Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận cao học, phát huy vai trò của cộng đồng người việt nam ở nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.57 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Với gần 5 triệu người sinh sống tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới,1 cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi khơng chỉ là một phần máu thịt
của dân tộc Việt Nam mà còn là nguồn lực q báu cho sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, là cầu nối quan trọng góp phần tăng cường quan hệ
hữu nghị, hợp tác giữa nước ta với các nước.
Lịch sử đã chứng minh sự đóng góp to lớn của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng
như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Cùng với công cuộc đổi mới, những năm qua, sự quan tâm sâu sắc của
Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào hội nhập, phát triển mạnh mẽ. Vai trò của
kiều bào trong giai đoạn hiện nay một lần nữa lại được khẳng định tại Nghị
quyết Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII mới đây, trong đó
tiếp tục nêu rõ: đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc là một bộ phận không thể tách
rời của dân tộc Việt Nam. Đảng, Nhà nước Việt Nam mong muốn Kiều bào tiếp
tục phát huy vai trò là cầu nối, đóng góp thiết thực hơn nữa cho đất nước trong
giai đoạn hội nhập mới.
Những năm qua, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi ln đồn kết,
nỗ lực vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, ngày càng khẳng định vai trị và
uy tín trong xã hội sở tại. Kiều bào luôn hướng về quê hương, chung vai cùng
đồng bào trong nước chia sẻ nhiều vấn đề quan trọng của đất nước.
Tại Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới được tổ chức tại
TP. HCM vào sáng ngày 12 tháng 11 năm 2016, Phó thủ tướng Phạm Bình Minh
đến dự và phát biểu khai mạc Hội nghị. Phó thủ tướng đã khẳng định: “Đảng và
Nhà nước luôn xác định: cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi là bộ phận
khơng thể tách rời của dân tộc Việt Nam! Kiều bào ta, dù xa Tổ quốc nhưng ln
mang trong mình lịng u nước, q hương, hướng về cội nguồn. Kiều bào là
cầu nối tăng cường tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước. Các hoạt động


1

Thống kê năm 2015 của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao


hợp tác về khoa học- công nghệ, đầu tư, kinh doanh, tài chính của kiều bào hiện
nay đã trở thành nguồn lực quan trọng, đóng góp hiệu quả vào quá trình phát
triển của đất nước”.
Tình hình quốc tế và khu vực mấy năm gần đây chuyển biến rất nhanh và
phức tạp. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng hịa bình và phát triển, tồn cầu hóa
và liên kết kinh tế vẫn là xu thế lớn, không thể đảo ngược, cho dù còn nhiều trở
ngại do cạnh tranh, xung đột, chủ nghĩa dân tộc, dân túy gia tăng ở một số nơi.
Những xu thế đó, cùng với những biến động về chính trị, kinh tế, xã hội của các
nước, đặc biệt là các nước lớn và các nước láng giềng, đều tác động đến Việt
Nam, đưa đến cho ta nhiều cơ hội mới nhưng những thách thức cũng rất gay gắt.
Trong giai đoạn mới, đất nước còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức. Đại hội XII của Đảng đã vạch ra những định hướng lớn cho sự phát triển
của đất nước trong thời gian tới. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh, yếu tố then chốt là đại đoàn kết dân tộc, trong
đó đặc biệt chú trọng phát huy sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam tại nước
ngoài. Điều này được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong buổi gặp
gỡ đoàn kiều bào tiêu biểu ngày 30/1 vừa qua: “Văn kiện Đại hội Đảng vừa rồi
bà con đóng góp nhiều lắm. Trong dịp khai mạc, bế mạc tơi đã tuyên bố rằng
cảm ơn bà con trên toàn thế giới. Văn kiện trong đó khẳng định vấn đề rất then
chốt, cơ bản là phải đổi mới, phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước, phải
phát triển, lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết. Và muốn thế thì Đảng phải vững
mạnh, Nhà nước phải trong sạch, hệ thống chính trị phải thơng suốt, đồng bộ,
nhịp nhàng và điều quan trọng là đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là nguồn lực,
là động lực phát triển đất nước, là mục tiêu chúng ta cần phải xây dựng”.
Nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đại hội Đảng XII đã đề ra,

Đảng có chủ trương phát huy mọi nguồn lực đất nước, của tồn dân tộc, trong đó
có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi.
Đây chính là lý do để người viết quyết định lựa chọn đề tài “ Phát huy
vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi trong q
trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” làm đề tài tiểu luận
chuyên đề tự chọn của mình.
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thế mạnh của cộng

2


đồng người Việt Nam ở nước ngồi để từ đó đề xuất những biện pháp, chính
sách để tạo thuận lợi cho cộng đồng phát triển ngày càng ổn định, hội nhập vào
xã hội sở tại, tiếp tục hướng về quê hương, chung sức với nhân dân cả nước xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong phạm vi giới hạn của một bài tiểu luận, những phân tích, đánh giá
và số liệu đã sử dụng cịn thiếu tồn diện và khó tránh khỏi những khiếm khuyết.
Vì vậy, người viết mong nhận được sự góp ý của q Thầy Cơ để tiểu luận được
hồn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập mà Đảng, Nhà nước đặt
ra, cùng sự lớn mạnh không ngừng của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài.

3


NỘI DUNG
I. VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG ĐẨT NƯỚC
1. Khái quát quá trình hình thành của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi
Trong q trình ra đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

đã chú trọng xây dựng các cơ sở Việt kiều yêu nước ở nhiều nơi. Tại Pháp,
năm 1919, Người đã thành lập Hội Ái hữu người An Nam yêu nước, tiền
thân của Hội người Việt Nam tại Pháp ngày nay. Tại Quảng Châu, Trung
Quốc, Người đã tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” vào
năm 1924. Tại Phichit, Thái Lan, chi hội Việt kiều yêu nước đầu tiên được
thành lập vào năm 1926, sau mở rộng ra những nơi khác có đơng người
Việt sinh sống như Lào, Campuchia...
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, kiều bào ta đã phát huy
tinh thần yêu nước, tham gia kháng chiến theo nhiều hình thức khác nhau. Nhiều
kiều bào tại Pháp đã tham gia phục vụ, bảo vệ phái đồn Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Fontainebleau năm 1946, vận động dư luận
nhân dân tiến bộ Pháp ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt Nam. Nhiều trí thức
kiều bào đã hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước tham gia
kháng chiến như các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn
Ngữ, Lê Văn Thiêm,... Tại Thái Lan, Lào, Campuchia, các Hội Việt kiều cứu
quốc được tổ chức từ trung ương đến các địa phương đã động viên bà con góp
sức người, sức của cho kháng chiến, giúp làm phiên dịch, quan hệ với nhân dân
sở tại, góp của cải, cho con em tham gia công tác, gia nhập lực lượng vũ trang,
tổ chức các đội tự vệ, đội quyết tử để bảo vệ cơ sở cách mạng và đánh địch. Thời
kỳ cách mạng tháng 8/1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp đã có hơn 1,5
vạn Việt kiều ở Campuchia về Sài Gòn và các tỉnh tham gia cướp chính quyền.
Kiều bào Thái Lan đã gửi 6.000 con em ra mặt trận, trực tiếp tham gia chiến
đấu, nhiều người đã hy sinh cho công cuộc kháng chiến chống Pháp bảo vệ nền
độc lập của Tổ quốc Việt Nam.2
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva 1954 được ký kết, tại
Pháp và nhiều nước khác, kiều bào tích cực tham gia mít tinh, lấy chữ ký vận
động nhân dân và dư luận các nước sở tại đòi Mỹ - Diệm thi hành nghiêm chỉnh
2

Nguồn ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ờ nước ngoài, Bộ Ngoại giao.


