu cầu của khách hàng
doanh nghiệp xây dựng các chiến lược và kế hoạch kinh doanh phù hợp. Khách hàng
của doanh nghiệp bao gồm nhiều thành phần khác nhau và tình hình tài chính của họ
cũng khác nhau, có nhiều khách hàng có thể muốn doanh nghiệp bán sản phẩm, hàng
hóa, hay cung cấp dịch vụ nhưng không phải khách hàng nào cũng đủ khả năng thanh
toán. Chính vì vậy để đảm báo quyền lợi của mình, tránh rủi ro khách hàng không thanh
toán được nợ khi bán hàng doanh nghiệp cần điều tra để nắm bắt rõ thông tin về khách

hàng của mình nhất là khả năng thanh toán từ đó ra quyết định chấp nhận hay từ chối
bán hàng, nếu chấp nhận thì phải xác định bán thu tiền ngay hay bán chịu với hạn mức
bán chịu xác định.
Nhà cung cấp
Trong công nợ phải trả thì khoản phải trả cho nhà cung cấp thường chiếm tỷ trọng
lớn nhất nên mối quan hệ giao dịch giữa doanh nghiệp và các nhà cung cấp là rất quan
trọng. Các nhà cung cấp sẽ cung ứng các yếu tố đầu vào như: nguyên vật liệu, công cụ,
dụng cụ, máy móc, thiết bị, dịch vụ cho doanh nghiệp để doanh nghiệp thực hiện hoạt
động kinh doanh của mình. Ngược lại doanh nghiệp sẽ thanh toán cho các yếu tố đã mua
từ nhà cung cấp, là khách hàng của nhà cung cấp. Mối quan hệ tác động qua lại này ảnh
hưởng rất nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp cần duy trì quan hệ
lâu dài, thường xuyên và tốt đẹp với một số nhà cung cấp quan trọng. Các nhà cung cấp
này sẽ cung ứng cho doanh nghiệp những yếu tố doanh nghiệp cần đặc biệt trong những
tình huống khó khăn như khi khan hiếm yếu tố đầu vào. Lựa chọn nhà cung cấp là một
nhiệm vụ quan trọng, doanh nghiệp cần chọn được nhà cung cấp sao cho họ có thể cung
ứng được những yếu tố mà doanh nghiệp cần, đúng số lượng, đảm bảo tiêu chuẩn chất
lượng, với giá cả tốt nhất, và với thời hạn tín dụng mua chịu mà doanh nghiệp có thể
đáp ứng được. Duy trì quan hệ thân thiết với một số nhà cung cấp cố định và giữ tốt uy
tín trong thanh toán giúp doanh nghiệp có thể mua hàng với thời hạn mua chịu lâu hơn
nên có khả năng chiếm dụng vốn tạm thời từ nhà cung cấp nhiều hơn. Tuy nhiên doanh
nghiệp cũng nên thường xuyên tìm kiếm các nhà cung cấp mới để được hưởng những
chính sách mua hàng ưu đãi hoặc mua được hàng hóa, dịch vụ với giá rẻ hơn, chất
lượng tốt hơn, tận dụng tối đa cơ hội từ các nhà cung cấp.
Đối thủ cạnh tranh
Trong môi trường kinh doanh như hiện nay luôn tồn tại những doanh nghiệp khác
cùng kinh doanh trong một lĩnh vực với doanh nghiệp, họ là các đối thủ cạnh tranh của
doanh nghiệp. Chính vì cùng hoạt động trên một lĩnh vực kinh doanh, cung cấp mặt
hàng, dịch vụ tương tự nhau nên sẽ tồn tại sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp và các đối
thủ cạnh tranh. Để thu hút khách hàng doanh nghiệp cần thực hiện các chính sách bán
hàng ưu đãi như: giảm giá, khuyến mãi, cải tiến chất lượng mẫu mã sản phẩm hàng hóa,

gia tăng hạn mức bán chịu nhất là khi đối thủ cạnh tranh có các chính sách tốt hơn của
doanh nghiệp. Nhưng thực hiện các chính sách ưu đãi này doanh nghiệp cũng nên tính
toán hiệu quả mà nó đem về, thực hiện các kế hoạch và chính sách phải được cân nhắc
kỹ càng như không nên để thu hút nhiều khách hàng quá bằng cách bán chịu quá nhiều
với thời hạn lâu sẽ làm nợ phải thu phát sinh lớn và tồn lâu, nguồn vốn bị đơn vị khác
chiếm dụng, làm tiền thu về ít, khả năng thanh toán tức thời và nhanh bị ảnh hưởng
không tốt.
Một số yếu tố khác
Ngoài các nhân tố trên thì nhân tố môi trường kinh tế, chính trị, xã hội cũng có ảnh
hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chính sách tiền tệ của nhà
nước, lãi vay ngân hàng, những biến động trên thị trường thế giới Doanh nghiệp phải
tổ chức, huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc về tài chính, tín dụng và chấp hành luật pháp.
PHẦN 2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CÔNG NỢ VÀ KHẢ NĂNG
THANH TOÁN TẠI CÔNG TY CP KIM KHÍ MIỀN TRUNG
A. Giới thiệu về công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung
Giới thiệu sơ lược về Công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung
Quá trình thành lập và phát triển của công ty CP Kim Khí Miền Trung
Quá trình thành lập
Năm 1995 công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung được hình thành từ hai công ty
là: công ty kim khí Đà Nẵng và công ty vật tư thứ liệu Đà Nẵng. Để đáp ứng yêu cầu
kinh doanh trong môi trường ngày càng phức tạp và cạnh tranh, tạo một lợi thế vững đủ
sức cạnh tranh trên thị trường nên ngày 20/12/1994 Bộ Công nghiệp đã ban hành quyết
định số 1065 QĐ/TCCBĐT về việc sáp nhập hai công ty trên thành một công ty lấy tên
là: công ty kim khí và vật tư tổng hợp miền Trung. Công ty đi vào hoạt động ngày
01/01/1995 theo giấy phép kinh doanh số 109669 của Ủy ban kế hoạch tỉnh Quảng
Nam-Đà Nẵng cấp ngày 29/12/1994.
Năm 2004, công ty được đổi tên thành công ty Kim khí Miền Trung theo quyết
định số 221/QĐ-TTC ngày 10/02/2004 của Hội đồng quản trị Tổng công ty thép Việt
Nam và giữ nguyên tên gọi này tới thời điểm cổ phần hoá.

