Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận môn xây dựng đảng, NHỮNG NHẬN THỨC mới về ĐẢNG và xây DỰNG ĐẢNG CỘNG sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.65 KB, 38 trang )

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................4
I.TƯ TƯỞNG MÁC- ĂNGGHEN, LÊNIN, HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ TƯỞNG LÝ
LUẬN.....................................................................................................................5
I.1.Tư tưởng của C. Mác-Ph Ăng ghen.....................................................................................................5
Là những thiên tài sáng tạo vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và lao động quốc tế, C.
Mác, Ph. Ăng-ghen luôn hướng mọi hoạt động nghiên cứu khoa học của mình vào việc xây dựng
hệ thống lý luận sâu sắc về đời sống xã hội với 3 bộ phận cơ bản, là triết học mác-xít, kinh tế chính trị học mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết mới Mác –Ăng ghen ra đời đã kịp
thời giải đáp những câu hỏi lớn mà thời đại đặt ra nhưng chưa được giải đáp. Từ kết quả nghiên
cứu chung về lịch sử xã hội, các ông đã vận dụng vào khảo cứu xã hội tư bản để đi đến kết luận
về sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, gắn
với việc luận giải sâu sắc vai trị sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân chính là người đào hố
chơn chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi quốc gia, dân tộc và
toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp công nhân, nhân dân lao động được
giải phóng, vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. C. Mác và Ph. Ăng-ghen xuất phát từ những
phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư bản để đi đến kết luận: "Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối
lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp
khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại
là sản phẩm của bản thân nền đại cơng nghiệp"(1). Chính vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
càng hiện đại thì càng làm cho giai cấp cơng nhân có số lượng, chất lượng ngày càng cao với
những phẩm chất ưu việt, như tiên tiến nhất, ý thức tổ chức, kỷ luật cao nhất, ln có tinh thần
đồn kết, thống nhất và cách mạng triệt để nhất. Do có đầy đủ những phẩm chất ưu việt đó, giai
cấp cơng nhân đã trở thành giai cấp duy nhất trong xã hội tư bản có đủ khả năng đảm đương vai
trị sứ mệnh lịch sử vẻ vang là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản. C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã nhấn mạnh rằng, cùng với sự lớn mạnh của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, "giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó cịn tạo ra
những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô
sản"(2)..................................................................................................................................................5


Cả về lý luận và thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một giai cấp cách mạng muốn thực hiện được vai
trò lãnh đạo đối với tồn xã hội, phải thơng qua bộ phận “hạt nhân” lãnh đạo, “lãnh tụ” chính trị
của mình. Giai cấp công nhân muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, nhất thiết phải
tổ chức ra được chính đảng cộng sản thực sự là bộ phận tiên tiến, giác ngộ nhất, trung thành và


2

đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào đấu tranh của giai cấp, của dân tộc, có lý luận khoa
học dẫn đường. ...................................................................................................................................6
C. Mác, Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: "Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên
quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào
tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vơ sản"(3). Có lý luận tiền phong hướng dẫn, giai
cấp công nhân ở mỗi nước và trên thế giới đã từng bước đoàn kết lại, thông qua con đường cách
mạng để giành lấy chính quyền. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là có tính chất quốc tế,
nhưng giai cấp cơng nhân mỗi nước phải hoàn thành sự nghiệp cách mạng trước hết ở dân tộc
mình, "phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc, tuy hồn tồn khơng phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu"(4). Đó chính là
các nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động mỗi nước
phải thực hiện sau khi đã giành được chính quyền, từng bước xây dựng chế độ xã hội mới..........6
Đảng là hạt nhân lãnh đạo phong trào, các đảng cộng sản trên thế giới luôn kiên định mục tiêu, lý
tưởng cộng sản, ý thức sâu sắc địa vị, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và ln phấn
đấu hồn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. Đảng của giai cấp cơng nhân đóng vai trị chủ yếu
trong việc chuyển cuộc đấu tranh từ tự phát sang tự giác. Trong đó, lý luận cách mạng có tầm
quan trọng đặc biệt. Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng, chỉ khi đảng
có được lý luận tiền phong định hướng thì mới có thể làm trọn vai trị chiến sĩ tiền phong. "Tun
ngơn của Đảng Cộng sản" ra đời, giai cấp công nhân có cương lĩnh cách mạng đúng đắn, tập hợp
lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để giành các
quyền lợi cơ bản của mình. Sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thông