4


Hiệp định, chống đàn đáp những người kháng chiến. Nhiều trí thức kiều bào
chuẩn bị hồi hương đem kiến thức và tài sản tích lũy được về góp phần xây dựng
đất nước thống nhất. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đi vào cao trào, kiều bào ta
ở Mỹ và các nước Tây Âu đã tích cực giúp đỡ và phối hợp với các cơ quan đại
diện ngoại giao tiến hành vận động nhân dân và chính giới các nước hình thành
mặt trận nhân dân tiến bộ thế giới ủng hộ Việt Nam, đấu tranh đòi Mỹ chấm dứt
ném bom miền Bắc và rút quân đội khỏi Việt Nam. Kiều bào ta ở Pháp trong
nhiều năm liên tục đã tận tụy ngày đêm phục vụ, giúp đỡ các phái đoàn ngoại
giao Việt Nam đấu tranh trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris về lập lại hịa bình
ở Việt Nam. Trong hàng ngũ học sinh, sinh viên du học ở các nước cũng dấy lên
phong trào phản đối chiến tranh, nhiều người trong số này đã trở thành nòng cốt
trong các phong trào Việt kiều yêu nước, nổi bật là sinh viên Nguyễn Thái Bình
ở Mỹ. Tại các nước láng giềng Thái Lan, Lào, Campuchia, kiều bào tiếp tục tích
cực đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Kiều bào ở Thái Lan đã có
nhiều hình thức vận động phong phú như phát động phong trào “nở hoa diệt
Mỹ”, “hũ gạo ni qn”, “góp vàng cho kháng chiến”... để qun góp tiền của
gửi về đóng góp hỗ trợ cho cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Hơn 3 vạn kiều
bào ở Campuchia đã trực tiếp tham gia chiến đấu trên các mặt trận. Sau khi Hiệp
định Paris được ký kết năm 1973, hàng trăm ngàn Việt kiều tiếp tục về nước xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Những đóng góp to lớn đó của bà con đã góp phần cùng
đồng bào trong nước đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang, đem lại
nền độc lập và thống nhất cho Tổ quốc.
Khi đất nước hịa bình, thống nhất, người Việt Nam ở nước ngồi
(NVNONN) tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho công cuộc xây dựng Tổ
quốc. Đồng bào hoan nghênh và ủng hộ chính sách hồ hợp, đại đoàn kết toàn
dân tộc, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai của Đảng và Nhà nước ta, ủng hộ

công cuộc Đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”. Tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc của kiều bào ngày càng được củng
cố nhờ những thành tựu to lớn của sự nghiệp Đổi mới, sự ổn định chính trị - xã
hội và vị thế quốc tế ngày càng cao của đất nước. Xu hướng trở về cội nguồn,
gắn bó với gia đình, dịng tộc, đóng góp xây dựng q hương của người Việt
Nam ở nước ngoài ngày càng được thể hiện rõ nét, với nhiều hình thức phong
phú, đa dạng, thiết thực trong hầu hết các lĩnh vực, từ hoạt động đầu tư, kinh

5


doanh, hợp tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy, giao lưu văn hóa, biểu diễn nghệ
thuật, thi đấu thể thao, du lịch cho đến các hoạt động từ thiện, nhân đạo... Vai trò
quan trọng của kiều bào trong ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và đặc biệt
là ngoại giao văn hố ngày càng được khẳng định.
2. Tình hình Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay
Việt Nam là nước có kiều dân thuộc loại cao nếu tính theo tỷ lệ giữa số
kiều dân so với tổng số dân trong nước. Hiện nay, ngày càng đông người Việt
sang nước ngoài theo diện lao động, kinh doanh, nghiên cứu, du học, hoặc định
cư, đồn tụ gia đình, du lịch, kết hôn... Địa bàn cư trú của cộng đồng được mở
rộng trên 103 nước và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, kể cả những khu vực
nghèo và đang phát triển ở các khu vực châu Phi, Trung Đông, Nam Mỹ hoặc
các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đại bộ phận (khoảng 98%) vẫn tập
trung ở 21 nước thuộc năm khu vực địa lý, gồm Bắc Mỹ, Tây Bắc Âu, Nga và
Đông Âu, Đông Nam Á, Đông Bắc Á và châu Úc, trong đó hơn 2/3 đã nhập
quốc tịch nước sở tại. Phần đơng bà con có cuộc sống ngày càng ổn định và hòa
nhập vào xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội ở nước sở tại. Cuộc sống cũng như các hoạt động khác nhau của cộng đồng
Việt kiều sẽ có ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau tới mối quan hệ giữa các
nước sở tại với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua, hàng trăm ngàn

người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đình,
hình thành các cộng đồng người Việt Nam đáng kể ở một số địa bàn như: Đài
Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia...
So với cộng đồng ngoại kiều khác, cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài là một cộng đồng trẻ, năng động, nhanh chóng hịa nhập vào xã hội nước
sở tại và có xu hướng định cư lâu dài ở những nước như Mỹ, Australia, Canada
và các nước Tây Âu. Trong khi phần lớn người Việt Nam ở Đông Âu và Nga vẫn
coi cuộc sống ở nước sở tại là tạm cư với mục đích làm ăn kinh tế là chính, khi
có điều kiện sẽ trở về nước sinh sống. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
là cộng đồng khá phức tạp về thành phần xã hội, phức tạp về xu hướng chính trị
và đa dạng về nghề nghiệp, tơn giáo... bị chi phối, phân hóa bởi sự khác biệt về
giai tầng xã hội, hoàn cảnh ra đi khỏi đất nước, địa bàn nơi cư trú và đặc biệt là
chính kiến rất khác nhau, đa dạng. Tính liên kết, gắn bó ở một số cộng đồng
khơng cao, do sinh sống phân tán, rất khó tập trung liên kết. Ở một số nước,

6


chính quyền có chủ trương bố trí cho cộng đồng ngoại kiều sinh sống phân tán,
nhỏ lẻ để dễ quản lý. Việc duy trì tiếng mẹ đẻ và giữ gìn bản sắc văn hóa truyền
thống đang là thách thức lớn đối với những thế hệ tiếp sau của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngồi. Dù được coi là hịa nhập thành đạt nhanh ở Mỹ và
phương Tây, nhưng tiềm lực kinh tế của cộng đồng người Việt còn hạn chế, thu
nhập nhìn chung cịn thấp so với mức bình quân của người bản xứ. Nhiều người
Việt có cuộc sống ổn định song vẫn phải nhờ vào trợ cấp xã hội.
Tuy nhiên, xét về tổng thể và qua nhiều cách tiếp cận khác nhau cho thấy,
tiềm lực chất xám, trí tuệ của cộng đồng người Việt ở nước ngoài là đáng kể,
nhất là ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Nga, Đông Âu. Có tài liệu ước tính khoảng 400 ngàn
người Việt Nam ở nước ngồi có trình độ đại học, trên đại học và cơng nhân kỹ
thuật bậc cao, có thơng tin kiến thức cập nhật về khoa học và công nghệ, về kinh