Ngày 30/09/2005 Bộ Công nghiệp ra quyết định số 3088/QĐ-BCN về việc phê
duyệt phương án chuyển công ty Kim khí Miền Trung thành công ty cổ phần Kim khí
Miền Trung. Ngày 01/01/2006 công ty được cổ phần hoá và đi vào hoạt động dưới hình
thức công ty cổ phần theo giấy phép kinh doanh số 3203000847 do Sở kế hoạch và đầu
tư Đà Nẵng cấp ngày 28/12/2005. Đây là bước ngoặt đánh dấu một mốc chuyển đổi
quan trọng trong lịch sử hoạt động Công ty, tạo thế chủ động cho Công ty trên con
đường hội nhập và phát triển.
Tên doanh nghiệp : Công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung.
Tên giao dịch tiếng Anh: Central Vietnam Metal Corporation – CEVIMETAL.
Trụ sở chính đặt tại : 16 Thái Phiên, Quận Hải Châu, Thành Phố Đà Nẵng.
Điện thoại : 0511-3.821745/3.562385/3.822807
Fax : 0511-3.823306
Email :
Website : www.Cevimetal.com.vn
Công ty CP Kim Khí Miền Trung là một doanh nghiệp hạch toán độc lập, có đủ tư
cách pháp nhân, hoạt động theo luật doanh nghiệp, chịu trách nhiệm hữu hạn về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi vốn điều lệ của công ty. Công ty hoạt
động trong khuôn khổ của pháp luật và chịu sự quản lý của Tổng công ty thép Việt Nam
(VSC).
Quá trình phát triển
Những ngày đầu khi mới đi vào hoạt động công ty đã gặp rất nhiều khó khăn. Sau
khi sát nhập công ty hoạt động với cơ cấu tổ chức mới, số lượng công nhân viên nhiều
chất lượng không đồng đều và nhất là trong thời kỳ đất nước chuyển mình theo cơ chế
thị trường càng khiến công ty khó khăn hơn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa của mình. Với sự giúp đỡ của Tổng công ty thép Việt Nam, sự đoàn kết
của đội ngũ cán bộ công nhân viên, chủ trương chính sách hợp lý của ban lãnh đạo, tận
dụng tốt nguồn vốn từ việc sát nhập công ty từng bước vượt qua khó khăn để ổn định và
phát triển. Công ty đã xây dựng và đưa vào hoạt động Nhà máy cán thép với công suất
20.000 – 30.000 tấn/năm.
Sau khi cổ phần hóa công ty đã có nhiều thay đổi cơ bản về cấu trúc tổ chức và

một số chức năng cơ bản. Hiện nay công ty đã có địa bàn tiêu thụ rộng lớn, ngoài Văn
phòng công ty còn có 13 Đơn vị trực thuộc trải rộng trên khắp cả ba miền của đất nước,
hoạt động theo sự phân cấp và ủy quyền của công ty, là cầu nối tin cậy giữa khách hàng
với ngành công nghiệp Thép Việt Nam và thế giới. Nhờ có hệ thống các đơn vị trực
thuộc rộng khắp và sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt, công ty luôn thực hiện đầy đủ
và kịp thời các cam kết với khách hàng và đã tạo được uy tín và vị thế trong hoạt động
kinh doanh sắt thép trong và ngoài nước. Công ty ngày càng phát triển, tạo công ăn việc
làm và cải thiện đời sống cho đội ngũ cán bộ công nhân viên, đóng góp ngày càng nhiều
vào ngân sách của Nhà nước.
Công ty cổ phần Kim khí Miền Trung hiện đang áp dụng Hệ thống quản lý chất
lượng phù hợp ISO 9001:2000 (Tổ chức SGS - Anh Quốc chứng nhận) sản phẩm thép
miền Trung thương hiệu “MT” của công ty đã nhận được các giải thưởng Sao vàng Đất
Việt và Cúp vàng Đà Nẵng năm 2004.
Năm 2007 và 2008 Công ty Cổ phần kim khí Miền Trung được xếp hạng trong
Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam do báo điện tử VietNamNet kết hợp với Công
ty Cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (VietNam Report) công bố.
Chức năng và nhiệm vụ của công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung
Chức năng
- Tổ chức kinh doanh, xuất nhập khẩu các mặt hàng kim khí phôi thép, phế liệu
kim loại, thép xây dựng dân dụng và công nghiệp. Kinh doanh, xuất nhập khẩu kim khí;
Đầu tư kinh doanh khách sạn, văn phòng cho thuê và chung cư cao tầng. Kinh doanh
dịch vụ cho thuê kho bãi.
- Cung cấp thép xây dựng các loại cho các công trình.
- Đại lý phân phối sản phẩm cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
1.1.1. Nhiệm vụ
- Tổ chức kinh doanh các mặt hàng theo chức năng của công ty, tiếp nhận hàng
hóa của công ty trực thuộc tại Đà Nẵng và các nơi khác, kinh doanh có lợi nhuận ngày
càng cao.
- Tiếp nhận và sử dụng vốn từ tổng công ty thép cấp có hiệu quả, bảo toàn và phát
triển nguồn vốn; đồng thời huy động vốn kịp thời và hợp lý từ các nguồn khác. Điều tra