qua kết quả hoạt động của "Hội liên hiệp lao động quốc tế" - Quốc tế I (1861 - 1872); "Hội quốc
tế xã hội chủ nghĩa" - Quốc tế II với sự ra đời của các đảng dân chủ - xã hội ở các nước tư bản từ
sau những năm 1889 đã đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ngày càng tự
giác, gắn đấu tranh chính trị với đấu tranh kinh tế, đồng thời đấu tranh tư tưởng, lý luận ngày
càng phát triển theo chiều sâu. Chủ nghĩa cộng sản từ chỗ bị coi là "bóng ma cộng sản" ám ảnh
châu Âu, đến nay, đã trở thành hiện thực sinh động, khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới
của giai cấp công nhân đứng lên tự giải phóng mình và giải phóng tồn nhân loại, mở ra trang sử
mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quốc
tế. Công xã Pa-ri là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên, nổ ra ở Thủ đô Pa-ri, Pháp (ngày 18-3-1871),
mặc dù chỉ tồn tại 72 ngày nhưng được coi là bất diệt, bởi, đã góp phần làm sâu sắc lý luận về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân hiện đại. Có thể khẳng định, tư tưởng cơ bản của C. Mác-Ph
Ăng ghen về chính đảng độc lập của giai cấp vô sản là là kho tàng lý luận cơ bản nhất của C. MácPh Ăng ghen.........................................................................................................................................7


3

Do điều kiện lịch sử, C. Mác-Ph. Ăngghen chưa bàn nhiều về Đảng Cộng sản cầm quyền. Song,
qua một số tác phẩm, nhất là qua 72 ngày Công xã Pari,hai ông đã đưa ra những điều kiện để trở
thành đảng cầm quyền:.......................................................................................................................8
I.2.Tư tưởng của V.I Lê nin........................................................................................................................8
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và yêu cầu mới...........................................8
Lê nin kế thừa, phát triển những tư tưởng của C. Mác-Ph. Ăngghen về Đảng Cộng sản, ông đã
đưa ra các nguyên lý Đảng kiểu mới của Giai cấp công nhân.............................................................9
1.2.2. Những nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.........................................................9
Chủ nghĩa cơ hội là một trào lưu tư tưởng chính trị hình thành trong phong trào Cơng nhân có tổ
chức, thể hiện sự thích nghi với lợi ích của tầng lớp tiểu tư sản và bộ phận giai cấp cơng nhân đã
bị tư sản hóa. Đặc trưng của chủ nghĩa cơ hội thể hiện ở quan điểm tư tưởng chính trị mơ hồ,
khơng nhất qn, lu mờ tính giai cấp, tính Đảng và tính nguyên tắc về phong trào Cộng sản và
Công nhân quốc tế, về vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Nó cịn thể hiện ở chủ trương, đường lối đi tới sự từ bỏ cách

mạng xã hội chủ nghĩa, đặt lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động phụ thuộc vào lợi
ích của giai cấp phi vô sản (tiểu tư sản và tư sản)............................................................................16
Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đã trở thành một quy luật vận động và phát triển của phong
trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, đó là cuộc đấu tranh tất yếu để bảo vệ sự trong sáng, tính
cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác và để hiện thực hóa trong cuộc sống. Kế tục sự nghiệp
cách mạng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I Lênin đã có những cống hiến vĩ đại đối với phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ và phát triển thành công Chủ nghĩa Mác. Thắng lợi của
cuộc đấu tranh ấy có ý nghĩa to lớn đối với phong trào công nhân quốc tế và để lại nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hiện nay. Đặc biệt Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ln quan tâm và nhắc nhở đến việc
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cơ hội.....................................................................17
II.1.Tư tưởng của C. Mác-Ph Ăng ghen..................................................................................................17

KẾT LUẬN...........................................................................................................36


4

MỞ ĐẦU
Cơng tác tư tưởng của Đảng có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong
hoạt động lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng. Trên thực tế, hàng
ngày các tổ chức đảng và đảng viên đều phải làm công tác tư tưởng để thực hiện
sự lãnh đạo của mình, nhưng hiểu về cơng tác tư tưởng thì có thể cịn khác nhau.
Vì vậy, cần thống nhất quan niệm về công tác tư tưởng của Đảng để thuận lợi
cho công tác lãnh đạo và chỉ đạo, nghiên cứu và học tập.
Công tác tư tưởng của Đảng được hiểu là hoạt động lãnh đạo quan trọng
hàng đầu của Đảng trong việc xác lập và phát triển hệ tư tưởng của Đảng; nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm hình thành thế
giới quan, phương pháp nhận thức khoa học, hình thành tính tích cực chính trị

cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất tư tưởng trong
Đảng, sự đồng thuận xã hội; cổ vũ, động viên tinh thần sáng tạo cách mạng của
nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng; đấu tranh chống các
thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất nước, con người
Việt Nam ra cộng đồng quốc tế.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin khi xây dựng học thuyết,
truyền bá học thuyết của mình, tổ chức Đảng của giai cấp vô sản – nghĩa là tiến
hành công tác tư tưởng chuẩn bị cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã giải quyết
một loạt vấn đề lý luận của công tác tư tưởng như hệ tư tưởng, quá trình tư
tưởng, công tác tuyên truyền, cổ động.


