Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận môn xây dựng đảng NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG tác tổ CHỨC của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.98 KB, 33 trang )

1

MỤC LỤC

MỤC LỤC..............................................................................................................1
MỞ ĐẦU.................................................................Error! Bookmark not defined.
I. ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG..................4
1.1. Vị trí của Đảng cầm quyền..............................................................................4
1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam............................5
1.3. Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.............................................7
II. CƠ CHẾ ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN
LÀM CHỦ............................................................................................................8
2.1. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.....8
2.2. Đảng lãnh đạo - yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành cơ chế có hiệu
quả........................................................................................................................10
2.3. Nhà nước quản lý - yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công trong vận hành
cơ chế...................................................................................................................12
2.4. Nhân dân làm chủ - yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”..................................................................................13
2.4.1. Những vấn đề thực tiễn đặt ra về dân chủ cần nhận thức và giải quyết
.......................................................................................................................13
2.4.2. Quan điểm, nhận thức của Đảng ta về dân chủ...................................14
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN PHẢI
THỰC HIỆN ĐỂ BẢO ĐẢM CHO NHÀ NƯỚC PHÁT HUY TỐT VAI
TRÒ QUẢN LÝ, NHÂN DÂN THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ...............20


2

3.1. Để thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ, cần thống nhất nhận thức và hành động trong tồn hệ thống chính trị........21


3.2. Thể chế hoá bằng pháp luật mọi chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở
để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” 24
3.3. Tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp thể hiện quyền làm chủ trong hoạt
động của Đảng và Nhà nước................................................................................25
3.4. Xác định thật rõ những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng...........................................................26
3.5. Đổi mới và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.......................................26
KẾT LUẬN.........................................................................................................31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................33


3

MỞ ĐẦU
Trong suốt 85 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, trong đó có 70 năm cầm
quyền, Đảng ta đã gánh vác trọng trách lớn lao mà Nhân dân giao phó là vừa đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, vừa lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhất là 30 năm đổi mới toàn diện đất nước. Với vị thế là đảng
cầm quyền, Đảng ta đã thực sự xứng đáng là Người “đứng mũi chịu sào” trước
dân tộc. Tuy nhiên, từ thực tiễn cầm quyền vẫn đang đặt ra khơng ít vấn đề hết
sức cơ bản cả về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục phải làm rõ. Trong bối cảnh
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế
và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề đảng cầm quyền
càng cấp bách, đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu và kiến giải. Đảng khơng phải cơ
quan quyền lực nhà nước - điều đó đúng. Nhưng có quyền lực chính trị, quyền
lực tư tưởng chính trị, quyền lực tổ chức bộ máy và cán bộ, quyền lực về kiểm
tra, giám sát… đối với toàn bộ hệ thống chính trị. Đó là chức năng cầm quyền
của Đảng. Và, có thể nói, cơ chế cầm quyền của Đảng chính là sự vận hành và
phát triển khơng ngừng mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý Nhân dân làm chủ. Đảng có trách nhiệm lãnh đạo hoạt động của Nhà nước và hệ
thống chính trị sao cho hoạt động của các cơ quan này thực sự là vì Nhân dân, vì

mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng cầm
quyền nhưng không được bao biện, làm thay chức năng của Nhà nước? Lãnh đạo
Nhà nước không phải là đứng trên Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ
Đảng và Chính phủ là hai cơ quan có chức năng và nhiệm vụ khác nhau, phải có
sự phân cơng rành mạch, rõ ràng, song tất cả đều vì lợi ích của Nhân dân. Đảng
lãnh đạo Nhà nước và chịu trách nhiệm trước Nhân dân về mọi hoạt động của
Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, thông qua pháp


4

luật, và Đảng khơng thể đứng ngồi pháp luật. Đảng phải đặt lợi ích của nhân
dân của tổ quốc lên trên lợi ích của mình. Đảng và Nhà nước nước phải thực sự
coi trọng dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Muốn vậy phải tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.Trái nguyên tắc này, Đảng sẽ rất khó khăn và
có nguy cơ biến chất. Đây chính là những thách thức từ thực tiễn đang đặt ra với
Đảng cầm quyền, cũng là yêu cầu đổi mới trước hết trong nhận thức về đổi mới
và hoàn thiện cơ chế cầm quyền của Đảng ta hiện nay.
I. ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1.1. Vị trí của Đảng cầm quyền
Trong lãnh đạo, giai cấp nào cầm quyền cũng tổ chức ra hệ thống chính trị
để thơng qua đó thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp mình. Hệ thống chính
trị của chủ nghĩa xã hội là hệ thống công cụ mới do giai cấp công nhân cầm
quyền- thơng qua đội tiên phong chính trị là Đảng cộng sản- để thực hiện sự lãnh
đạo chính trị đối với toàn xã hội. Sự ra đời của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa trước hết là Nhà nước, khơng hề làm giảm vị trí của Đảng cộng sản- đội
tiên phong chính trị của giai cấp cơng nhân, đồng thời là lực lượng lãnh đạo toàn
xã hội. Vị trí của Đảng cộng sản khơng phải do ý muốn chủ quan, do sự áp đặt
của những người cộng sản mà đòi hỏi khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, giai cầp trung tâm của thời đại.