nghiên cứu thị trường nắm bắt được nhu cầu về sử dụng thép xây dựng và các hàng hóa
cùng loại để có chính sách bán hàng và dự trữ hàng thích hợp. Dự báo và thông tin
nhanh về nhu cầu sử dụng các mặt hàng kim khí ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên.
- Xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trình lên cấp trên – tổng
công ty thép Việt Nam để được phê duyệt và tiến hành triển khai kế hoạch được duyệt.
- Duy trì và cải tiến liên tục hệ thống quản lý chất lượng có hiệu quả dựa theo nền
tảng tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001:2000. Không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ
của đội ngũ công nhân viên, đào tạo bổ sung các kỹ năng cho nhân viên, nâng cao trình
độ quản lý để kế thừa và phát huy năng lực hiện có, đáp ứng yêu cầu kinh doanh ngày
càng khó khăn, phức tạp.
- Thực hiện tốt các chính sách, các quy định và tổ chức quản lý cán bộ, sử dụng lao
động, bảo vệ tài sản, an ninh chính trị nội bộ, xã hội, chấp hành mọi quy định của pháp
luật với hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường.
Thông tin chung về tình hình hoạt động của công ty CP Kim Khí Miền
Trung
Thông tin chung về kết quả kinh doanh trong thời gian gần đây: (ĐVT: triệu đồng)
Chỉ
tiêu
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Vốn
điều lệ

48.754 60.633 65.437 68.708 88.708
Doan 1.686.99 1.483.14 929.60 1.183.23 1.368.65
h thu 2 6 3 2 7
Lợi
nhuận
trước thuế
15.156 292 4.557 11.290 24.860
Cổ
tức
5% 10% 13%
Một số thông tin chung về tình hình lao động:
Chỉ tiêu
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số
lượng
(người
)
Tỷ lệ
%
Số
lượng
(người)
Tỷ lệ
%
Số
lượng
(người
)
Tỷ lệ
%

- Trình
độ lao động:
+ Đại
học, cao đẳng
+ Trung
cấp
+ Sơ cấp
112
42
36
59%
22,1%
18,9%
112
34
38
60,9%
18,5%
20,6%
118
32
39
62,5%
16,9%
20,6%
- Tính
chất lao động:
+ Lao
động trực tiếp
+ Lao

động gián tiếp
Tổng số:
103
130
233
44,2%
55,8%
100%
96
137
233
41,2%
58,8%
100%
82
151
233
35,2%
64,8%
100%
Ngày 10/8/2009, cổ phiếu công CP Kim Khí Miền Trung (mck: KMT) chính thức
được đưa vào giao dịch trên thị trường UPCoM và trở thành cổ phiếu thứ 13 trên thị
trường. Với khối lượng ĐKGD 8.870.885 cổ phiếu tương ứng vốn điều lệ 88,708 tỷ
đồng, công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung đã nâng quy mô đăng ký giao dịch trên thị
trường UPCoM lên hơn 171 triệu cổ phiếu. Tỷ lệ cổ tức dự kiến năm 2009 là 7%.
Đặc điểm tổ chức quản lý và tổ chức công tác kế toán tại công ty cổ phần Kim Khí Miền
Trung
Tổ chức bộ máy quản lý tại công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung
Sơ đồ bộ máy quản lý
Đại hội đồng cổ đông

Hôi đồng quản trị
Tổng giám đốc
GĐ chất lượng
Các phó tổng giám đốc
Phòng
KTTC
Phòng
XNK
Phòng
KHKD
Phòng
ĐTPT
Ban
THCN
Phòng
TCHC
Các đơn vị trực thuộc
BAN
KIỂM
SOÁT
Chú thích: Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ chất lượng
Quan hệ phối hợp
Quan hệ kiểm soát.
Chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận
Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của công ty bao gồm tất
cả các cổ đông có quyền bỏ phiếu hoặc người được cổ động ủy quyền.
Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty gồm 05 thành viên do Đại hội đồng
cổ đông bầu hoặc bãi nhiệm. Mỗi thành viên trong hội đồng quản trị có nhiệm kỳ 04
năm. Đây là cơ quan có đầy đủ thẩm quyền hạn để thực hiện tất cả các quyền nhân danh