tế.
3. Vai trò nổi bật của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Là nguồn lực quý báu cho sự phát triển đất nước, vai trò của người Việt
Nam ở nước ngoài thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là nguồn lực kinh
tế quý báu của đất nước
Ở hầu hết các nước, vùng lãnh thổ, có hàng chục trung tâm thương mại
của người Việt, nhiều hội doanh nhân người Việt Nam ở nước ngoài được thành
lập là lực lượng nòng cốt kinh tế của cộng đồng và hỗ trợ tích cực cho các hoạt
động đầu tư, thương mại, có khả năng tìm kiếm đối tác làm cầu nối với các
doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Với tiềm lực kinh tế của mình, người Việt
Nam ở nước ngồi có xu hướng đầu tư về nước ngày một nhiều hơn.
Hàng năm, lượng kiều hối về nước tăng trung bình 10 - 15%/năm, năm
2009 là 6,283 tỷ USD, năm 2010 là 8,6 tỷ USD, năm 2011 đạt trên 9 tỷ USD,
năm 2014 tăng lên mức 12 tỷ USD và năm 2015 đạt 12,25 tỷ USD, đưa Việt
Nam lên vị trí thứ 11 thế giới và thứ 3 ở khu vực Đơng Á - Thái Bình Dương,
sau Trung Quốc và Philippines, về lượng kiều hối nhận được, góp phần quan
trọng vào việc ổn định cán cân thanh toán và kinh tế của đất nước3.
Điều này có được là do Chính phủ Việt Nam cũng như các ngân hàng
thương mại trong nước đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích thu hút Việt
kiều ở nước ngoài chuyển, gửi tiền về nước đầu tư, làm ăn… Nguồn lực kiều hối
3

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về “Di cư và kiều hối năm 2016” (Migration and remittances factbook 2016).

7


đã và đang góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Kiều hối có vai trò rất quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới, đặc

biệt là các nước đang phát triển. Đối với Việt Nam, kiều hối ngày càng trở nên
quan trọng. Trong những năm gần đây, dòng kiều hối vào Việt Nam không
ngừng gia tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối so với GDP, góp phần bù đắp
thâm hụt cán cân thương mại, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của một
bộ phận người dân nhận kiều hối.
Trước đây, tiền gửi về chỉ để giúp đỡ thân nhân, nay Việt kiều chuyển
sang góp vốn kinh doanh quy mơ gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo
cơng ăn việc làm, tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đến nay,
doanh nhân người Việt Nam ở nước ngồi có mặt ở 51/63 tỉnh, thành phố, với
3.546 doanh nghiệp, số vốn đăng ký kinh doanh và vốn đóng góp của Việt kiều
đạt khoảng 8,4 tỷ USD4.
Với sự quan tâm, vận động của Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương và các
cơ quan liên quan, sự ra đời của Hiệp hội Doanh nhân NVNONN vào tháng
8/2009 là mốc quan trọng trong quá trình tập hợp, liên kết sức mạnh của các
doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới. Đến nay, tại nhiều địa bàn đã có Hội,
Chi hội Doanh nghiệp Việt Nam, một số nơi thành lập Trung tâm thương mại
Việt Nam, góp phần làm cầu nối xúc tiến đầu tư, thương mại giữa Việt Nam với
các nước, hình thành mạng lưới phân phối hàng Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều tấm lịng nhân ái của kiều bào hướng về
Tổ quốc thông qua các hoạt động từ thiện nhân đạo dưới nhiều hình thức như tổ
chức khám chữa bệnh, miễn phí cho người nghèo, mổ từ thiện miễn phí cho trẻ
em bị dị tật mơi miệng; cung cấp trang thiết bị y tế cho các bệnh viện, trạm xá,
đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa. Nhiều tổ chức phi chính phủ của kiều bào
đang hoạt động trong nước để giúp đỡ người nghèo, tài trợ cho trẻ em nghèo đi
học... Nhiều đợt vận động quyên góp từ các nguồn khác nhau đã được tổ chức để
ủng hộ đồng bào bị thiên tai, quyên góp xây dựng “Quỹ vì người nghèo”, giúp
đỡ thương bệnh binh và người tàn tật, nạn nhân chất độc da cam, trẻ em bị bệnh
tim bẩm sinh, đồng bào và chiến sỹ Trường Sa...
Thứ hai, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có tiềm lực tri thức
đáng kể, góp phần khơng nhỏ vào phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục đào tạo của đất nước

4

Số liệu thống kê năm 2015 của ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao.

8


Tuy đóng góp cho đất nước ở nhiều phương diện, song vốn quý nhất của
người Việt Nam ở nước ngoài là về nguồn lực chất xám, tri thức.
Không thể phủ nhận rằng các trí thức người Việt Nam ở nước ngồi là
nguồn lực quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước. Theo ước tính, trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có
khoảng 400.000 người có trình độ đại học, trên đại học, cơng nhân kỹ thuật bậc
cao, được đào tạo chính quy trong môi trường khoa học hiện đại, được tiếp cận
và cập nhật với những tiến bộ mới nhất của khoa học kỹ thuật thế giới và có
nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong hầu hết các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, kỹ
thuật công nghệ cao từ điện tử, tin học, viễn thông, vật liệu mới, sinh học cho
đến công nghệ hàng khơng, vũ trụ, sản xuất vũ khí.
Trong những năm gần đây, mỗi năm đã có khoảng 200 - 300 chun gia,
trí thức người Việt Nam ở nước ngồi, chủ yếu từ các nước phát triển như Mỹ,
Pháp, Đức, Nhật Bản... về nước tham gia có hiệu quả cho các công việc giảng
dạy, tư vấn và đầu tư, chuyển giao tri thức thông qua nhiều hoạt động phong phú
như tham gia trực tiếp giảng dạy tại các trường đại học, viện nghiên cứu, biên
soạn giáo trình; cung cấp thơng tin, tài liệu, kinh nghiệm; làm việc trong các dự
án hợp tác với nước ngoài, phối hợp với các chuyên gia, trí thức trong nước thực
hiện các chương trình nghiên cứu, triển khai ứng dụng; làm cầu nối, mở rộng
hợp tác quốc tế giữa các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu của Việt Nam với
nước sở tại; làm tư vấn cho các bộ, ngành, các cơ quan quản lý nhà nước trong
hoạch định chính, sách, đặc biệt các ngành, lĩnh vực phát triển mới.
Bên cạnh đó, do có điều kiện được tiếp cận với nền khoa học, công nghệ

tiên tiến hiện đại, nắm bắt xu hướng phát triển mới của thế giới, kiều bào ta có
thể đóng góp ý kiến, kiến thức về xây dựng pháp luật, thể chế, hoạch định chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế... Với ảnh hưởng ngày càng gia
tăng của cộng đồng đối với chính quyền sở tại, kiều bào có thể vận dụng thúc
đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các nước; tranh thủ
sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam tại các diễn đàn khu vực và quốc tế.

Thứ ba, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cầu nối quan trọng
để chúng ta mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các quốc gia, vùng lãnh
thổ, khu vực và thế giới.