Thực tế cải tổ, cải cách, đổi mới ở nhiều nước trên thế giới đã xuất hiện
khuynh hướng cho rằng: cứ đẻ quá trình phát triển lịch sử tự nhiên quyết định số
phận của nhân loại đi lên chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, khơng cần có
Đảng cộng sản lãnh đạo cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được. Rõ ràng là
khuynh hướng này đã quay lưng với lịch sử. Khi mỗi chính Đảng ra đời thì nó
đều là lãnh tụ của một giai cấp nhất định. Trong mỗi thời đại ngày nay, tương


5

ứng với các hệ tư tưởng có các chính Đảng cơ bản, chính Đảng của giai cấp cơng
nhân và chính Đảng của giai cấp tư sản. Sự khác nhau là Đảng cộng sản- Đảng
của giai cấp công nhân nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của nền chun chính
vơ sản. Cịn Đảng tư sản thì nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của nền chuyên
chính tư sản.
Khi nhấn mạnh vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cách mạng
XHCN, cần chú ý rằng đây là vị trí của đội tiên phong chính trị chứ khơng phải
là của một tổ chức quyền lực đứng trên mọi tổ chức của xã hội. Trong điều kiện
Đảng cầm quyền, vị trí này càng đặc biệt quan trọng, vì khi đã có chính quyền
thì Đảng vừa là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, đồng thời đã trở
thành người lãnh đạo toàn xã hội. Đảng khong chỉ đại diện cho lợi ích của giai
cấp cơng nhân mà cịn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của toàn
dân tộc. Đao là sự thay đổi cơ bản về vị trí của Đảng cộng sản. Thay đổi đó chỉ
rõ trách nhiệm của Đảng không hề giảm đi mà trái lại càng tăng lên và nặng nề
hơn nhiều. Đảng không chỉ chịu trách nhiệm trước giai cấp công nhân mà từ nay
cịn chịu trách nhiệm hồn tồn trước vận mệnh của dân tộc.
1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam
Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam từ trước đến nay
về sau là một tất yếu lịch sử, Đảng ta ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lê Nin với phong trào yêu nước, đã thể hiện cả tính tất yếu kinh tế, cả tính

tất yếu chính trị ngay cả khi ra đời. Nhìn chung trong hơn 70 năm qua, cương
lĩnh, đường lối chính sách của Đảng về cơ bản phản ánh được ý chí, nguyện
vọng và những lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc,
đã không ngừng đưa cách mạng Việt Nam đi lên theo phương hướng gắn liền
độc lập dân tộc với CNXH. Thực tiễn đó của cách mạng Việt Nam đã gắn bó


6

Đảng ta với nhân dân ta bằng cả chiều dài và chiều sâu lịch sử, khơng có lực
lượng chính trị nào thay thế được. Nhân dân ta tự nguyện thừa nhận sự lãnh đạo
của Đảng ta rõ ràng không phẩi do sự áp đặt mà xét đến cùng là do tính tất yếu
khách quan của cách mạng nước ta. Vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta đối
với cách mạng Vjệt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH là vấn đề qui luật, là
vấn đề có tính nguyên tắc. Qua thực tiễn của cải tổ, cải cách, đổi mới, bài học
kinh nghiệm quan trọng đầu tiên của Đảng ta rút ra được là bài học về vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản cầm quyền. Mọi loại kẻ thù chống cộng, chống
CNXH trên thế giới và trong nước đều lợi dụng những sai lầm trong cải tổ, cải
cách, đổi mới của một số Đảng cộng sản để tập trung mũi nhọn đả kích, nhằm
xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng. Ở một số nước XHCN trước đây, Đảng cộng
sản, trước hết là những người lãnh đạo đã dao động, hữu khuynh, xét lại đi đến
phạm sai lầm về quan điểm, chủ trương trên vấn đề cải tổ, nên đã làm cho vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản bị suy yếu, khủng hoảng về kinh tế, xã hội, chính trị
nghiêm trọng, Đảng đã mất vai trị lãnh đạo, mất chính quyền, mất chủ nghĩa xã
hội. Đó là bài học lớn đòi hỏi các Đảng cộng sản cầm quyền phải suy nghẫm sâu
sắc.
Trong lịch sử, đa nguyên chính trị chỉ là hình thức, cịn thực chất đều là
nhất ngun chính trị. Do đó khơng phải là có đa ngun chính trị mới có dân
chủ.
Một Đảng lãnh đạo phải đề phịng, khắc phục độc đốn, chun quyền

nhưng khơng phải một Đảng lãnh đạo thì tất yếu là mất dân chủ. Chỉ cần Đảng
có nhận thức đúng về dân chủ XHCN, về thực chất của đổi mới hệ thống chính
trị là xây dựng và hồn thiện nền dân chủ XHCN, phân rõ được đúng chức năng
giữa Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là giữa Đảng với


7

nhà nước, có cơ chế và phương thức hoạt động khoa học thì vẫn thực hiện được
dân chủ với nhân dân lao động.
1.3. Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
Trong hệ thống chính trị của Việt Nam, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị. Quyền lực của nhân dân có được thực hiện hay khơng là một nội
dung cơ bản nói lên vai trị, uy tín và trình độ lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam được Hiến pháp thừa nhận là lực lượng lãnh
đạo nhà nước và xã hội là vì Đảng mang trong mình bản chất giai cấp cơng nhân
và đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời trước hết với tư cách là lãnh tụ
chính trị của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là
sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào yêu nước
và phong trào cách mạng. Đây chính là đặc thù riêng biệt của Đảng Cộng Sản
Việt Nam bởi khơng có một Đảng nào trên thế giới ra đời có sự kết hợp của ba
yếu tố trên. Nhìn nhận về lịch sử đấu tranh giành độc lập ta thấy muốn giải
phóng và xây dựng thành cơng XHCN, Đảng ta đồng thời phải giải phóng tồn
thể nhân dân lao động,…. Lợi ích của mọi tầng lớp cơ bản là thống nhất. Đảng
phải đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân
tộc, không chỉ là trước mắt mà cả về lâu dài. Đó khơng thể coi là sách lược mà là
mục đích và lý tưởng của Đảng. Khi giành được chính quyền lãnh đạo xây dựng
CNXH trách nhiệm của Đảng trước giai cấp và dân tộc càng tăng lên gấp bội.
Vai trị lãnh đạo và uy tín của Đảng phụ thuộc vào việc thực hiện trách nhiệm

nặng nề đó. Ngồi lợi ích đó ra, Đảng khơng có lợi ích nào khác. Qua đây ta thấy
được sự trong sạch của Đảng. Chính vì nói là làm được như vậy nên Đảng được
cả dân tộc và xã hội thừa nhận là lực lượng lãnh đạo duy nhất, đảm bảo cho sự
phát triển của xã hội.