công ty trừ những quyền thuộc về Đại hội đồng cổ đông.
Tổng giám đốc: Tổng giám đốc chịu trách nhiệm toàn diện trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty trước pháp luật và Hội đồng quản trị, trực tiếp quản lý công
tác tài chính của công ty. Nhiệm vụ và quyền hạn của tổng giám đốc do hội đồng quản
trị uỷ nhiệm. Nhiệm kỳ của tổng giám đốc là 04 năm. Tổng giám đốc chính là người đại
diện theo pháp luật của công ty.
Ban kiểm soát: là tổ chức thay mặt cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động sản xuất –
kinh doanh, quản trị và điều hành công ty. Ban kiểm soát gồm 03 thành viên do Đại hội
đồng cổ đông bầu và bãi nhiệm với đa số phiếu bằng hình thức trực tiếp hoặc bỏ phiếu
kín, trong đó phải có ít nhất 01 thành viên có chuyên môn về kế toán.
Các phó tổng giám đốc: các phó tổng giám đốc của công ty là người tham mưu
cho Tổng giám đốc trong công tác quản trị công ty, xử lý các công việc được giao khi
Tổng giám đốc vắng mặt.
* Các phòng ban của công ty:
- Phòng kế hoạch kinh doanh: Xây dựng các kế hoạch hàng năm giao cho các đơn
vị, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các đơn vị; tổ chức công tác
marketing, nghiên cứu thị trường; theo dõi và quản lý các hợp đồng kinh tế của công ty.
Tham mưu cho Hội đồng quản trị, tổng giám đốc về các lĩnh vực: công tác kinh doanh,
kế hoạch, tổng hợp, thống kê, báo cáo, quản lý các kho hàng hóa. Tham mưu cho tổng
giám đốc về các lĩnh vực tổ chức kinh doanh và nghiên cứu thị trường tiêu thụ thép, kim
khí. Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các mặt hàng hoạt động có liên quan đến
lĩnh vực kinh doanh đối với các đơn vị trực thuộc công ty. Chấp hành luật pháp nhà
nước, các quy định của tổng công ty thép Việt Nam và công ty về các lĩnh vực kinh
doanh xuất nhập khẩu thị trường.
- Phòng kế toán tài chính: Tiến hành theo dõi ghi chép, kiểm tra, giám sát hoạt
động sản xuất – kinh doanh bằng các nghiệp vụ; chấp hành nghiêm túc chế độ kế toán
hiện hành; cung cấp thông tin chính xác, trung thực, kịp thời và đầy đủ để làm cơ sở cho
việc định hướng, tăng cường quản lý cho việc sản xuất kinh doanh; tiến hành kiểm tra
định kỳ các đơn vị trực thuộc. Tham mưu cho cấp trên lĩnh vực kế toán và tài chính.
- Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho cấp trên (hội đồng quản trị, tổng giám

đốc) về các lĩnh vực của công tác tổ chức, nhân sự, hành chính, bảo vệ trong toàn công
ty. Đảm nhận công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật, tuyển dụng, đào tạo nâng bậc
lương, xây dựng kế hoạch tiền lương, kiểm tra phân phối tiền lương, tiên thưởng và các
chế độ khác trong toàn công ty.
- Phòng đầu tư phát triển: Tham mưu cho cấp trên về các lĩnh vực: công tác đầu
tư phát triển đặc biệt đầu tư vào các dự án, công tác kỹ thuật, công tác xây dựng cơ bản,
công tác công nghệ thông tin, công tác quản lý chất lượng (ISO).
- Ban thu hồi công nợ và pháp chế hợp đồng kinh tế: Tham mưu cho cấp trên về
công tác thu hồi công nợ khó đòi, đề xuất các biện pháp xử lý công nợ, công tác pháp
chế hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế.
- Phòng xuất nhập khẩu: Tìm hiểu thị trường trong và ngoài nước từ đó xây dựng
các kế hoạch và tổ chức thực hiện phương án kinh doanh xuất nhập khẩu, thực hiện các
hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu khi được ủy thác. Tham mưu cho Tổng giám đốc
trong quan hệ đối ngoại, chính sách xuất nhập khẩu theo luật về kinh doanh xuất nhâp
khẩu của Việt Nam và quốc tế.
- Các đơn vị trực thuộc: Thực hiện chức năng kinh doanh trên cơ sở triển khai các
chiến lược của công ty và các kế hoạch được giao, tiến hành hoạt động kinh doanh độc
lập và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về kết quả hoạt động của mình.
Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán
Công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung áp dụng mô hình tổ chức hệ thống thông tin
kế toán phân tán. Với mô hình phân tán bộ máy kế toán của công ty được tổ chức và sắp
xếp theo phương thức chỉ đạo chức năng.
Chú thích: Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ chức năng
Chức năng và nhiệm vụ của từng phần hành
Kế toán trưởng: là người chịu trách nhiệm trước lãnh đạo công ty và cơ quan nhà
nước về hoạt động kế toán tài chính; có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc ký kết các
hợp đồng kinh tế và các vấn đề về tài chính; cùng phòng KHKD tham gia các phương án
kinh doanh của công ty; nắm chắc những thay đổi về luật, chế độ, chính sách có liên

quan để giải quyết tốt các tình huống phát sinh phù hợp với chế độ kế toán hiện hành.
Phó phòng kế toán phụ trách tổng hợp: là người trực tiếp hướng dẫn và đôn đốc
các nhân viên kế toán khác; kiểm tra báo cáo nhanh, báo cáo quyết toán của các đơn vị
trực thuộc; lập các báo cáo nhanh về tình hình tài chính theo yêu cầu quản lý; tổng hợp
Kế toán trưởng
PP kế toán phụ
trách tổng hợp
PP kế toán phụ
trách công nợ, thuế
Kế toán
mua
hàng và
các
khoản
phải trả
Kế toán
bán hàng
và các
khoản
phải thu
Kế toán
tiền mặt
và các
khoản
thanh
toán
Kế toán
TSCĐ
Kế toán
ngân