9


Đây là nhân tố quan trọng trong thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhiều năm trở lại đây, kiều bào tích cực tham gia và hưởng ứng hàng loạt
các hoạt động lớn dành cho người Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức thường
xuyên ở trong và ngồi nước như chương trình Xn Q hương, Giỗ Tổ Hùng
Vương, Đoàn kiều bào đi thăm Trường Sa, Lễ kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất
nước, các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” nhằm tri ân các anh hùng, liệt sỹ, Trại
hè Việt Nam, phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”... Những năm gần đây, dịng họ Nhà Lý sống ở Hàn Quốc gần 800 năm
có nhiều hoạt động cụ thể hướng về đất nước và cộng đồng công giáo người
Thái gốc Việt sống tại Chanthaburi (Thái Lan) từ hơn 300 năm đã tìm lại được
mối liên hệ với đất nước và đã cử đại điện về tham dự các chương trình do Bộ
Ngoại giao - Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có nhiều lợi thế trong công tác
đối ngoại, bởi họ là lực lượng tuyên truyền, quảng bá nhanh nhất, hiệu quả nhất

về văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới thơng qua các
hoạt động văn hóa cộng đồng và hỗ trợ, tham gia các triển lãm, hội chợ quảng bá
văn hóa, thương mại, du lịch của Việt Nam với thế giới, góp phần mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại trong sự
nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc nói chung.
Thứ tư, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là lực lương quan trọng,
mang tính tích cực, chủ động để chúng ta đấu tranh phịng chống và vơ hiệu hóa
chiến lược “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
Tính đến nay có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người Việt Nam ở
hải ngoại đang ni chí “phục thù” nhằm thực hiện ý đồ đen tối “phục quốc”,
cầm đầu các hội, nhóm trên phần lớn là những phần tử cực đoan, từng là ngụy
quân, ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc nối,
câu kết chặt chẽ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống
phá cách mạng nước ta, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng đẩy
mạnh truyền đạo trái phép để “tơn giáo hố” các vùng dân tộc, lôi kéo, tranh
giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền. Những năm gần
đây, chúng tăng cường lợi dụng “dân chủ ”, “nhân quyền ”, “tự do tôn giảo ”, tồ

10


chức các cuộc hội thảo về quyền con người, cái gọi là “Lễ mất đất ” (ngày 04/6
hàng năm ), “Ngày thành lập FULRO ” (ngày 20/9 hàng năm), thu thập, phát
tán tài liệu (bản đồ, sách, tập san, tạp chí, băng, đĩa... hay gửi kiến nghị thư liên
quan đến vấn đề lãnh thồ để vu cáo Việt Nam... Thực tế cho thấy, nếu chúng ta
phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngồi để
phân hóa, cơ lập các lực lượng phản động, chúng ta có thể hạn chế một cách
hiệu quả, thiết thực từ xa chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ đối
với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, nhất là trong cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngồi.

II. VẤN ĐỀ CƠNG TÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
HIỆN NAY
1.

Sơ lược quá trình hình thành và vị trí , vai trị của vấn đề công tác đối

với người Việt Nam ở nước ngồi
Cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi ln chiếm vị trí quan trọng
trong cơng tác cách mạng của Đảng ta. Lịch sử công tác vận động người Việt
Nam ở nước ngoài gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ
khác nhau. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam có phần đóng góp to lớn về vật
chất, tinh thần, kể cả xương máu của kiều bào ta ở nước ngoài.
Từ trước năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra đời, trong hành
trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó là Nguyễn Ái Quốc
đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngồi và đã tích cực tạo lập cơ sở, xây dựng tổ chức ở nước ngoài để phục vụ
cho cách mạng trong nước. Năm 1919, Người đã lập “Nhóm người An Nam
yêu nước”, tiền thân của phong trào Việt kiều yêu nước rộng khắp tại Pháp và
Hội người Việt Nam tại Pháp sau này. Năm 1924, cùng một số đồng chí khác,
Người đã thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Quảng
Châu (Trung Quốc), rồi tiếp đó thành lập các chi hội ở Thái Lan. Năm 1928,
Người đã trực tiếp đến Thái Lan để vận động bà con kiều bào, trực tiếp lãnh
đạo tổ chức và phong trào Việt kiều yêu nước tại đây.
Năm 1945, đất nước giành được độc lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều dịp kêu gọi, động viên đồng bào ta ở nước ngoài phát huy tinh thần
yêu nước, tranh thủ nhân dân sở tại, ủng hộ đất nước. Trong cuộc kháng chiến

11



trường kỳ chống thực dân Pháp kéo dài suốt 9 năm (1946 - 1954), đồng bào ta
ở nước ngoài đã nêu cao tinh thần yêu nước, tham gia kháng chiến theo nhiều
hình thức khác nhau. Tại Thái Lan, phong trào yêu nước của Tổng Hội Việt
kiều cứu quốc hoạt động rất mạnh, phối hợp chặt chẽ với trong nước. Hơn
6.000 Việt kiều Thái Lan trực tiếp tham gia kháng chiến trong lực lượng vũ
trang tại mặt trận Lào. Tại Pháp, kiều bào ta đã tích cực tham gia phục vụ, bảo
vệ Phái đồn Chính phủ Việt Nam sang đàm phán tại Hội nghị Phông-ten-nơblô (Fontainebleau), vận động dư luận và nhân dân Pháp ủng hộ nền độc lập
của Việt Nam. Một số trí thức kiều bào theo lời kêu gọi của Bác Hồ đã sẵn sàng
từ bỏ cuộc sống sung túc ở Pháp về nước tham gia kháng chiến như Trần Đại
Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ...
Từ năm 1954 đến năm 1975, nhiệm vụ trọng tâm của công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài là vận động kiều bào tham gia công cuộc xây dựng
miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngay sau khi
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cùng với đồng bào trong nước, kiều bào ta ở
nước ngồi tích cực tham gia các phong trào đấu tranh đòi thi hành nghiêm
chỉnh Hiệp định dưới các hình thức mít tinh, lấy chữ ký vận động nhân dân và
dư luận sở tại, chống đàn áp những người kháng chiến... Nhiều trí thức và kiều
bào đã tình nguyện hồi hương, đem kiến thức và tài sản tích lũy được góp phần
xây dựng và đấu tranh thống nhất đất nước.
Năm 1954, sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, để đáp ứng nguyện vọng
của kiều bào là được trở về quê hương xây dựng đất nước, tháng 11-1959, Ban
Việt kiều Trung ương đã được thành lập (tiền thân của ủy ban Nhà nước về
người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay) với nhiệm vụ giúp Chính phủ chỉ đạo
cơng tác hồi hương của Việt kiều, chủ yếu từ Thái Lan, Tân Đảo, Tân Thế giới,
đồng thời vận động, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của bà con ta sinh sống ở nước
ngoài. Ngày 10-1-1960, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống tận cảng Hải
Phịng để trực tiếp đón chuyến tàu đầu tiên đưa những người con xa xứ trở về
Đất Mẹ, thể hiện tình cảm và sự trân trọng của Người cũng như của Đảng và
Chính phủ đối với những người Việt sống xa quê hương bao năm qua. Từ giữa
những năm 60, cùng với nhân dân cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài đã đẩy