8

II. CƠ CHẾ ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN
LÀM CHỦ
2.1. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ
Gần 30 năm thực hiện đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức sâu sắc hơn và từng bước thực
hiện được cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong thực
tiễn, thể hiện trên những mặt sau đây:
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta có điều kiện để nhận thức sâu sắc hơn và
triển khai thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ
trong thực tiễn.
Thứ nhất, Đảng ta nhận thức rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, vai trò của từng
chủ thể cấu thành cơ chế. Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghiã ở Việt
Nam là điều kiện khách quan để Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn và vận dụng
được cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trên thưc tế.
Nhân dân làm chủ, trước hết là làm chủ về chính trị, quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, quyền lực chính trị của Đảng, xét đến cùng cũng do nhân dân trao
cho. Do có quyền làm chủ về chính trị, nên có quyền làm chủ về kinh tế, văn hoá
- xã hội, và do đó làm chủ được bản thân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật là chức năng chủ yếu và tất yếu của nhà nước pháp quyền. Nhưng thẩm
quyền và phạm vi quản lý của Nhà nước được nhân dân trao cho và giới định bởi
Hiến pháp và pháp luật. Các cơ quan Nhà nước tuân thủ nguyên tắc: chỉ được

làm những gì pháp luật cho phép, nhân dân được làm tất cả những gì luật pháp
khơng cấm.
Đảng lãnh đạo chính trị là chức năng chủ yếu và cơ bản nhất của chính
đảng. Đảng Cộng sản Vệt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, được nhân dân lựa


9

chọn, uỷ quyền thiết lập và lãnh đạo bộ máy nhà nước phục vụ nhân dân, do vậy,
quyền lực chính trị của Đảng có được cũng là do nhân dân uỷ cho mà có. Đảng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chịu sự giám sát của nhân dân.
Thứ hai, hạt nhân kết nối các chủ thể Đảng, Nhà nước, nhân dân thành
mối quan hệ vững chắc, có tính ngun tắc chỉ đạo hoạt động thực tiễn là Đảng
Cộng sản Việt Nam, song cội nguồn sức mạnh để thực hiện nguyên tăc là quyền
làm chủ của nhân dân. Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng bảo đảm cho nhân dân,
trước hết là các giai cấp và tầng lớp những người lao động, thật sự phát huy
quyền làm chủ, đứng ở trung tâm các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội
của đất nước.
Thứ ba, quan điểm của Đảng về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ đã được Đảng ta cụ thể hoá trong Cương lĩnh, Điều lệ
và các qui chế, qui định hoạt động của Đảng; được Nhà nước kịp thời thể chế
hố thành luật pháp và chính sách để chỉ đạo, điều hành và thực hiện. Khẩu hiệu
dân biết, dần bàn, dân làm, dân kiểm tra đã đi vào đời sống thường ngày của các
cấp chính quyền và nhận thức của người dân.
Thứ tư, Đảng ta thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước và xã hội theo hướng xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ
của Đảng cầm quyền, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân. Làm cho mỗi chủ thể trong mối quan hệ đó thống nhất, đồng thuận
với nhau, nhưng khơng đồng nhất. Có thể nói xây dựng Đảng cầm quyền và xây
dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh chính là để phát huy quyền làm chủ của

nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.


10

Thứ năm, mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ có phạm vi tác động sâu, rộng đến tất cả các lực lượng xã hội. Tuy vậy, do ta
cịn thiếu những thiết chế chính trị - xã hội, những chính sách và pháp luật điều
chỉnh hoạt động của các lực lượng xã hội chịu sự tác động của mối quan hệ trên,
nên vẫn còn những hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự vận hành quan hệ đó trong
thực tiễn. Nhiều ý kiến cho rằng, đó chỉ là quan điểm chính trị, nêu khái quát
chức năng của ba chủ thể lớn nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay; quan điểm đó
nặng về tun truyền chính trị hơn là vận hành nó trong thực tiễn.
2.2. Đảng lãnh đạo - yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành cơ chế có
hiệu quả
Vai trị lãnh đạo của Đảng khơng tự nhiên mà có và khơng phải cứ tự nhận
mà được. Vai trị đó đã được thử thách, kiểm nghiệm trong đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhân dân Việt Nam thừa nhận, tin tưởng trao
cho Đảng vai trị lãnh đạo tồn xã hội và dân tộc. Tuy nhiên, hiện nay, Đảng
đang đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ phải vượt qua. Đảng ta là Đảng cầm
quyền; Đảng khơng chấp nhận đa ngun chính trị và đa đảng đối lập là quyết
định hoàn toàn đúng đắn. Để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng hoàn toàn phù
hợp yêu cầu của đất nước, cần có nhiều yếu tố, trong đó vai trị phản biện xã hội
là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, nếu khơng có sự phản biện xã hội sẽ dễ dẫn đến sự
chủ quan, duy ý chí; đường lối chính trị dễ bị sai lầm; hành động thực tế dễ bị
độc đoán, làm mất dân chủ trong xã hội và không bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân, không bảo đảm và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước.
Cùng với đó, Đảng phải phịng và chống nguy cơ thối hố, biến chất và chiến

lược “Diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch. Đại hội X của Đảng đã chỉ