5

I. TƯ TƯỞNG MÁC- ĂNGGHEN, LÊNIN, HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ
TƯỞNG LÝ LUẬN
I.1.

Tư tưởng của C. Mác-Ph Ăng ghen

Là những thiên tài sáng tạo vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và
lao động quốc tế, C. Mác, Ph. Ăng-ghen luôn hướng mọi hoạt động nghiên cứu
khoa học của mình vào việc xây dựng hệ thống lý luận sâu sắc về đời sống xã
hội với 3 bộ phận cơ bản, là triết học mác-xít, kinh tế - chính trị học mác-xít và
chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết mới Mác –Ăng ghen ra đời đã kịp thời
giải đáp những câu hỏi lớn mà thời đại đặt ra nhưng chưa được giải đáp. Từ kết
quả nghiên cứu chung về lịch sử xã hội, các ông đã vận dụng vào khảo cứu xã
hội tư bản để đi đến kết luận về sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và
thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, gắn với việc luận giải sâu sắc vai

trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân chính là người đào hố chôn chủ nghĩa
tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi quốc gia, dân tộc
và toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp công nhân, nhân
dân lao động được giải phóng, vươn lên làm chủ vận mệnh của mình.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen xuất phát từ những phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư
bản để đi đến kết luận: "Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp
tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp,
cịn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại cơng nghiệp"(1). Chính
vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng hiện đại thì càng làm cho giai cấp
cơng nhân có số lượng, chất lượng ngày càng cao với những phẩm chất ưu việt,
như tiên tiến nhất, ý thức tổ chức, kỷ luật cao nhất, luôn có tinh thần đồn kết,
thống nhất và cách mạng triệt để nhất. Do có đầy đủ những phẩm chất ưu việt


6

đó, giai cấp cơng nhân đã trở thành giai cấp duy nhất trong xã hội tư bản có đủ
khả năng đảm đương vai trò sứ mệnh lịch sử vẻ vang là tiêu diệt chủ nghĩa tư
bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã
nhấn mạnh rằng, cùng với sự lớn mạnh của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, "giai
cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó cịn tạo ra những
người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những cơng nhân hiện đại,
những người vô sản"(2).
Cả về lý luận và thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một giai cấp cách mạng muốn
thực hiện được vai trị lãnh đạo đối với tồn xã hội, phải thông qua bộ phận “hạt
nhân” lãnh đạo, “lãnh tụ” chính trị của mình. Giai cấp cơng nhân muốn thực hiện
sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, nhất thiết phải tổ chức ra được chính đảng
cộng sản thực sự là bộ phận tiên tiến, giác ngộ nhất, trung thành và đại biểu cho
lợi ích của tồn bộ phong trào đấu tranh của giai cấp, của dân tộc, có lý luận

khoa học dẫn đường.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: "Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng
sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn
lại của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vơ sản"(3). Có lý luận tiền phong hướng dẫn, giai cấp công
nhân ở mỗi nước và trên thế giới đã từng bước đoàn kết lại, thơng qua con đường
cách mạng để giành lấy chính quyền. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là
có tính chất quốc tế, nhưng giai cấp cơng nhân mỗi nước phải hoàn thành sự
nghiệp cách mạng trước hết ở dân tộc mình, "phải giành lấy chính quyền, phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hồn tồn
khơng phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu"(4). Đó chính là các nhiệm vụ


7

nặng nề nhưng rất vẻ vang mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động mỗi
nước phải thực hiện sau khi đã giành được chính quyền, từng bước xây dựng chế
độ xã hội mới.
Đảng là hạt nhân lãnh đạo phong trào, các đảng cộng sản trên thế giới luôn
kiên định mục tiêu, lý tưởng cộng sản, ý thức sâu sắc địa vị, vai trò sứ mệnh lịch
sử của giai cấp cơng nhân và ln phấn đấu hồn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang
đó. Đảng của giai cấp cơng nhân đóng vai trị chủ yếu trong việc chuyển cuộc
đấu tranh từ tự phát sang tự giác. Trong đó, lý luận cách mạng có tầm quan trọng
đặc biệt. Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng, chỉ
khi đảng có được lý luận tiền phong định hướng thì mới có thể làm trọn vai trị
chiến sĩ tiền phong. "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" ra đời, giai cấp cơng nhân
có cương lĩnh cách mạng đúng đắn, tập hợp lực lượng cách mạng trong cuộc đấu
tranh với giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để giành các quyền lợi cơ bản của
mình. Sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thông qua kết