mạnh các hoạt động yêu nước, trong đó có phong trào phản đối chiến tranh,

12


nòng cốt là lực lượng cốt cán, sinh viên du học tại các nước tư bản phát triển.
Kiều bào ở nước ngồi cũng là lực lượng nịng cốt vận động nhân dân và chính
giới các nước, hình thành mặt trận nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ Việt
Nam, đấu tranh chống đế quốc Mỹ.
Từ sau năm 1975, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục
được thúc đẩy, có những bước chuyển tích cực trong bối cảnh và tình hình mới,
với nhiệm vụ đồn kết người Việt Nam ở nước ngồi vì mục tiêu xây dựng cộng
đồng và phát triển đất nước. Trong giai đoạn này, đất nước ta gặp rất nhiều khó
khăn do bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây cấm vận, Ban Việt kiều Trung ương
đã tích cực vận động kiều bào giúp thân nhân trong nước thông qua việc gửi
kiều hối, hàng hóa... Những đóng góp này rất có ý nghĩa trong lúc nền kinh tế
đất nước cịn khó khăn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, công tác về người Việt Nam ở nước ngồi có
những bước ngoặt quan trọng. Cơng cuộc đổi mới từ sau Đại hội VI của Đảng
(năm 1986) thu được những thành quả to lớn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác về người Việt Nam ở nước ngoài.
Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết toàn
dân tộc, với mục tiêu giúp cộng đồng ổn định, phát triển, hội nhập vào xã hội sở
tại và hướng về Tổ quốc, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi ln tập
trung vào hai nhiệm vụ trọng tâm và có mối liên hệ khăng khít, hỗ trợ cho nhau,
đó là tham mưu xây dựng và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Trong tham mưu xây dựng chủ trương, chính sách, đổi mới quan trọng hàng
đầu là việc Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần đầu tiên ban hành
một Nghị quyết riêng về cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi (Nghị

quyết số 08-NQ/TW ngày 29-11-1993) và lần đầu tiên ban hành một Nghị quyết
công khai về công tác này (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26-3-2004). Nghị
quyết số 36-NQ/TW là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử, có giá trị cơ bản, to lớn,
toàn diện và lâu dài, thể hiện sâu sắc tư duy đổi mới của Đảng ta về cơng tác
này. Quan điểm “Người Việt Nam ở nước ngồi là bộ phận không tách rời và là
một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần

13


tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước” được phản ánh
rõ nét trong Nghị quyết, trở thành nhận thức chung của tất cả các cơ quan trong
hệ thống chính trị và của tồn dân. Tiếp theo đó, Chính phủ, Bộ Ngoại giao và
nhiều bộ, ngành, địa phương khác đã đề ra Chương trình hành động của mình để
triển khai, khẩn trương đưa Nghị quyết vào cuộc sống và tạo nên xung lực quan
trọng trong việc gắn kết hoạt động của các cơ quan chức năng với công tác vận
động kiều bào.
Sau gần 13 năm thực hiện Nghị quyết, công tác về người Việt Nam ở nước
ngồi đã có những đột phá mạnh mẽ và tồn diện trên tất cả các mặt. Nhiều chủ
trương, chính sách đã được ban hành theo hướng tạo điều kiện ngày càng thuận
lợi hơn cho người Việt Nam ở nước ngoài trên các lĩnh vực: xuất nhập cảnh, cư
trú, hồi hương, quốc tịch, hộ tịch, về đầu tư kinh doanh; về quyền được mua và
sở hữu nhà ở tại Việt Nam... Một loạt chính sách đã được ban hành gần đây, như:
Quy chế miễn thị thực cho người Việt Nam ở nước ngoài (tháng 9-2007), Luật
Quốc tịch sửa đổi tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngồi có thể giữ
quốc tịch Việt Nam trong khi mang quốc tịch nước khác (tháng 11-2008), Luật
sửa đổi điều 121 Luật Đất đai và điều 126 Luật Nhà ở mở rộng thêm đối tượng
và quyền cho kiều bào được mua và sở hữu nhà ở trong nước (tháng 6-2009)...
Các hoạt động tập hợp, vận động, gắn kết kiều bào ở trong và ngồi nước
ngày càng có nội dung phong phú và hình thức đa dạng hơn như tổ chức các

đoàn kiều bào tiêu biểu về thăm đất nước dịp Quốc khánh, Quốc giỗ Vua Hùng,
trại hè cho thanh niên, sinh viên kiều bào... Nổi bật trong các hoạt động vừa qua
là Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất được ủy ban Nhà nước về
người Việt Nam ở nước ngoài - Bộ Ngoại giao tổ chức tháng 11-2009 với sự
tham dự của gần 1.000 đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp và thế hệ kiều bào ở
khắp nơi trên thế giới và gần 500 đại diện lãnh đạo của các bộ, ban, ngành, đoàn
thể ở trung ương và 51 tỉnh thành trong cả nước. Tại Hội nghị, các đại biểu đã
cùng trao đổi, thảo luận, đóng góp ý kiến để Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn
thiện hệ thống chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngồi và tìm ra các
giải pháp thiết thực để hỗ trợ cộng đồng lớn mạnh, hội nhập vững chắc vào xã
hội sở tại, đồng thời phát huy cao nhất mọi nguồn lực của cộng đồng góp phần
vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

14


Với số lượng gần 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống, lao động, học tập tại
102 nước và vùng lãnh thổ, cộng đồng này đang ngày càng tăng về số lượng, đa
dạng về thành phần và có tiềm lực đáng kể về tri thức và kinh tế. Ước tính có
gần 400.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và cơng nhân kỹ thuật bậc
cao, có kiến thức cập nhật về khoa học - công nghệ tiên tiến, về quản lý kinh tế...
Trong đó, nhiều người đang làm việc ở những vị trí quan trọng tại các viện
nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, tập đoàn lớn của các nước và tổ chức
quốc tế. Hằng năm, có gần 300 lượt chuyên gia, trí thức kiều bào về nước tham
gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tích cực đóng vai
trị làm cầu nối quan trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế giữa các cơ sở đào
tạo trong nước và nước ngồi. Hiện có hơn 25.000 doanh nghiệp của Việt kiều
đang đầu tư về Việt Nam với khoảng 3.000 dự án có tổng số vốn khoảng 2 tỉ
USD. Lượng kiều hối chính thức gửi về nước ngày càng tăng, tính riêng năm
2008 đạt 7,4 tỉ USD. Bên cạnh việc đem cơng sức, trí tuệ, tài chính đóng góp xây

dựng q hương, đất nước, bà con cịn tích cực tham gia các hoạt động từ thiện,
nhân đạo, giúp đỡ đồng bào trong nước, vận động các cá nhân, tổ chức của nước
sở tại hỗ trợ cho các dự án xã hội ở Việt Nam như xóa đói, giảm nghèo, y tế,
giáo dục... Đây thực sự là nguồn lực quý báu góp phần quan trọng vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, được Đảng và Nhà nước trân trọng.
2.

Các nhiệm vụ trọng tâm trong cơng tác đối với người Việt Nam ở

nước ngồi hiện nay
Cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi được Đảng và Nhà nước ta
xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, nhằm phát huy sức mạnh đại
đồn kết tồn dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời gian
tới, để tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị, cơng
tác về người Việt Nam ở nước ngoài cần tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm
sau:
Một là, tiếp tục quán triệt nội dung và tinh thần Nghị quyết số 36 về công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngồi và Chương trình hành động của Chính phủ,
các cấp, các ngành, các địa phương cần nâng cao nhận thức, xác định công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của chính mình.