11

rõ: “Thối hố, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ,
đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là
trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,
quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lịng tin của nhân
dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống cịn của Đảng,
của chế độ”3. Nói tham nhũng, lãng phí, quan liêu xảy ra nghiêm trọng; nhưng ai
là người tham nhũng? Chỉ có những người có chức, có quyền, những cán bộ,
đảng viên nắm trong tay của cải, tiền bạc của Nhà nước mới có khả năng tham
nhũng... Đảng ta đã nhận thức được vấn đề đó; bởi vậy, trong Báo cáo về công
tác xây dựng Đảng (của Đại hội X) Đảng ta đã nhận định: “vẫn cịn tình trạng
“chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp” 4. Đó là tình trạng đáng
báo động, ảnh hưởng trực tiếp đến sự lãnh đạo của Đảng. Nguy cơ Đảng bị suy
yếu cịn biểu hiện ở chỗ: có lúc, có nơi lịng tin của nhân dân đối với Đảng bị suy
giảm; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức Đảng và cơ quan Nhà
nước đang có biểu hiện lệch chuẩn...Sự lãnh đạo của Đảng hơn 84 năm qua đã
đảm bảo cho dân tộc ta giành được những thành tựu vô cùng to lớn; nhưng,
những thành tựu đó có thể khơng cịn ý nghĩa, nếu Đảng bị suy thối và khơng
cịn giữ được vai trị lãnh đạo đối với dân tộc; khi đó mọi thành quả cách mạng
mà Đảng và nhân dân ta đã giành được bằng bao xương, máu, mồ hôi và nước
mắt, phút chốc sẽ đổ xuống sơng, xuống biển; lúc đó, cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” cũng bị tiêu tan. Đây là lý do để khẳng
định: Đảng đóng vai trị tiên quyết cho sự tồn tại, vận hành có hiệu quả của cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.



12

2.3. Nhà nước quản lý - yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công trong vận
hành cơ chế
Nhà nước của chúng ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề đặt ra là, làm thế
nào để bảo đảm và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền? Về lý luận, trong nhà nước pháp quyền thì pháp
luật chiếm vị trí, vai trị tối thượng đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Ở
Việt Nam, do tính chất XHCN, Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì có
mâu thuẫn với nhà nước pháp quyền không? Câu trả lời là không! Bởi lẽ, bên
cạnh lãnh đạo đất nước thông qua cương lĩnh, chủ trương, đường lối; sự lãnh đạo
của Đảng đối với xã hội có nhiều nội dung được thể chế hố qua hoạt động của
Nhà nước. Trong công tác cán bộ, Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác
cán bộ của cả hệ thống chính trị. Điều đó là hồn tồn phù hợp; bởi vì, Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là hạt nhân, là cơ quan lãnh đạo của hệ
thống chính trị. Tuy nhiên, để hồn thành trọng trách đó, Đảng phải khơng ngừng
đổi mới phương thức lãnh đạo, vừa bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
vừa bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng chức năng của mình; trong đó,
mọi cơng dân, mọi tổ chức và bản thân Đảng phải hoạt động theo đúng khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật; Điều lệ, nghị quyết của Đảng phải đúng với Hiến
pháp và pháp luật.
Cơ chế là sự vận hành tổng hợp của các yếu tố trong một sự vật theo một
nguyên tắc nhất định, để sự vật đó tồn tại và phát triển đúng như bản chất vốn có
của nó. Sự vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ” là bảo đảm mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ XHCN, làm cho
mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân



13

2.4. Nhân dân làm chủ - yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”
2.4.1. Những vấn đề thực tiễn đặt ra về dân chủ cần nhận thức và giải quyết
Dân chủ là một trong những vấn đề mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch triệt để khai thác, sử dụng cho mục đích chống chủ nghĩa xã hội và phá
hoại các Đảng Cộng sản cầm quyền. Họ ra sức tuyên tryền, bôi nhọ và kết tội
chủ nghĩa xã hội là phản dân chủ, Đảng Cộng sản cầm quyền là độc đoán,
chuyên quyền, đi ngược lại xu thế chung của nhân loại. Trong gần 30 năm đổi
mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vừa qua, Đảng ta đã khẳng
định điều ngược lại sự bôi nhọ nói trên của các thế lực thù địch cả trên phương
diện lý luận và tổ chức thực tiễn việc xây dựng nền dân chủ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên những mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực
xây dựng là chế độ xã hội đang mang lại quyền làm chủ cho nhân dân lao động;
tuy vậy, một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân chưa thực sự được phát huy
quyền làm chủ của mình về chính trị. Họ cho rằng chúng ta đang nghiêng về xây
dựng chế độ “quan liêu” chứ chưa phải chế độ dân chủ, một chế độ mà làm nghề
gì cũng khơng bằng làm “quan”, người ta phải làm “quan” mới yên tâm và vinh
hạnh.
Thứ hai, quan điểm dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ
nghĩa xã hội đang chỉ đạo các cơ quan của Đảng và Nhà nước xây dựng chế độ
dân chủ cho nhân dân từ bên trên, chứ chưa phải nhân dân nỗ lực xây dựng chế
độ dân chủ cho mình. Lẽ thường, người ta chỉ q trọng những gì mình tự làm ra,
đã trải nghiệm khó khăn trong thực tiễn.