hàng
Thủ quỹ
Phụ trách kế toán tại các đơn vị trực thuộc
các báo cáo sổ sách của văn phòng công ty kết hợp với các báo cáo của các đơn vị trực
thuộc gửi lên để lập các báo cáo tổng hợp.
Phó phòng kế toán phụ trách công nợ và thuế: là người theo dõi, quản lý tình hình
công nợ chung trong công ty; từ đó đề xuất các biện pháp thu hồi công nợ của công ty
đối với khách hàng cũng như các khoản công ty cần thanh toán; theo dõi các khoản phải
trả Nhà nước, lập báo cáo thuế hàng tháng, quyết toán thuế hàng năm.
Kế toán mua hàng và các khoản phải trả: là người theo dõi tổng hợp và chi tiết
hàng mua vào theo mặt hàng, nhà cung cấp, đơn đặt hàng, thanh toán theo VNĐ hay tiền
ngoại tệ; tính thuế GTGT của hàng hóa mua vào, đồng thời theo dõi các khoản phải trả
và việc thanh toán cho nhà cung cấp; lập các báo cáo về tình hình nhập xuất tồn kho
hàng hóa.
Kế toán tiền mặt và các khoản thanh toán: là người theo dõi các khoản thanh toán
bằng mặt và các khoản thanh toán qua ngân hàng; kiểm tra đối chiếu với các báo cáo
quỹ tại văn phòng công ty và các báo cáo về tiền mặt của các đơn vị trực thuộc gửi lên;
đồng thời theo dõi tình hình thanh toán lương và cá khoản trích theo lương, tình hình
tạm ứng và thanh toán tạm ứng của cán bộ nhân viên công ty.
Kế toán bán hàng và các khoản phải thu: là người theo dõi tổng hợp và chi tiết
tình hình bán hàng; kê khai thuế GTGT đầu ra của hàng hóa đã bán; theo dõi tình hình
thanh toán của khách hàng.
Kế toán tài sản cố định: là người theo dõi tình hình chung cũng như tình hình biến
động của TSCĐ về nguyên giá, giá trị khấu hao, giá trị còn lại, bộ phận sử dụng, mục
đích sử dụng, thanh lý hay sử chữa TSCĐ…
Kế toán ngân hàng: là người có nhiệm vụ giao dịch với ngân hàng, theo dõi tình
hình biến động của tiền gửi và tiền vay của công ty ở các ngân hàng, theo dõi tình hình
biến động lãi suất ở các ngân hàng.
Thủ quỹ: là người có trách nhiệm thu và kiểm tra thu tiền theo đúng quy định; chi
theo lệnh của được cấp trên duyệt; nộp tiền vào ngân quỹ hằng ngày tránh để tồn quỹ

vượt mức quy định; đảm bảo không để mất tiền; có quyền từ chối chi khi chưa có phiếu
chi.
Kế toán tại các đơn vị trực thuộc: các đơn vị trực thuộc tiến hành sản xuất kinh
doanh theo chỉ đạo thống nhất của công ty. Kế toán tại các đơn vị trực thuộc có trách
nhiệm thu thập, xử lý, thông tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị mình;
hàng quý lập và gửi báo cáo kế toán lên văn phòng công ty.
Hình thức sổ kế toán
- Với đặc thù về đặc điểm sản xuất kinh doanh phức tạp, quy mô công ty lớn và
tình hình phân cấp tài chính nên công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung đã áp dụng hình
thức Nhật ký - chứng từ. Trình tự ghi chép theo hình thức Nhật ký chứng từ
Chứng từ gốc và các
bảng phân bổ
Bảng kê Sổ chi tiết
Nhật ký chứng từ
Sổ cái
Báo cáo kế toán
Sổ quỹ kiêm
báo cáo quỹ
Báo cáo tổng
hợp chi tiết
Chú thích: Ghi hàng ngày
Ghi định kỳ vào cuối tháng (cuối quý)
Quan hệ đối chiếu, kiểm tra
- Từ năm 2000 công ty đã áp dụng phần mềm kế toán vào công tác kế toán. Phần
mềm được lựa chọn và sử dụng là phần mềm kế toán Fast Accounting.
Trình tự ghi sổ kế toán:
Chú thích: Nhập số liệu hàng ngày
In sổ, báo cáo theo yêu cầu
Kiểm tra, đối chiếu trực tiếp
Phần mềm kế toán Fast Accounting là phần mềm khá phổ biến và đã được chỉnh