quả hoạt động của "Hội liên hiệp lao động quốc tế" - Quốc tế I (1861 - 1872);
"Hội quốc tế xã hội chủ nghĩa" - Quốc tế II với sự ra đời của các đảng dân chủ xã hội ở các nước tư bản từ sau những năm 1889 đã đưa phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế phát triển ngày càng tự giác, gắn đấu tranh chính trị với đấu
tranh kinh tế, đồng thời đấu tranh tư tưởng, lý luận ngày càng phát triển theo
chiều sâu. Chủ nghĩa cộng sản từ chỗ bị coi là "bóng ma cộng sản" ám ảnh châu
Âu, đến nay, đã trở thành hiện thực sinh động, khẳng định sứ mệnh lịch sử tồn
thế giới của giai cấp cơng nhân đứng lên tự giải phóng mình và giải phóng tồn
nhân loại, mở ra trang sử mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng vĩ đại của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động quốc tế. Công xã Pa-ri là cuộc cách mạng
vô sản đầu tiên, nổ ra ở Thủ đô Pa-ri, Pháp (ngày 18-3-1871), mặc dù chỉ tồn tại


8

72 ngày nhưng được coi là bất diệt, bởi, đã góp phần làm sâu sắc lý luận về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân hiện đại. Có thể khẳng định, tư tưởng cơ
bản của C. Mác-Ph Ăng ghen về chính đảng độc lập của giai cấp vơ sản là là
kho tàng lý luận cơ bản nhất của C. Mác-Ph Ăng ghen.
Do điều kiện lịch sử, C. Mác-Ph. Ăngghen chưa bàn nhiều về Đảng Cộng
sản cầm quyền. Song, qua một số tác phẩm, nhất là qua 72 ngày Công xã
Pari,hai ông đã đưa ra những điều kiện để trở thành đảng cầm quyền:
+ Đảng phải tồn tại và hoạt động hợp pháp ở từng quốc gia riêng biệt.
+ Đảng đại diện cho giai cấp có cơ sở kinh tế - xã hội và được hình thành từ
trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc.
+ Đảng viên của đảng phải chiếm đa số ghế trong Quốc hội.
+ Đảng phải có chương trình hành động, vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp,
vừa thông nhất với lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa theo kịp xu thế của thời đại.
+ Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng cương lĩnh, tổ chức, thủ lĩnh
để bảo đảm tranh cử thắng lợi trong các cuộc bầu cử cơ quan nhà nước.
+ Đảng phải biết tập hợp quần chúng, vận động cử tri ủng hộ mình.

+ Đảng phải có chính sách đối ngoại phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc.

I.2.

Tư tưởng của V.I Lê nin

1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và yêu cầu mới.


9

Lê nin kế thừa, phát triển những tư tưởng của C. Mác-Ph. Ăngghen về Đảng
Cộng sản, ông đã đưa ra các nguyên lý Đảng kiểu mới của Giai cấp công nhân
- Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc – giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản bộc lộ hồn tồn sự phản
động của nó. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản, giữa giai
cấp tư sản với giai cấp tư sản, giữa giai cấp tư sản với nhân dân các nước thuộc
địa ... trở lên gay gắt.
- Thời cơ nổ ra cách mạng vô sản, giành chính quyền đã đến gần và chín
muồi, song các đảng của quốc tế thứ hai (sau khi Ph. Ăngghen mất) khơng đủ
sức mạnh, tư cách và uy tín lãnh đạo cách mạng vô sản.
- Yêu cầu cấp bách và nặng nề đặt ra là kế thừa, phát triển, sáng tạo những
tư tưởng của C. Mác-Ph. Ăngghen về Đảng Cộng sản xây dựng nên các nguyên
lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, và áp dụng vào thực tiễn dể xây dựng
đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng vơ sản giành thắng lợi.
- V.I Lênin đã hồn thành xuất sắc yêu cầu đó.
1.2.2. Những nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
+ Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng Cộng sản.
+ Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ

chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp cơng nhân.
+ Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chun
chính vơ sản (hệ thống chính trị) và là một bộ phận của hệ thống đó.