14


Thứ ba, phân hố giàu, nghèo, bất bình đẳng xã hội gia tăng đang làm lu
mờ những nỗ lực xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Những mục tiêu tốt
đẹp của chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, tồn dân ta hướng tới, trong đó có mục
tiêu về dân chủ, đang bị nhạo báng bởi các nhóm lợi ích và lợi ích nhóm. Dân
chủ về chính trị khơng cịn ý nghĩa tích cực nếu quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân không điều tiét được sự phân hố giàu, nghèo và bất bình đẳng xã hội,
khơng ngăn chặn hiệu quả sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích. Tệ hại hơn nữa khi
các nhóm lợi ích cấu kết với quan chức nhà nước chi phối chính trường, xâm hại
lợi ích chính đáng của nhân dân.
Thứ tư, giới hạn thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện chưa rõ,
vì cịn thiếu những qui định, chế tài cụ thể để thực hiện. Do thực hiện dân chủ
đại diện còn là chủ yếu trong bầu các cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan
quản lý của Nhà nước, nên mức độ trung gian uỷ quyền của người đảng viên và
người dân cho đại biểu còn lớn đến mức khơng thể kiểm sốt được những quyền
đã uỷ cho đại biểu của mình. Tính quan liêu trong bộ máy vì thế gia tăng khó
khắc phục.
Thứ năm, thầm quyền trách nhiệm của người đứng đầu trong quan hệ tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách chưa được minh định, nên việc thực hiện và phát
huy dân chủ trong tập thể các cơ quan lãnh đạo của Đảng và trong các cơ quan,
đơn vị Nhà nước phụ thuộc rất lớn vào vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu.
Điều này không phù hợp với chế độ dân chủ mà chúng ta luôn phấn đấu.
2.4.2. Quan điểm, nhận thức của Đảng ta về dân chủ
Lời nói đầu Hiến pháp 2013 thể hiện: "... Nhân dân Việt Nam xây dựng,
thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,


15

công bằng, văn minh" đã thể hiện rõ trách nhiệm của nhân dân trong việc xây
dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức" đã thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về đề cao quyền làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp là nhà nước của dân,
do dân và vì dân, đồng thời thể hiện đất nước Việt Nam là do chính nhân dân làm
chủ, nhân dân là chủ thể quan trọng trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Lần đầu
tiên Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân được viết hoa, đây không phải đơn thuần
là cách thể hiện từ ngữ mà là diễn đạt ý nghĩa của một chủ thể quan trọng của đất
nước theo tư tưởng của Bác Hồ. Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ,
Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân,
Cơng việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân,
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra,
Đồn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Chính vì lẽ đó mà từ Nhân dân được viết hoa là thể hiện đầy đủ và sâu sắc
tư tưởng của Bác Hồ về vai trò của Nhân dân. Khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm
2013 quy định:" Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục
vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân
về những quyết định của mình", đây là điểm bổ sung mới quan trọng, vì vai trị


16

làm chủ của Nhân dân đối với nước, Nhân dân giao phó trách nhiệm cho Đảng
để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vì vậy, Đảng phải chịu sự giám sát và chịu trách
nhiệm trước nhân dân trong việc lãnh đạo của mình.
Như vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội.

Chế độ xã hội chủ nghĩa, xét về bản chất chính trị - xã hội của nó, là chế độ xã
hội nhằm giải phóng con người khỏi áp bức giai cấp, giải phóng sức lao động,
tiến tới một xã hội mọi người cùng giàu có, tự do và bình đẳng; mỗi người dân
thực sự có quyền và được phát huy quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, vì
vậy dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì dân chủ là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, nên khi người dân được phát huy quyền làm chủ của mình trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố xã hội, họ sẽ sáng tạo nhiều hơn nữa những
giá trị mới cho xã hội, và do đó dân chủ là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Đảng ta khẳng định có những giá trị chung, đích thực về dân chủ; song
khơng có tiêu chí chung và phương thức duy nhất để thực hiện những giá trị ấy.
Dân chủ, theo nghĩa phổ quát nhất của khái niệm này, nhân dân là chủ nhân của
quyền lực nhà nước. Bộ máy nhà nước là công cụ do nhân dân lập ra để phục vụ
lợi ích của mình. Nhân dân, với tư cách là người làm chủ bộ máy nhà nước, bao
gồm nhiều tầng lớp và giai cấp xã hội khác nhau hợp thành, trong đó có những
giai cấp giữ vai trị đại diện và lãnh đạo.
Dưới chế độ xã hội theo định hướng tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản là
giai cấp đại diện và lãnh đạo xã hội. Dưới chế độ xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp đại diện và lãnh đạo. Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc
Việt Nam lãnh đạo, định hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo đó
các tầng lớp nhân dân có quyền xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước cộng hoà


17

xã hội chủ nghĩa Việt Nam để phục vụ quyền lợi của mình, thơng qua cơ chế dân
chủ trực tiếp và đại diện. Có nhiều con đường, phương thức để thực hiện dân
chủ, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Không thể lấy con đường,
phương thức thực hiện dân chủ của nước này làm tiêu chí đánh giá dân chủ ở
những nước khác, vì trình độ phát triển, điều kiện, đặc điểm mỗi nước là rất khác