15


Hai là, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất việc bổ sung, sửa đổi hoặc xây dựng mới các
chính sách nhằm đáp ứng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng của người
Việt Nam ở nước ngoài trong mối quan hệ với đất nước và thực hiện tốt các
chính sách trên.
Ba là, đổi mới và đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp kiều bào hướng
tới mục tiêu xây dựng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đoàn kết, hội

nhập thành cơng, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam và hướng về Tổ quốc.
Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi và tranh thủ cao nhất nguồn lực của người Việt
Nam ở nước ngoài về kinh tế, tri thức, cơng nghệ... đóng góp cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Năm là, củng cố và hồn thiện bộ máy tổ chức, nhân sự làm công tác về người
Việt Nam ở nước ngoài, nhân tố chủ quan, có ảnh hưởng quyết định tới kết quả
cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
III. ĐỊNH HƯỚNG CHIỂN LƯỢC NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Qua mỗi chặng đường cách mạng, xuất phát từ những yêu cầu, nhiệm vụ
cụ thể của từng giai đoạn, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương,
chính sách, nội dung và phương thức khác nhau trong công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, quan điểm chính trị - tư tưởng xuyên suốt,
đồng thời cũng là tình cảm của Đảng, Nhà nước và tồn thể nhân dân ở trong
nước đối với đồng bào ta đã và đang sinh sống ở bên ngoài Tổ quốc là nhất
quán, bất biến. Từ Nghị quyết 08-NQ/TƯ của Bộ Chính trị năm 1993 (khơng
cơng khai) đến Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 26/3/2004 về
cơng tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và Chỉ thị số 45CT/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về cơng tác đối với người
Việt Nam ở nước ngồi trong tình hình mới ln xác định: “Người Việt Nam ở
nước ngồi là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng
dân tộc Việt Nam”5. Tinh thần và quan điểm đó mang tính nhân văn, nhân đạo
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 26/3/2004 về Cơng tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài.
5

16



sâu sắc, là sự kế thừa truyền thống đại đoàn kết và thống nhất toàn dân tộc đã
được hun đúc qua hàng ngàn năm của tổ tiên chúng ta, đồng thời phản ánh đúng
sự thật lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài - một bộ phận không tách rời, là “máu thịt của dân tộc Việt Nam”6.
Hiện nay, với những thành quả quan trọng đạt được trong công cuộc đổi
mới và triển khai chiến lược phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc
biệt là thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về cơng tác với người Việt Nam
ở nước ngoài, đồng thời do đời sống của đồng bào ngày càng ổn định và nâng
cao, xu hướng trở về nguồn và gắn bó với quê hương, đất nước của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được thể hiện rõ. Tuy vậy, vẫn cịn một
số ít người Việt Nam ở nước ngoài cư trú bất hợp pháp, đã vi phạm pháp luật
của nước sở tại, ít nhiều ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước, con người Việt
Nam và quan hệ hữu nghị giữa các nước với Việt Nam. Điều nguy hại hơn là
hiện nay vẫn cịn một số ít người Việt Nam ở nước ngồi do thiếu hiểu biết, mặc
cảm, mắc mưu lợi dụng của các thế lực thù địch đã đi ngược lại lợi ích chung
của dân tộc, chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trên tinh thần đó, các
chủ trương, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần được hoạch
định trên cơ sở chiến lược, toàn diện, lâu dài, khả thi và đạt hiệu quả cao, theo
định hướng sau:
Một là, thúc đẩy và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi phát
triển ổn định, có quy chế pháp lý rõ ràng về cư trú và hoạt động sản xuất, kinh
doanh, có cuộc sống ấm no và thành đạt về mọi mặt, hoà nhập ngày càng sâu
rộng vào xã hội nơi cư trú.
Hai là, khuyến khích và thúc đẩy toàn thể người Việt Nam ở nước ngoài
hướng tới xây đựng cộng đồng mạnh về chính trị, phồn thịnh về kinh tế, phát
triển về tri thức và văn hoá, ln gắn bó đồn kết, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa, ngơn ngữ và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngồi gắn bó
chặt chẽ với q hương, Tổ quốc, đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước trong giai đoạn phát triển mới.

Bốn là, xây dựng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi đóng vai trỏ là
cầu nối thúc đẩy quan hệ hồ bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa Việt
Nam với các nước trên thế giới, đặc biệt với nước cư trú, đồng thời tham gia đấu
Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại cuộc gặp mặt kiều bào Xuân Bính Thân 2016.

6

17


tranh, ngăn chặn và cô lập các hoạt động chống phá đất nước của bọn phản động
cực đoan.
Hiện nay, Việt Nam đã bước sang giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và
toàn diện, việc tổ chức và tranh thủ mạng lưới người Việt trên tồn thế giới với
vai trị cầu nối quan trọng giữa Việt Nam với các nước là một trong những trọng
tâm của công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian tới. Để đạt
được mục tiêu đó, cần phải triển khai xây dựng và củng cố mạng lưới kiều bào,
hướng dẫn họ tham gia triển khai chiến lược hội nhập quốc tế, đặc biệt là chiếm
lĩnh thị trường, thu hút đầu tư, học tập kinh nghiệm quản lý và tri thức tiên tiến,
quảng bá nền văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời góp phần đấu tranh, ngăn
chặn, cơ lập và vơ hiệu hoá các hoạt động chống phá đất nước của lực lượng
phản động trong cộng đồng.
IV. MỘT SỔ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI HIỆN NAY
Sự phát triển của cộng đồng và những yêu cầu, nhiệm vụ mới của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc địi hỏi cơng tác đối với người Việt Nam ở
nước ngoài cần được tiếp tục triển khai mạnh mẽ, hỗ trợ cho người Việt Nam ở
nước ngoài phát triến ổn định; tạo thành cộng đồng vững mạnh, có địa vị và uy
tín cao trong xã hội các nước; tham gia đóng góp vào việc phát huy uy tín và ảnh
hưởng của nền văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần tích cực vào

phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, trong suốt hơn bảy mươi năm qua những chủ trương
lớn của Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị vẫn là định hướng cơ bản chỉ
đạo công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và cần tiếp tục được quán
triệt đầy đủ, sâu rộng và triển khai thực hiện nghiêm túc. Trước yêu cầu của tình
hình mới, phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế, yếu
kém sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, công tác đối với NVNONN
trong thời gian tới cần được tiếp tục triển khai toàn diện, mạnh mẽ hơn nữa theo
09 nhóm giải pháp trọng tâm sau đây:
3.1. Nhóm giải pháp về tăng cường sự thống nhất nhận thức về công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngồi
Mục tiêu của nhóm giải pháp này là phải tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ

18


và căn bản hơn nữa tiến tới thống nhất trong nhận thức của các cơ quan, đơn vị
trong hệ thống chính trị về vị trí, vai trị, tầm quan trọng, mục tiêu, những yêu
cầu, nội dung, các nhiệm vụ chủ yếu của công tác đối với NVNONN nhằm hỗ
trợ, xây dựng cộng đồng NVNONN đoàn kết, vững mạnh, hội nhập sở tại và
hướng về đất nước. Muốn vậy, cần tập trung đẩy mạnh công tác thông tin tuyên
truyền về các nội dung, quan điểm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị
quyết số 36 và Chỉ thị số 45 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của
Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh công tác đối với NVNONN giai đoạn 2016 2020 với những hình thức đa dạng, phù hợp. Ủy ban Nhà nước về NVNONN
cần tổ chức các hội nghị ở từng vùng miền khác nhau để tăng cường quán triệt
đến các cấp thực hiện, làm sao để tinh thần quan điểm, chủ trương của đảng liên
quan đến NVNONN thực sự thấm sâu vào đời sống xã hội trong nước cũng như
trong cộng đồng NVNONN.
Công tác đối với NVNONN được xác định là một trong bốn nhiệm vụ

trọng tâm của ngành. Ngoại giao, vì vậy các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài cần tăng cường công tác này, đặc biệt là ở những địa bàn có đơng người
Việt Nam sinh sống, cần có chương trình cơng tác cụ thể, phân cơng một tổ cơng
tác và cán bộ chuyên trách. Các cán bộ sắp đi luân chuyển cần được tập huấn kỹ
về nội dung công tác này.
3.2. Nhóm giải pháp về tiếp tục quán triệt sâu rộng, thực hiện đầy đủ, hiệu
quả chủ trương đại đồn kết, hịa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Để đạt được mục tiêu này, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
hiện nay và những năm tiếp theo vẫn là tiếp tục triển khai nhóm giải pháp nhằm
thực hiện một sự hịa hợp đại đồn kết dân tộc thực sự. Đây là công việc không
đơn giản, do trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vẫn cịn một bộ
phận tiếp tục ni dưỡng thù hận, tìm cách chống phá đất nước, tâm lý mặc cảm
quá khứ chưa được xóa bỏ. Do đó:
- Cần kiên quyết xóa bỏ tư tưởng thành kiến, hẹp hịi đối với kiều bào trong tất
cả các cấp, các ngành; cần quán triệt trong tồn hệ thống chính trị quan điểm coi
kiều bào là bộ phận máu thịt của dân tộc, là đối tượng vận động đặc biệt. Có xác
định rõ quan điểm đó, mới có thể thống nhất hành động trong tồn bộ hệ thống
chính trị, từ đó tạo được lịng tin cho đồng bào yên tâm hướng về Tổ quốc, được
hưởng những lợi ích từ q hương và cũng góp phần cống hỉến sức lực, trí tuệ

19


cho quê hương đất nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phân hóa các phần tử cực đoan, cảm hóa và lơi
kéo những cá nhân có ảnh hưởng trong cộng đồng, các phương tiện truyền
thông, số cựu quân nhân, quan chức chính quyền Sài Gịn... thơng qua những
chương trình, sự kiện dành cho kiều bào, đặc biệt phát huy tác động tích cực của
các đồn kiều bào đi thăm Trường Sa để khơi dậy tinh thần yêu nước của người
Việt Nam ở nước ngồi.

- Quan tâm tìm kiếm, sớm giải quyết các vấn đề do lịch sử để lại trên tinh thần
cởi mở, chân thành, rộng lượng, khoan dung. Tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa
cho kiều bào tìm kiếm, cải táng hài cốt người thân là bính lính chế độ cũ chết
trận, những người chết trong thời gian học tập cải tạo.
3.3. Nhóm giải pháp về hồn thiện cơ chế chính sách, đổi mới cơng tác huy
động nguồn lực của trí thức, doanh nhân Việt Nam ở nước ngồi.
- Khẩn trương rà soát các văn bản pháp luật, đề án hiện có về cơng tác vận động
trí thức kiều bào; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan nhằm xây
dựng cơ chế đồng bộ với đầu mối thống nhất. Nghiên cứu nhân rộng một số mơ
hình thành cơng bước đầu trong việc tập hợp, thu hút trí thức kiều bào trong thời
gian qua.
- Nghiên cứu, đề xuất việc sử dụng rộng rãi hơn nữa người Việt Nam ở nước
ngồi trong các lĩnh vực mà đất nước có nhu cầu chuyên gia hoặc cán bộ quản
lý. Xây dựng cơ chế, mạng lưới tập hợp, giải quyết, phản hồi các ý kiến đóng
góp của chun gia, trí thức kiều bào.
- Tập trung khai thác thế mạnh của trí thức kiều bào thơng qua vai trị làm cầu
nối giới thiệu hợp tác, chuyển giao cơng nghệ của nước ngồi, hỗ trợ du học
sinh, cán bộ của ta sang học tập, nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến
cơng tác quản lý, hướng dẫn du học sinh Việt Nam ở nước ngồi; khuyến khích
trí thức trẻ trở về phục vụ đất nước.
- Tạo hành lang pháp lý thuận lợi, đáng tin cậy hơn cho các dự án đầu tư của
kiều bào; nhanh chóng giải quyết những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng,
bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư kiều bào trong kiện tụng, tranh
chấp, thi hành án.
- Phát huy sức mạnh của lực lượng và mạng lưới doanh nhân người Việt, xây
dựng và củng cố các tổ chức, hội doanh nhân Việt Nam ờ nước ngoài làm đầu

20



tầu kết nối kinh tế Việt Nam với các nước, thu hút đầu tư, chuyển giao công
nghệ về nước; thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam ra nước ngồi.
3.4. Nhóm giải pháp về bồ sung, hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về
NVNONN
- Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan
đến NVNONN; đẩy mạnh cải cách hành chính, khẩn trương rà sốt, tháo gỡ
những vướng mắc trong các lĩnh vực liên quan đến lợi ích thiết thân của kiều bào
như quốc tịch, mua nhà, xuất nhập cảnh, đầu tư... để tạo điều kiện thuận lợi hơn
nữa cho kiều bào khi về nước sinh sống, làm ăn,
- Đầu tư cho công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về tình hình cộng đồng
NVNONN. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về NVNONN; nghiên cứu kinh
nghiệm công tác kiều dân của các nước và chính sách, pháp luật của nước sở tại
liên quan đến kiều bào, trên cơ sở đó kiến nghị những chính sách phù hợp.
3.5. Nhóm giải pháp về tiếp tục đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các hình
thức tập hợp, vận động kiều bào
- Tổ chức các hoạt động nhằm gắn kết kiều bào với quê hương, bao gồm những
hoạt động lớn gắn với các sự kiện chính trị xã hội quan trọng của đất nước, cũng
như những hoạt động phù hợp với từng nhóm đối tượng kiều bào; tổ chức lấy ý
kiến của kiều bào đóng góp cho các chủ trương, chính sách lớn và các vấn đề
quan trọng của đất nước.
- Xây dựng chiến lược đồng bộ củng cố, hỗ trợ các hội đồn, tăng cường tính
liên kết của các tổ chức, hội đồn NVNONN. Chú trọng xây dựng lực lượng
nịng cốt trong cộng đồng; tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, đề xuất
chính sách ưu đãi đối với cán bộ hội đoàn; xem xét hỗ trợ xây dựng trụ sở và
hoạt động của một số hội thuộc địa bàn khó khăn.
- Quan tâm giải quyết các kiến nghị về khen thưởng của kiều bào, kịp thời động
viên các cá nhân và hội có nhiều đóng góp; tiếp tục thực hiện chính sách khen
thưởng, đãi ngộ đối với kiều bào có thành tích trong hai cuộc kháng chiến (đặc
biệt ở các địa bàn Thái Lan, Campuchia, Lào).
3.6. Nhóm giải pháp về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tiếng Việt, hỗ trợ

cộng đồng giữ gìn văn hóa Việt Nam
- Rà soát, đánh giá kết quả các đề án dạy tiếng Việt đã triển khai; bổ sung, xây
dựng các chương trình mới trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm dạy và học tiếng Việt