10

+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng.
+ Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tự phê bình
và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
+ Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa và
khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
+ Đảng phải tích cực kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động vào Đảng; kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn và
những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
+ Tính quốc tế của Đảng Cơng sản.
I.3.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh
Một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là tư

tưởng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản nhằm
ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với
thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn
luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập
9, tr. 292). Dù nói “đi đơi”, “gắn liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà
Người muốn nhấn mạnh là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn

thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn là lý
luận sng” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần


11

tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để khơng mắc
phải bệnh kinh nghiệm, cịn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực
tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều.
Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung
cho nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh
kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ
dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, khơng có lý luận thì trong hoạt động thực
tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm,
cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành cơng trong hoạt động thực tiễn. Nếu
khơng có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm
trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có khơng ít cán bộ, đảng
viên “chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan
trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm,
khơng hiểu rõ tồn cuộc của cách mạng” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247).
Những cán bộ ấy quên rằng, “kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua
là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thơi. Có kinh nghiệm mà
khơng có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ” (Hồ Chí Minh, 1995, tập
5, tr. 234). Thực chất là họ khơng hiểu vai trị của lý luận đối với thực tiễn. Theo
Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận “như cái
kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng
có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234

– 235). “Làm mà không có lý luận thì khơng khác gì đi mị trong đêm tối vừa
chậm chạp vừa hay vấp váp” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm


12

chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ
dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận,
khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do
đó cũng không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do
đó, khơng vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh. Nếu có vận dụng thì cũng khơng sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng ln nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải
kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc
phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, “Lý luận cũng
như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà
khơng bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như khơng có tên” (Hồ Chí Minh, 1995, tập
5, tr. 235). Như vậy cũng có nghĩa là lý luận sng, lý luận sách vở thuần túy.
“Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào
công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý
luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hịm đựng sách” (Hồ
Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234). Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải
xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý
luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ thực tiễn,
đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý
luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn – lý luận, lý luận
– thực tiễn ln hịa quyện, thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo
tiền đề cho nhau phát triển.
Hồ Chí Minh khơng để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất

giữa lý luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài viết, bài nói Người ln luôn đề cập


13

tới nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác
nhau nhằm giúp cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận
dụng. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là,
trong hoạt động cách mạng Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở,
gần gũi với nhân dân.
Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì một mặt, phải
ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận cũng như chun mơn nghiệp vụ. Mặt
khác, phải có phương pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, lý luận
phải liên hệ với thực tế. Nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì
đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết,
nhưng nếu cách học tập khơng đúng thì sẽ khơng có kết quả. Do đó, trong lúc
học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Điều quan trọng nữa theo Người là phải chống giáo
điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống Người ln phê phán
kiểu học học thuộc lịng chủ nghĩa Mác- Lênin, “học sách vở Mác – Lênin nhưng
không học tinh thần Mác – Lênin” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9 tr. 292). Đó là học
theo kiểu “mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn” (Hồ
Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập lập trường,
quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng lập trường,
quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong
công tác cách mạng của chúng ta” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 497). “Học tập



14

chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người
và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác
– Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để
mà làm” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ,
đảng viên “học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ khơng phải học lý
luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc
cả với Đảng” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498). Như vậy, học tập chủ nghĩa
Mác – Lênin khơng phải vì chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng khơng phải vì học tập
thuần túy, càng khơng phải học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc cả
với tổ chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự
Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải có thái độ
học tập đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu,
học tập chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn
giữ nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với chúng ta. Người cũng lưu ý rằng,
không nên coi chủ nghĩa Mác – Lênin là kinh thánh, là những cơng thức có sẵn,
cứng nhắc (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Có như vậy thì việc nghiên cứu,
học tập vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin mới có hiệu quả. Cùng với việc chống
giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác – Lênin thì cịn phải chống giáo điều
trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành khác. Người
căn dặn cán bộ, đảng viên: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình
trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là
phạm chủ nghĩa giáo điều (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Để chống cả hai
loại giáo điều này, theo Hồ Chí Minh thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với
thực tiễn cách mạng nước nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với
thực tiễn cách mạng, khi vận dụng kinh nghiệm và lý luận phải xuất phát từ thực



15

tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh giáo điều
thì phải đề phịng, ngăn ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu khơng có quan điểm
đúng đắn trong việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì
người ta dễ nhấn mạnh thái quá những đặc điểm dân tộc để phủ nhận những giá
trị phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin. “Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm
dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các
nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại, (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Đồng thời, Người cịn nhắc nhở cán bộ, đảng viên
phải biết dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả cơng tác. “… cơng việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta
cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái
chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” (Hồ Chí Minh,
1995, tập 5, tr. 243). Người cịn nhấn mạnh ” …cần phải nghiên cứu kinh nghiệm
cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm
cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 417). Đó
chính là q trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ
sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho
lý luận cần được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh
động” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ
đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ sung,
hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực tiễn.
Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được bổ sung
bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh. “Làm
như thế theo Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các