sửa phù hợp với đặc điểm kinh doanh của công ty. Hằng ngày khi các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh kế toán căn cứ vào chứng từ gốc để phản ánh vào phần hành tương ứng của
mình. Cuối tháng các phần hành kế toán có liên quan sẽ đối chiếu số liệu với nhau, sau
đó sẽ in ra các sổ để lưu trữ và lưu trữ trong máy tính. Dựa trên số liệu này kế toán tổng
hợp sẽ quản trị theo yêu cầu quản lý. Cuối mỗi quý công ty sẽ lập báo cáo tài chính cho
văn phòng công ty và báo cáo tài chính chung cho toàn công ty. Phần mềm kế toán giúp
nhân viên kế toán có thể in ra các báo cáo bất kỳ thời điểm nào (trừ những báo cáo liên
quan đến việc khóa sổ kế toán). Để đảm bảo thông tin được phản ánh chính xác công ty
đã tiến hành các thủ tục kiểm soát trong quá trình ghi sổ như sau: Kế toán các phần hành
sẽ tự kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ và hợp pháp của các chứng từ gốc; máy vi tính sẽ tự
động kiểm tra các thông số do kế toán viên nhập các phần hành vào; cuối mỗi ngày, mỗi
tháng kế toán các phần hành có liên quan sẽ đối chiếu số liệu với nhau; kế toán trưởng,
kế toán tổng hợp phải kiểm tra lại các số liệu trên các sổ sách, báo cáo trước khi phê
duyệt.
Đặc điểm hoạt động của Công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung
Đặc điểm hàng hóa, dịch vụ kinh doanh
Công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung là một doanh nghiệp hoạt động chủ yếu là
thương mại. Công ty mua các mặt hàng kim khí trong nước hoặc nhập khẩu từ nước
ngoài về để bán cho các đơn vị trực thuộc, các khách hàng khác của công ty. Sản phẩm
kinh doanh chủ yếu của công ty là các mặt hàng thép xây dựng, phôi thép, thép phế liệu,
Chứng từ kế toán và
các bảng phân bổ
Phần mềm kế toán
(Fast Accounting)
Báo cáo
- Báo cáo tài chính
- Báo cáo quản trị
Sổ kế toán
- Sổ kế toán tổng hợp
+ Nhật ký chứng từ

+ Bảng kê
+ Sổ cái
- Sổ kế toán chi tiết
+ Sổ và thẻ kế toán chi tiết
thép thành phẩm, ngoài ra công ty còn kinh doanh các dịch vụ cho thuê văn phòng và
kho bãi. Mặt hàng kinh doanh của công ty khá cồng kềnh gây khó khăn trong bốc dỡ,
vận chuyển và tốn chi phí kho bãi. Mặt hàng kim khí cần được bảo quản tốt nhất là
trong điều kiện tồn kho lâu và điều kiện thời tiết khắc nghiệt tránh tình trạng xuống cấp
về chất lượng nên tốn chi phí bảo quản lớn. Đây cũng là mặt hàng đòi hỏi tiêu chuẩn
chất lượng cao nên cần chú ý về mặt chất lượng cũng như giá cả. Sau dây là một số
thông tin về sản phẩm, hàng hóa thép của công ty:
Thép xây dựng: gồm thép cuộn tròn, thép cây, thép cuộn trơn… do các nhà máy
trong nước sản xuất. Thép xây dựng từ phi 6 đến phi 32 chiếm chủ yếu trong doanh số
bán hàng của công ty. Phôi thép: gồm phôi thép chất lượng Q195, 20MnSi,… để phục
vụ cho việc cán thép được nhập khẩu chủ yếu từ nước ngoài (Nga, Trung Quốc,…) và
một số công ty trong nước ( Công ty thép Đình Vũ…).
Thép cây, thép vằn: gồm các loại như D10-D32 phục vụ cho các công trình dân
dụng, xây dựng các công trình yêu cầu khả năng chịu lực cao.
Thép phế liệu: gồm phế lon ép bánh, ống cắt,… phục vụ cho các nhà máy sản xuất
thép để luyện phôi, chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài ( Mỹ, Nga,…).
Thép chính phẩm: gồm thép hình chữ U, L, I phục vụ cho công việc gia công cơ
khí, các cơ sở đóng tàu, được nhập khẩu từ nước ngoài (Nga, Trung Quốc,…) và một số
công ty trong nước ( công ty thép Miền Nam, công ty gang thép Thái Nguyên…).
Đặc điểm các nhà cung cấp
Với bề dày gần 30 năm hoạt động trong lĩnh vực, kinh doanh thép và với khối
lượng tiêu thụ bình quân 120.000 Tấn / năm, Công ty hiện là nhà phân phối hàng đầu
cho các nhà máy thép trong nước thông qua mạng lưới kinh doanh phân bố khắp cả
nước. Các nhà cung cấp chính của công ty gồm: Công ty Thép Miền Nam (SSC), Công
ty Liên Doanh Sản xuất Thép VINAUSTEEL (Thép Việt Úc), Công ty Thép VPS (Thép
Việt Hàn), Công ty SX Thép Úc - SSE (Thép Úc - SSE), Công ty VINAKYOEI (Thép