21


của các hội và cộng đồng phù hợp với đặc thù và điều kiện của từng địa bàn; chú
trọng việc tận dụng công nghệ thông tin để nhiều người, đặc biệt là lớp trẻ, có
thể dễ dàng tiếp cận.
- Tăng cường hỗ trợ kiều bào giữ gìn văn hóa, truyền thống dân tộc. Đa dạng hóa
các hình thức hoạt động giao lưu văn hoá, nghệ thuật, hội thảo, hội chợ, triển
lãm về Việt Nam...; đầu tư phát huy hiệu quả các “Trung tâm văn hóa Việt Nam”
ở các địa bàn có đơng người Việt. Đặc biệt, khuyến khích tạo điều kiện cho các
hình thức tổ chức sinh hoạt, tập hợp của lớp trẻ, nhất là lực lượng thanh niên,
sinh viên, như Hội Thanh niên Việt Nam tại Pháp, Việt Unity tại Mỹ... củng cố
và mở rộng hoạt động.
- Chú ý phối hợp giải quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến nhu cầu về tâm
linh, tín ngưỡng, tơn giáo của cộng đồng trên cơ sở phù hợp luật pháp, phong
tục, tập quán của dân tộc và nước sở tại.
3.7. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh cơng tác thơng tin tuyên truyền đối ngoại
Tiếp tục triển khai những biện pháp tích cực, khai thác hiệu quả các cơ quan báo
chí, truyền thơng người Việt ở nước ngồi để đáp ứng nhu cầu của kiều bào và
yêu cầu về công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại của ta, từng bước chiếm
lĩnh mặt trận truyền thơng tiếng Việt ở ngồi nước.
- Tăng cường chất lượng các báo điện tử hiện có, hỗ trợ các báo này có chuyên
trang về người Việt Nam ở nước ngoài, dịch nội dung sang tiếng Anh, Pháp để
phục vụ độc giả người Việt và bạn bè quốc tế. Xuất bản hoặc phối hợp với Việt
kiều xuất bản tuần báo hoặc nhật báo tiếng Việt ở các nước, xây dựng thư viện
trên mạng.

- Tổ chức hoặc phối hợp tạo điều kiện giúp đỡ các tổ chức văn hóa nghệ thuật,
những cá nhân tổ chức các chương trình biểu diễn..., định kỳ đưa các nghệ sỹ
trong nước sang biểu diễn phục vụ cộng đồng và bạn bè quổc tế.
3.8. Nhóm giải pháp về ủng hộ và khuyến khích người Việt Nam ở nước
ngoài ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội nước sở tại
- Đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các Hiệp định và thỏa thuận song phương, đa
phương và tác động ở cấp cao trong quan hệ với các nước có đơng người Việt
nhằm hỗ trợ kiều bào ổn định cuộc sống nơi cư trú, đặc biệt là vấn đề địa vị pháp
lý. Tập trung quan tâm hỗ trợ các cộng đồng kiều bào gặp nhiều khó khăn như
Campuchia, một số nước Đơng Âu, châu Phi.

22


- Các Bộ, ngành liên quan phối hợp với các cơ quan chức năng của các nước sở
tại nghiên cứu, đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm chấn chỉnh công tác quản lý
lao động và du học sinh, nhận con ni và kết hơn với người nước ngồi; trấn áp
tội phạm, bảo đảm an ninh cộng đồng.
3.9. Nhóm giải pháp về kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự và ngân sách làm
công tác về NVNONN từ Trung ương đến địa phương và cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài
- Củng cố, kiện toàn bộ máy của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước
ngoài để xứng tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, thực hiện tốt chức
năng đầu mối tham mưu, chỉ đạo, phối hợp công tác về người Việt Nam ở nước
ngồi.
- Rà sốt, xây dựng và hồn thiện cơ chế phối hợp công tác đối với NVNONN
giữa các Bộ, ban, ngành; giữa trung ương với địa phương; giữa trong nước và
ngoài nước. Cần phát huy cao độ các cơ quan chuyên trách, gồm Ủy ban Nhà
nước về người Việt Nam ở nước ngồi, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Bộ Thông tin - Truyền thông, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội

liên quan.
- Nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách, bố trí đủ nhân sự và kinh phí cho
hoạt động vận động NVNONN tại các địa phương, Bộ, ban, ngành.
- Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn công tác đối với NVNONN cho
cán bộ các cơ quan trung ương và địa phương. Tăng cường cán bộ làm công tác
cộng đồng tại các cơ quan đại diện ngoại giao cả về số lượng và chất lượng.

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế sâu rộng, vấn đề phát huy vai trị và nguồn lực người Việt
Nam ở nước ngồi ngày càng có ý nghĩa hết sức quan trọng, ln được Đảng và
Nhà nước coi là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 36-NQ/TƯ ngày 26/3/2004 thể

23


hiện rõ quan điểm: “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và
là nguồn động lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp
phần tăng cường quan hệ, hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước”.
Để huy động được hết mọi tiềm năng của người Việt Nam ở nước ngồi,
Nghị quyết 36 cịn nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước mong muốn, khuyến khích
người Việt Nam ở nước ngồi hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp
nước sở tại; chăm lo xây dựng cuộc sống, làm ăn thành đạt, nâng cao tinh thần
tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống
dân tộc; đoàn kết, đùm bọc yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối quan hệ gắn
bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị
giữa nước bà con sinh sống với nước nhà; tùy theo khả năng và điều kiện của
mỗi người góp phần xây dựng quê hương đất nước, chủ động đấu tranh với các
biểu hiện cố tình đi ngược lại với lợi ích chung của dân tộc”.

Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách,
biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngồi gắn bó và đóng góp cho quê hương, đất nước như: ban hành quy chế miễn
thị thực cho kiều bào, quy định thơng thống về đầu tư, về quốc tịch, xuất nhập
cảnh, cư trú, mua nhà ở, đất ở tại Việt Nam với nhiều ưu đãi…
Những chính sách, biện pháp này được áp dụng cho tất cả những người
Việt Nam đang sinh sống ở nước ngồi, khơng phân biệt những người đã từng
cộng tác với chính quyền miền Nam Việt Nam trước đây. Vì vậy, nhiều người
Việt Nam ở nước ngoài đã về nước thăm quê hương, giao lưu, hợp tác, đầu tư
kinh doanh và hoạt động trong nhiều lĩnh vực, góp phần tích cực vào cơng cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.
Có thể nói, chính sách nhất qn của Đảng và Nhà nước ta là luôn coi
người Việt Nam định cư ở nước ngồi là bộ phận khơng tách rời của cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, lần đầu tiên chính sách đó được ghi rõ trong Hiến
pháp, được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6, đã tạo cơ sở pháp lý
vững chắc để tập hợp đồng bào, cả trong nước và nước ngoài, phát huy sức mạnh
của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Đó là các nội dung hết sức thiết thực, vừa thể hiện quan điểm nhất quán,
vừa là tấm lòng của người Việt Nam trong nước với người Việt Nam ở nước

24


ngoài. Để thực hiện hiệu quả các mục tiêu kể trên, rất cần sự chung sức, chung
lòng của cộng đồng người Việt Nam trong nước và ngoài nước. Tin tưởng rằng
khi tiềm lực của người Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng phát huy và cộng
hưởng, chắc chắn sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để đất nước phát triển bứt phá
mạnh mẽ về mọi mặt.

25



×