16

vấn đề đó được nâng cao hơn và cơng tác có kết quả hơn” (Hồ Chí Minh, 1995,
tập 8, tr. 498).
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải khơng ngừng học tập lý luận,
nâng cao trình độ lý luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải
biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn
mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới
không trở thành giáo điều. Đồng thời thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận
sẽ không bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều cũng khơng cịn chỗ đúng.
II. TƯ TƯỞNG MÁC- ĂNG GHEN, LÊNIN, HỒ CHÍ MINH VỀ
CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI
Chủ nghĩa cơ hội là một trào lưu tư tưởng chính trị hình thành trong phong
trào Cơng nhân có tổ chức, thể hiện sự thích nghi với lợi ích của tầng lớp tiểu tư
sản và bộ phận giai cấp công nhân đã bị tư sản hóa. Đặc trưng của chủ nghĩa cơ
hội thể hiện ở quan điểm tư tưởng chính trị mơ hồ, khơng nhất quán, lu mờ tính
giai cấp, tính Đảng và tính nguyên tắc về phong trào Cộng sản và Công nhân
quốc tế, về vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Nó cịn thể hiện ở chủ trương, đường lối
đi tới sự từ bỏ cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặt lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động phụ thuộc vào lợi ích của giai cấp phi vô sản (tiểu tư sản và tư
sản).


17

Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đã trở thành một quy luật vận động và

phát triển của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế, đó là cuộc đấu tranh tất
yếu để bảo vệ sự trong sáng, tính cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác và để
hiện thực hóa trong cuộc sống. Kế tục sự nghiệp cách mạng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I Lênin đã có những cống hiến vĩ đại đối với phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, bảo vệ và phát triển thành công Chủ nghĩa Mác. Thắng lợi
của cuộc đấu tranh ấy có ý nghĩa to lớn đối với phong trào công nhân quốc tế và
để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ
hội hiện nay. Đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, ln quan tâm và nhắc nhở đến việc quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
chống chủ nghĩa cơ hội
II.1. Tư tưởng của C. Mác-Ph Ăng ghen
Theo Ph.Ăngghen, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, dưới bất kỳ
biểu hiện nào của nó đều là cuộc “đấu tranh sống mái” và có tính lâu dài.
Từ những năm 70 của thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa Mác giành được địa vị
thống trị về mặt lý luận trong phong trào công nhân đến nay, các nhà lý luận tư
sản và tiểu tư sản đã ngày càng tìm cách đưa các loại tư tưởng của họ xâm nhập
vào nội bộ phong trào cơng nhân dưới hình thức hoạt động cơ hội chủ nghĩa đủ
màu sắc với nhiều thủ đoạn và mánh khoé. Những năm 90 của thế kỷ 19, nhất là
từ khi C.Mác qua đời, trong phong trào công nhân và nội bộ các đảng của giai
cấp công nhân, chủ nghĩa cơ hội lại càng phát triển ở khắp nơi. Về mặt triết học,
những nhà lý luận cơ hội chủ nghĩa đã dùng chủ nghĩa duy vật tầm thường thay
cho chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng thuyết tiến hoá tầm thường thay cho phép
biện chứng cách mạng. Về mặt chính trị, họ dùng chủ nghĩa cải lương xã hội


18

thay thế cho học thuyết đấu tranh cách mạng của Mác, họ cổ vũ cho cái gọi là
“xã hội hiện đại đẻ ra chủ nghĩa xã hội”. Về mặt tổ chức họ mưu toan đưa đảng
từ chỗ là đội tiền phong của giai cấp công nhân biến thành đảng tiểu tư sản.