Việt Nhật), Công ty Gang Thép Thái Nguyên (TISCO), Thép Hoà Phát và một số sản
phẩm của các Nhà máy khác.
Đặc điểm khách hàng
Công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung là một công ty khá lớn có mạng lưới tiêu
thụ rộng khắp cả nước nên có lượng khách hàng khá đông trên cả ba miền đất nước và
được phân thành ba loại khách hàng như sau:
- Khách hàng chính phủ: là đơn đặt hàng của các công ty xây lắp, công trình trọng
điểm của nhà nước như: công trình thuỷ điện Yaly, các công ty xây dựng cầu đường.
+ Ưu điểm: Đây là những đơn vị nhà nước nên khi giao dịch, buôn bán có sự bảo
lãnh của cơ quan chủ quản, do đó công ty tránh được nợ khó đòi, bán với số lượng lớn
+ Nhược điểm: do đặc điểm xây dựng những công trình quốc gia, sau khi hoàn
thành mới được nghiệm thu và quyết toán nên thanh toán nợ chậm, dẫn đến tình trạng
công ty bị chiếm dụng vốn.
- Khách hàng buôn bán: là những khách hàng mua đi bán lại như các công ty tổng
hợp, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hộ tư nhân, khách hàng cá nhân,…
+ Ưu điểm: thường xuyên có quan hệ lâu dài với công ty.
+ Nhược điểm: khả năng thanh toán phụ thuộc lớn vào tình hình kinh doanh nên
thường diễn ra tình trạng nợ phải thu khách hàng lâu và nợ khó đòi chiếm tỷ trọng lớn.
- Khách hàng mua sử dụng: gồm các công ty tư nhân mua để xây dựng công trình
nhỏ, nhà ở, khách hàng cá nhân Vì đây là đối tượng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
doanh số bán ra nên công ty chú ý đến việc mở rộng thị trường, đặc biệt là bố trí hợp lý
hệ thống các cửa hàng nhằm thu hút ngày càng nhiều hơn loại khách hàng này, tăng
doanh số cũng như doanh thu bán hàng.
Các chính sách về quản lý công nợ
Do đặc điểm hàng hóa kinh doanh, đặc điểm khách hàng nên công ty cần có các
chính sách cụ thể để quản lý công nợ tránh thát thoát vốn. Để quản lý công nợ Hội đồng
quản trị lưu ý Tổng giám đốc phải chỉ đạo quyết liệt việc đôn đốc, thu hồi, xử lý công
nợ, đồng thời chấn chỉnh công tác quản lý không để phát sinh các công nợ khó đòi mới
không có khả năng thu hồi làm thất thoát vốn. Định kỳ hàng tháng tổng giám đốc phải
báo cáo tình hình công nợ cho Hội đồng quản trị.

- Đối với nợ phải thu khách hàng: Công ty quy định mức dư nợ phải thu khách
hàng dựa trên một mức phù hợp giữa tổng dư nợ và tổng doanh thu đảm bảo đạt được
các mục tiêu kinh doanh và tưng bước lành mạnh hóa tình hình tài chính của công ty.
Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi phải thu khách hàng: hằng năm phải có kế hoạch,
biện pháp rút ngắn tỷ lệ này, yêu cầu mức thực hiện của năm sau phải tốt hơn năm trước
ít nhất là 10%. Không để phát sinh công nợ khó đòi mới, riêng đối với các công nợ khó
đòi cũ phải thực hiện giảm theo kế hoạch từng quý, năm của Hội đồng quản trị.
- Đối với nợ vay ngân hàng: tổng nợ vay ngân hàng không được vượt quá thẩm
quyền theo quy định của điều lệ công ty.
* Phân loại công nợ: để dễ dàng trong quá trình quản lý công nợ công ty phân loại
công nợ như sau:
- Nợ luân chuyển: là nợ còn nằm trong thời gian thỏa thuận của hợp đồng.
- Nợ quá hạn: là nợ đã quá thời hạn thanh toán nhưng dưới 30 ngày so với thỏa
thuận trong hợp đồng.
- Nợ khó đòi: là nợ quá hạn trên 30 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, đã đòi
nhiều lần nhưng chưa đòi được hoặc có dấu hiệu diễn biến xấu.
Các khoản nợ khó đòi cần được lập lên danh sách để gửi về phòng kế toán theo
dõi, tiến hành khiếu kiện, khiếu nại theo quy định.
Đặc điểm phân cấp tài chính ở công ty cổ phần Kim Khí Miền Trung
Tình hình phân cấp tài chính của công ty thể hiện rõ nét nhất trong các quy bán
hàng, thanh toán tiền hàng và quản lý các khoản công nợ giữa công ty với các đơn vị
trực thuộc. Vì thế cần tăng cường công tác quản lý và thu hồi công nợ, đảm bảo hạ thấp
tỷ lệ nợ trên doanh số bán hàng. Điều kiện để giám đốc chi nhánh, giám đốc xí nghiệp,
giám đốc nhà máy, cửa hàng trưởng thực hiện phân cấp bán trả chậm của công ty:
- Điều kiện 1: khách hàng mua trả chậm phải có tài sản thế chấp hoặc có sự bảo
lãnh của ngân hàng để đảm bảo cho việc thanh toán.
- Điều kiện 2: Nếu khách hàng không đủ điều kiện 1 thì Tổng giám đốc công ty
giao uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh, giám đốc xí nghiệp, giám đốc nhà máy, cửa
hàng trưởng được phép thẩm định uy tín và khả năng thanh toán của khách hàng để
quyết định cho việc bán hàng trả chậm hay không. Mọi thất thoát tiền hàng bán trả chậm