nhau. Ở Việt Nam, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đối với bộ máy Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ yếu thông qua con đường bầu cử trực
tiếp và đại diện uỷ quyền cho những đại biểu của mình thực thi quyền lực nhà
nước; đồng thời nhân dân cũng thơng qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội để giám sát, phản biện việc thực thi quyền lực nhà nước của những đại
biểu do nhân dân uỷ quyền. Do đặc điểm chính trị Việt Nam qui định, xã hội Việt
Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất hoạt động. Đa số
dân chúng trong xã hội, bằng kinh nghiệm xương máu của mình, tin tưởng, tín
nhiệm lựa chọn và uỷ quyền cho các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam
thực thi quyền lực nhà nước để phục vụ lợi ích của mình, do vậy, Đảng trở thành
Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Không thể chỉ vì có một Đảng
duy nhất cầm quyền mà nói rằng ở Việt Nam khơng có dân chủ. Một đảng hay
nhiều đảng trong thực hiện chế độ dân chủ chỉ là các phương thức khác nhau để
thực hiện dân chủ, khơng thể coi thể chế chính trị có một hay nhiều đảng hoạt
động là tiêu chí để đánh giá trình độ dân chủ của một nước cao hay thấp, có dân
chủ hay khơng có dân chủ. Dân chủ khơng tách rời kỷ luật, kỷ cương; dân chủ
gắn với dân sinh, dân trí quyền làm chủ của nhân dân gắn với nghĩa vụ, trách
nhiệm thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Nhân dân là chủ nhân của quyền lực
nhà nước, điều này vừa là nguyên tắc lý luận vừa là thực tiễn vận hành chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhân dân thông qua cơ chế dân chủ trực
tiếp và đại diện của mình để lập ra bộ máy nhà nước, ban hành Hiến pháp và


18

pháp luật. Vì vậy, thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật là thực hiện
quyền làm chủ của người dân. Người dân vi phạm Hiến pháp và pháp luật là tự
phủ định quyền làm chủ của mình. Cơ quan nhà nước vi phạm Hiến pháp và
pháp luật là vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Bất kỳ người dân hay cơ quan
nhà nước nào vi phạm Hiến pháp và pháp luật, đều có thể coi là vi phạm quyền

dân chủ, do vậy phải được ngăn chặn và xử lý thích đáng với mức độ vi phạm.
Theo nghĩa như vậy thì, quyền làm chủ của nhân dân đối với bộ máy nhà nước
càng rộng rãi, thì nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân trong thực hiện Hiến
pháp và pháp luật càng phải cao. Nói cách khác dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ
cương Dân chủ gắn bó chặt chẽ với điều kiện dân sinh và dân trí. Việc mở rộng
dân chủ trong Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân về chính trị được giải
quyết đồng thời với nâng cao trình độ dân chí và cải thiện điều kiện dân sinh.
Chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng là chế
độ xã hội mang lại quyền làm chủ thực sự cho nhân dân lao động, vì chế độ đó
có khả năng giải quyết tận gốc rễ của vấn đề dân chủ. Do nhân dân có quyền làm
chủ về chính trị, nên có điều kiện để ra sức phát triển văn hố – giáo dục nhằm
nâng cao trình độ dân trí; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội để cải thiện điều
kiện dân sinh. Dân chủ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng,
khơng chỉ là dân chủ về chính trị, mà cịn là dân chủ về kinh tế, văn hoá và xã
hội
Tầm quan trọng đặc biệt của các yếu tố này biểu hiện ở chỗ: quyền lực
của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân dân. Trong lịch sử
Việt Nam và thế giới, đã có tư tưởng đặt lên hàng đầu vai trò của nhân dân trong
cấu tạo quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Trần Hưng Đạo (thế kỷ 13)
khẳng định: “khoan thư sức dân” là “kế sâu rễ bền gốc”. Nguyễn Trãi (thế kỷ 15)


19

cho rằng: chở thuyền và lật thuyền đều do dân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin khẳng định rõ: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh ln nhất qn quan điểm: cách mạng là sự nghiệp chung của cả
dân chúng Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam là do dân lập nên để phục vụ
nhân dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài về chức vụ Chủ tịch
của mình, Người khẳng định: “Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn công danh phú

quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tơi phải
gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước
mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tơi lui, thì tơi vui lịng lui”
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại, phát triển khơng vì mục đích tự
thân mà vì giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Điều này
được thể hiện rõ trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Tại Đại hội
X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc”2. Mục đích duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là
đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu
mạnh, đồng bào được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc. Theo đúng tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
cũng như các bản Hiến pháp sau này (1959, 1980, 1992), cấu tạo quyền lực Nhà
nước và xã hội của nước ta đều thể hiện rõ: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về
nhân dân. Nhờ vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy được sức mạnh của mọi
tầng lớp nhân dân để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do của
dân tộc và ngày nay đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, trong thực tế, có lúc, có nơi vai trị


20

làm chủ của nhân dân vẫn còn mờ nhạt. Việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng
chưa được nhiều, hiệu quả chưa cao, nhất là việc góp ý kiến, giám sát, kiểm định
đường lối, chủ trương của Đảng cũng như đối với cán bộ, đảng viên nơi công tác
và nơi cư trú. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp trong lựa chọn, bầu
đại biểu Quốc hội và Quốc hội cấu tạo các cơ quan Nhà nước để thay mặt
mình quản lý xã hội, mới chủ yếu thơng qua hiệp thương; trong thực tế ở một số
nơi, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm nghiêm trọng... Đây chính là

vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải nghiên cứu, giải quyết, nhằm phát huy
tốt hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CẦM QUYỀN PHẢI
THỰC HIỆN ĐỂ BẢO ĐẢM CHO NHÀ NƯỚC PHÁT HUY TỐT VAI
TRÒ QUẢN LÝ, NHÂN DÂN THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ
Để cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” vận
hành có hiệu quả, địi hỏi Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó chặt
chẽ với nhân dân. Nhân dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội nguồn
của mọi sức mạnh. Vì vậy, mọi biểu hiện xa dân, coi thường dân, ức hiếp dân,
gây phiền phức cho dân... đều là những biểu hiện của quá trình Đảng tự suy yếu,
làm lỏng lẻo, thậm chí phá vỡ cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Cùng với đó, Nhà nước phải làm tốt chức năng lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Trong xã hội hiện đại, Nhà nước còn làm các dịch vụ xã hội để
giữ ổn định chính trị-xã hội và làm cho xã hội phát triển bền vững. Đảng lãnh
đạo Nhà nước; đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt hầu hết là
đảng viên, đều chịu sự quản lý của các tổ chức Đảng tương ứng. Nhưng khơng vì
thế mà Nhà nước hoạt động một cách thụ động; Nhà nước mạnh thì Đảng cầm
quyền mới mạnh, và ngược lại; Nhà nước mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân


21

mới được bảo đảm và phát huy. Nhà nước và hoạt động của nó ngày càng nhận
được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân thì hiệu quả hoạt động càng cao, xã
hội càng thể hiện tính chất dân chủ...Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự
nghiệp CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN với nhiều thuận lợi và
cũng khơng ít khó khăn, thách thức. Để tiếp tục vận hành có hiệu quả cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng và Nhà nước cần
tập trung thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
3.1. Để thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm

chủ, cần thống nhất nhận thức và hành động trong tồn hệ thống chính
trị
Trong xã hội Việt Nam hiện đại, Đảng, Nhà nước và nhân dân được xem
như một cơ thể sống không thể phân chia. Đảng là tinh hoa trí tuệ của nhân dân
và dân tộc cơ đúc lại, do vậy có vai trị lãnh đạo và định hướng phát triển. Nhà
nước là kết tinh sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của nhân dân thể hiện ở trình
độ tổ chức và năng lực quản lý của bộ máy nhà nước. Nhân dân là tồn bộ cơ thể
sống đó. Tuy nhiên để thực hiện được cơ chế nói trên, mỗi chủ thể trong cơ chế
đó cần phải:
Thứ nhất, về phía Đảng lãnh đạo phải có những đổi mới căn bản về nhận thức và
hành động trong toàn Đảng về nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động cơ bản nhất của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ bản chất của
nó là nhằm để tập trung quyền lực chính trị, trên cơ sở uỷ quyền dân chủ. Ai tự
nguyện tham gia vào các đảng cộng sản, được tổ chức theo kiểu của V.I.Lênin, là
phải chấp nhận cuộc chơi chính trị: đảng viên uỷ quyền chính trị của mình cho
các đại biểu và cho các trung tâm lãnh đạo, đồng thời phải phục tùng các trung
tâm ấy. Hệ thống tổ chức của Đảng mà càng nhiều tầng nấc, thì tính đại diện


22

quyền lực càng cao và do đó, tính dân chủ càng thấp. Về bản chất là sự uỷ
quyền, song trên thực tế là cơ chế trao quyền về trung tâm, làm cho cấp dưới
phải phục tùng cấp trên (đúng ra là cấp lãnh đạo), người đảng viên khơng có
cách gì giám sát được quyền lực mình đã uỷ quyền cho người và tổ chức mà
mình đã tín nhiệm. Khi đã trao quyền, thì việc tiếm quyền là khơng thể tránh
khỏi, vì vậy tính dân chủ trong ngun tắc tập trung dân chủ chỉ là lý tưởng.
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền như Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay, hầu hết đảng viên nắm giữ những cương vị quan trọng nhất của bô máy
nhà nước, ẩn đằng sau người cấp uỷ viên, người đại diện quyền lực chính trị của

đảng viên, là người giữ cương vị trong bộ máy nhà nước, có quyền lực nhà nước,
quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước đều hiện diện ở một người. Đảng viên
liệu có thể giám sát hiệu quả được quyền mình đã uỷ cho những đảng viên này
mà không bị trả đũa không? Sự tiếm quyền của đảng viên trong Đảng và tiếm
quyền của nhân trong bộ máy Nhà nước ta ngày càng lớn và không giải quyết
được, nếu khơng có thay đổi trong nhận thức và cơ chế vận hành nguyên tắc tập
trung dân chủ trong bộ máy của Đảng và Nhà nước
Thứ hai, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức quyền lực
chính trị có tính lý tưởng, được vận dụng để tổ chức đảng tiền phong, chiến đấu,
với những địi hỏi tính tiền phong hết sức cao (những điều kiện lý tưởng). Song
nhà nước thì khơng nên tổ chức theo ngun tắc này. Nhà nước phải lấy nguyên
tắc thượng tôn pháp luật làm nguyên tắc cơ bản nhất. Không lẫn lộn nguyên tắc
theo đa số với nguyên tăc tập trung dân chủ. Hầu hết các nước văn minh đều
thực hiện nguyên tắc theo đa số, nhưng không theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ ba, nhân dân uỷ quyền cho các đại biểu của mình (hầu hết là đảng
viên của Đảng) nắm bộ máy nhà nước để phục vụ nhân dân, vậy cần phải đổi


23

mới công tác bầu cử và tiếp xúc cử tri của các đại biểu do dân bầu ra theo hướng:
đại biểu phải gắn với khu vực bầu cử, là những người do cử tri giới thiệu và biết
rõ về họ; khi được bầu phải hết sức phấn đấu cho lợi ích của nhân dân, trước hết
là cử tri nơi đã bầu ra mình. Sau bầu cử, cử tri tiếp tục giám sát hoạt động của
đại biểu, có cơ chế thực hiện bất tín nhiệm đối với đại biểu do mình bầu ra, nếu
thấy họ khơng cịn xứng đáng.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và xã hội theo hướng đổi mới công tác bầu cử, công tác cán bộ và công tác kiểm
tra, giám sát trong Đảng. Đảng có quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, vậy nhân
dân phải có quyền tham gia vào quá trình bầu ra cơ quan lãnh đạo của Đảng, bầu