Muốn bảo vệ và truyền bá chủ nghĩa Mác, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của
phong trào công nhân thì phải kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội. Sứ
mạng nặng nề đó được đặt lên vai Ph.Ăngghen. Ơng đã phân tích sâu sắc nguồn
gốc sinh ra chủ nghĩa cơ hội từ các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng và lịch sử.
Ông chỉ rõ: một mặt, sự đàn áp tàn khốc của giai cấp thống trị làm cho những kẻ
ý chí bạc nhược sợ hãi, quỳ gối van xin. Mặt khác bọn thống trị ở các nước Âu,
Mỹ áp dụng một chính sách nới lỏng tự do trên một số mặt nào đó với phong
trào cơng nhân, khiến cho họ có ảo tưởng cải lương chủ nghĩa, một loại cơng
đồn “vàng” xuất hiện làm tay chân cho giới chủ, quay lưng lại với lợi ích của
phong trào công nhân. Về mặt chủ quan, do phong trào cộng sản phát triển mau
lẹ, nhiều đảng viên mới chưa kịp học tập một cách có hệ thống và cơ bản lý luận
của chủ nghĩa xã hội khoa học cho nên không thể nhận ra bộ mặt thật của chủ
nghĩa cơ hội, ngược lại còn tiếp thu hoặc truyền bá những tư tưởng phản động
của chủ nghĩa cơ hội. Ph.Ăngghen cho rằng về cơ bản, tư tưởng và quan điểm
của chủ nghĩa cơ hội là quan điểm tư tưởng tư sản, các phần tử cơ hội chủ nghĩa
là cái đuôi của giai cấp tư sản, họ tạo ra một “mặt trận tư sản” trong phong trào
công nhân và trong đảng cơng nhân. Nó cổ vũ một thứ chủ nghĩa mơ hồ, làm tê
liệt tư tưởng và ý chí đấu tranh của cơng nhân, nó làm cho phong trào cơng nhân
đi vào con đường sai lầm, chia rẽ, mất đoàn kết, đưa phong trào đến chỗ thất bại.
Theo Ph.Ăngghen, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, dưới bất kỳ biểu hiện
nào của nó đều là cuộc “đấu tranh sống mái” và có tính lâu dài (1)(C.Mác và
Ph.Ăngghen tồn tập, NXB CTQG, HN.1997, tập 33, tr.782).


19

Ph.Ăngghen còn lưu ý rằng, bọn cơ hội chủ nghĩa núp dưới khẩu hiệu ủng hộ
chủ nghĩa Mác, dùng phương pháp lén lút sửa đổi, cắt xén làm cho chủ nghĩa
Mác bị xuyên tạc để thích ứng với lợi ích của chúng. Những người theo chủ
nghĩa cơ hội mồm thì nói chủ nghĩa Mác, danh nghĩa là người đại biểu cho lợi

ích của cơng nhân và nhân dân lao động nhưng thực tế là bảo vệ lợi ích của bọn
bóc lột. Họ cịn lợi dụng tình hình để đục nước béo cò, mưu kiếm chác thật nhiều
cho bản thân và bè lũ của chúng.
Ph.Ăngghen vạch rõ: Có chủ nghĩa cơ hội tả khuynh và chủ nghĩa cơ hội hữu
khuynh:
Chủ nghĩa cơ hội tả khuynh khư khư biến chủ nghĩa Mác thành một thứ
giáo lý chết cứng như kinh thánh của tôn giáo, làm cho chủ nghĩa Mác mất sức
sống, cứng nhắc và không sáng tạo, xa rời đời sống thực tiễn, gần gụi với chủ
nghĩa giáo điều, máy móc, rập khn. Nó ảo tưởng trong một thời gian ngắn có
thể tạo ra một phong trào bất chấp những điều kiện chủ quan và khách quan thực
tế hiện có, làm cho Đảng thoát ly quần chúng, mạo hiểm làm bừa. Chủ nghĩa cơ
hội tả khuynh làm cho những nhà lãnh đạo phong trào công nhân rất dễ rơi vào
chủ quan, duy ý chí, khơng nắm vững quy luật khách quan.
Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh làm mờ nhạt, suy yếu, thủ tiêu nội dung cách
mạng của chủ nghĩa Mác, nó “tuyên truyền trong công nhân thứ chủ nghĩa xã hội
lửng lơ bên trên lợi ích giai cấp của họ, bên trên đấu tranh giai cấp và ra sức điều
hoà theo tinh thần nhân đạo cao cả những lợi ích của hai giai cấp đang đấu tranh
với nhau”(2)( Sđd, tập 21 tr.382), biến chủ nghĩa Mác thành cái mà ngay cả giai
cấp tư sản cũng có thể chấp nhận được. Vì thế Ăngghen đã nói rằng chủ nghĩa cơ
hội biến chủ nghĩa Mác thành một thứ ““chủ nghĩa Mác” bị xuyên tạc méo
mó”(3). Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh làm cho giai cấp công nhân chỉ chạy theo