ở điều kiện 1, 2 điều phải tự đền bù bằng tài sản cá nhân của người ra quyết định.
Việc bán hàng trả chậm được thực hiện khi khách hàng chấp nhận thanh toán lãi
vay cho chi phí sử dụng vốn của công ty trong thời gian trả chậm. Chi phí sử dụng vốn
này phải được ghi rõ trong hợp đồng hay biên bản thoả thuận.
Công ty nghiêm cấm các đơn vị cửa hàng của công ty cùng bán trả chậm cho một
khách hàng thuộc diện tư nhân. Để thực hiện điều này, hàng tháng phòng Kế toán – tài
chính thống nhất với phòng kinh doanh thị trường thông báo danh sách các khách hàng
thuộc diện nói trên và chỉ định cho một đơn vị, cửa hàng được quan hệ mua bán theo
hạn mức tối đa cho phép bán trả chậm. Các đơn vị khác không dược chỉ định thì không
được phép bán trả chậm cho các đơn vị nói trên.
B. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của công ty cổ
phần Kim Khí Miền Trung
Đánh giá khái quát về hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của công ty cổ phần
kim khí Miền Trung
Tình hình tài sản của công ty
Ta có bảng tỷ lệ tài sản trong tổng tài sản như sau: (Đvt: Đồng)
Chỉ
tiêu
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Mức Tỷ lệ Mức Tỷ lệ Mức
Tài
sản ngắn
hạn
143.435.632.15
1
77,3
5
196.654.440.41
6
80,9

5
126.870.813.07
5
Tài
sản dài
hạn
42.013.310.833 22,6
5
46.282.188.413 19,0
5
49.084.786.390
Tổng
tài sản
185.448.942.98
4
100 242.936.628.82
9
100 175.955.599.46
5
Tổng tài sản của công ty biến động tăng mạnh vào năm 2007 nhưng sau đó lại
giảm vào năm 2008. Nhìn vào bảng ta thấy tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng tài sản, luôn trên 70% tổng tài sản. Tài sản của công ty giảm năm 2008 chủ yếu do
tài sản ngắn hạn giảm.
Vào thời điểm quý II/2009 thì tài sản ngắn hạn của công ty là 140.135.591.148
đồng chiếm 72,29% tổng tài sản, tăng lên so với thời điểm cuối năm 2008; tài sản dài
hạn là 53.703.436.734 đồng tương ứng chiếm 27,71% tổng tài sản. Cả hai loại tài sản
đều tăng so với cuối năm 2008 nhưng tốc độ tăng của tài sản ngắn hạn nhanh hơn tài sản
dài hạn.
Tình hình nguồn vốn của công ty
Chỉ

tiêu
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Mức Tỷ lệ Mức Tỷ lệ Mức
Nợ
phải trả
112.224.514.34
3
60,5
2
161.403.079.36
3
66,4
4
60.821.462.088
Vốn
chủ sở
hữu
73.224.428.641 39,4
8
81.533.549.466 33,5
6
115.134.137.37
7
Tổng
nguồn vốn
185.448.942.98
4
100 242.936.628.82
9
100 175.955.599.46

5
Tổng nguồn vốn của công ty tăng mạnh vào năm 2007 nhưng lại giảm vào năm
2008. tỷ trọng nợ phải trả tăng nhẹ vào năm 2007 nhưng lại giảm mạnh vào năm 2008.
Vốn chủ sở hữu có xu hướng tăng và tăng rất mạnh vào năm 2008 do phát hành cổ
phiếu.
Vào thời điểm quý II/2009 nợ phải trả của công ty là 87.460.967.810 đồng tương
ứng chiếm 45,12% tổng nguồn vốn và nguồn vốn chủ sở hữu là 106.387.060.072 đồng
(chiếm 54,88% tổng tài sản). Sau 3 năm vốn chủ sở hữu tăng thì vào quý II/2009 giảm
nhẹ do giảm lợi nhuận chưa phân phối, sự gia tăng nợ phải trả vào thời điểm này kéo
theo tỷ trọng nợ phải trả tăng cao trong tổng nguồn vốn so với năm 2008. Nợ ngắn hạn
vào quý II/2009 tăng mạnh chủ yếu do sự gia tăng của các khoản vay và nợ ngắn hạn.
Phân tích tình hình công nợ
Phân tích tình hình công nợ phải thu
BẢNG PHÂN TÍCH CÁC KHOẢN PHẢI THU (Đvt: Đồng)
C
hỉ tiêu
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Chênh lệch
2007/2006 2008/2007
Mức
Tỷ lệ
%
Mức
Tỷ lệ
%
A.
Các
khoản
phải thu
ngắn

hạn
61.203.486.97
1
80.542.683.202 50.348.603.092 19.339.196.23
1
31,60 -
30.194.080.110
-37,49
1
Phải thu
khách
hàng
39.496.965.56
4
48.510.807.218 39.980.673.124 9.013.841.654 22,82 -
8.530.134.094
-17,58
2
Trả
trước
cho
người
bán
15.293.063 36.639.815.019 10.528.024.863 36.624.521.95
6
239.4
84
-
26.111.790.156
-71,27

5
Các
khoản
phải thu
khác
22.261.133.66
8
465.414.377 5.663.321.833 21.795.719.29
1
-97,91 5.197.907.456 1.116,
83
6
Dự
phòng
các
khoản
phải thu
khó đòi
(569.905.324) (5.073.353.412) (5.823.416.728) -
4.503.448.088
790,2
1
-750.063.316 14,78
B.
Các
khoản
phải thu
dài hạn
22.999.640.81
8

13.409.935.196 6.785.934.059 -
9.589.705.622
-41,70 -
6.624.001.137
-49,40
1
Phải thu
21.263.799.60
7
12.607.849.433 6.218.572.526 -
8.655.950.174
-40,71 -
6.389.276.907
-50,68

×