ra người đứng đầu cấp uỷ đảng. Hãy để cho nhân dân hoặc đại diện của nhân dân
chọn vòng đầu những người lãnh đạo tương lai của của một cấp uỷ tương ứng
nào đó, vịng sau là vòng do đại biểu đảng viên bầu chọn ở đại hội. Công tác
nhân sự của Đảng về sau, cũng đều phải do đại diện của nhân dân bầu chọn vòng
đầu, nếu dân khơng chọn thì dù có xứng đáng, Đảng cũng không dùng.
Đối với công tác bầu cử, việc bầu ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng
cần tăng cường dân chủ trực tiếp hơn nữa để lựa chọn người thực sự xứng đáng
vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Cần tổ chức đại hội nhiêm kỳ các cấp theo
hai vòng, vòng thảo luận, quyết định văn kiện và vòng bầu ra ban chấp hành, ban
thường vụ và bí thư cấp uỷ. Việc bầu chọn bí thư cấp uỷ nên thực hiện đại hội
bầu và có tranh cử giữa hai ứng viên. Hạn chế tối đa việc bổ nhiệm bí thư cấp uỷ,
chỉ thực hiện bổ nhiệm trong hợp đặc biệt như: bí thư cấp uỷ đương nhiệm chết,
bị cách chức, hoặc ốm đau khơng cịn khả năng làm việc.
Về công tác cán bộ, việc phân công, bố trí cán bộ, cần giao cho bí thư cấp
uỷ đề xuất, giới thiệu trong số nhân sự đã trúng cử, đã qui hoạch, tập thể lãnh


24

đạo xem xét quyết định theo đa số tối đa (trên 2/3); nếu bí thư cấp uỷ đề xuất, tập
thể lãnh đạo khơng quyết định, thì bí thư cấp uỷ phải giới thiệu người khác,
nhưng không được giới thiệu quá ba lần. Bí thư cấp uỷ và tập thể quyết định đều
phải chịu trách nhiệm về bố trí cán bộ.
Về công tác kiểm tra, giám sát, cần đổi mới theo hướng: Đại hội các cấp
bầu ra uỷ ban kiểm tra đảng, và chỉ có uỷ ban kiểm tra đảng làm công tác kiểm
tra, giám sát đối với đảng viên. Uỷ ban kiểm tra có quyền kiểm tra và thi hành kỷ
luật tất cả các uỷ viên ban chấp hành, kể cả bí thư cấp uỷ, thực hiện nhiệm vụ
đảng viên, nhiệm vụ cấp uỷ viên cấp, kể cả nhiệm vụ cấp trên giao. Ban chấp
hành đảng bộ cấp trên có quyền kiểm tra ban chấp hành và uỷ ban kiểm tra cấp
dưới chấp hành cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, song khơng kiểm tra đảng viên. Uỷ ban kiểm tra và cấp uỷ cùng
cấp phối hợp với nhau thực hiện nghị quyết của đại hội nhiệm kỳ về công tác
kiểm tra, giám sát. Nếu có những vấn đề khơng thống nhất được, sẽ giao cho uỷ
ban kiểm tra cấp trên kết luận. Ở Cấp trung ương sẽ giao cho Đại hội Đảng toàn
quốc, hoặc giao cho Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng quyết định.
Những biện pháp nói trên là sự tổng kết những quan điểm, nhận thức, kinh
nghiệm và mong muốn của Đảng và toàn thể đảng viên về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng luôn xứng đáng là người
lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam.
3.2. Thể chế hoá bằng pháp luật mọi chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ
sở để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”
Hiến pháp năm 1992 đã xác định rõ: Đảng là thành viên và đồng thời là
hạt nhân của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và tồn xã hội;


25

Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật... Theo đó, trong
các văn bản quy phạm pháp luật, cần quy định rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm
vụ của Đảng cầm quyền cũng như của từng chức danh cán bộ của Đảng trong xã
hội. Điều này cũng phù hợp với việc Đảng đề ra Điều lệ và các quy định của tổ
chức đảng và mọi đảng viên; tất nhiên những quy định đó phải phù hợp với Hiến
pháp và pháp luật. Cùng với đó, Đảng cần phải làm tốt công tác quản lý tổ chức
Đảng và đảng viên; mọi đảng viên, bất kể giữ chức vụ, cương vị gì trong bộ máy
của hệ thống chính trị đều phải thực hiện nghiêm pháp luật. Chỉ có như vậy, mới
bảo đảm cho Đảng vừa không buông lỏng lãnh đạo, vừa không lạm quyền, bao
biện, làm thay chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị-xã hội khác.
3.3. Tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp thể hiện quyền làm chủ trong

hoạt động của Đảng và Nhà nước
Cương lĩnh năm 1991 nêu rõ: chúng ta xây dựng một “Xã hội do nhân dân
làm chủ”. Để thực hiện được điều đó, cần tạo ra nhiều “kênh” để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, như: góp ý vào các quyết sách của Đảng,
vào công tác cán bộ... Cùng với đó, Đảng cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của
nhân dân; qua đó, làm cho nhân dân ta giác ngộ hơn nữa về chính trị, phát huy
quyền làm chủ về chính trị của mình đối với các vấn đề trọng đại của đất nước.
Có thể thí điểm, dần dần và tiến tới đại trà, việc quy định để nhân dân trực tiếp
bầu các chức danh lãnh đạo của Nhà nước. Dân có quyền bãi miễn (theo thủ tục
đơn giản nhất) những đại biểu do mình bầu ra khi thấy đại biểu đó khơng cịn đủ
tư cách và khơng hồn thành nhiệm vụ. Đó cũng chính là cách thức để thực hiện
có hiệu quả phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát và
quản lý mọi hoạt động của xã hội.


×