20

những lợi ích nhỏ nhặt trước mắt, xa rời mục tiêu đấu tranh xố bỏ chế độ bóc
lột. Chúng ta cần đặc biệt lưu ý chỉ dẫn sau đây của Ph.Ăngghen: “Vì những lợi
ích nhất thời hàng ngày mà qn đi những quan điểm chủ yếu lớn, chạy theo
những thành công chốc lát và đấu tranh cho những thành công chốc lát mà khơng
tính đến những hậu quả về sau, hy sinh tương lai của phong trào vì hiện tại, tất cả

những việc ấy có thể xuất phát từ những động cơ “thành thật”. Nhưng đó là và sẽ
vẫn là chủ nghĩa cơ hội, mà chủ nghĩa cơ hội “thành thật” có lẽ lại là thứ chủ
nghĩa cơ hội nguy hiểm hơn hết cả”(3,4)( Sđd, tập 22, tr.113, 346).
Cả hai biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội nói trên cho đến nay khơng những vẫn
đang tồn tại đó đây trong đời sống của Đảng Cộng sản ở thời hiện tại mà nó cịn
phát triển rất tinh vi, đủ màu sắc dưới chính thể cộng hồ dân chủ do Đảng Cộng
sản cầm quyền.
II.2. Tư tưởng của VI.Lênin
Một trong nhiều loại biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội cực kỳ nguy hiểm là
cơ hội về chính trị. Loại cơ hội về chính trị, V.Lênin đã chỉ ra, sự thể hiện của nó
là “không rõ ràng, lờ mờ và không thể nào hiểu nổi được. Do bản chất của mình,
phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt vấn đề một cách rõ ràng và dứt
khốt, bao giờ nó cũng tìm con đường trung dung, nó quanh co uốn khúc như
con rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau, nó tìm cách “thỏa thuận” với cả
quan điểm này và quan điểm kia, vì nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình
lại thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hồi nghi, những nguyện vọng
thành tâm và vơ hại”. Nói cách khác, những người theo chủ nghĩa cơ hội thường
có biểu hiện lập trường tư tưởng bấp bênh, thể hiện thái độ né tránh trước những
vấn đề lý luận, thực tiễn nổi lên trong thời đại. Phản ứng của họ lúc thế này, lúc


21

thế khác và sẵn sàng thay đổi giọng điệu, thay đổi thái độ, lập trường để đạt được
mục đích và vì lợi ích của mình. Thậm chí những đối tượng cơ hội chính trị cịn
tun truyền xun tạc và phản bác, phủ định lý luận mác-xít Lênin-nít, phủ
nhận chủ nghĩa xã hội trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Họ đề cao, ca
tụng khuynh hướng chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập. Vì lợi ích của phe nhóm và cá nhân những kẻ cơ hội chủ nghĩa
sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với giai cấp phi vô sản, từ bỏ con đường đấu

tranh cách mạng xã hội chủ nghĩa phản bội lại mục tiêu, lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chủ nghĩa cơ hội có hai khuynh hướng chủ yếu: Chủ nghĩa cơ hội hữu
khuynh có tính chất cải lương thiên về thỏa hiệp, muốn “cải biến” một cách hịa
bình chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, từ bỏ đấu tranh giành thắng lợi
thực sự về tay giai cấp công nhân; chủ nghĩa cơ hội tả khuynh là sự pha trộn giữa
cực đoan và phiêu lưu, giáo điều, manh động, chủ quan, sùng bái bạo lực, không
đếm xỉa tới tình thế khách quan. Chủ nghĩa cơ hội “hữu” hay “tả” khuynh đều
đẩy phong trào công nhân đi đến hi sinh vơ ích và thất bại.
Lênin cho rằng khi Đảng Cộng sản đã trở thành đảng chấp chính thì bọn
cơ hội ra sức thích ứng với trào lưu thịnh hành trong công nhân “họ thay màu đổi
sắc để ẩn nấp được dễ dàng hơn, như con thỏ rừng, về mùa đông thay lông thành
màu trắng”(5). Lời chỉ dẫn sau đây của VI.Lênin đã một mặt minh chứng cho
luận điểm khoa học của Ph.Ăngghen về chủ nghĩa cơ hội; mặt khác, cho chúng
ta thêm hiểu biết để nhận rõ những phần tử cơ hội trong phong trào cách mạng
đương đại: “Bất cứ một người cơ hội chủ nghĩa nào cũng đều có khả năng thích


22

ứng như vậy”(5,6)( Lênin toàn tập, NXB CTQG, M.1978, tập 44, tr.153). và cái
kiểu thích ứng như con thỏ rừng ấy là nguyên tắc sống còn của bọn chúng.
II.3. Tư tưởng của Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi những phần tử cơ hội chủ nghĩa là bọn đầu cơ.
Bọn đầu cơ thực ra chỉ là bọn cơ hội chủ nghĩa thực dụng, chúng khơng có lý
luận, chúng chỉ tìm cách “thích nghi” và luồn lách xuất phát từ bản chất của nó
là mưu lợi cá nhân, là thói ích kỷ, vụ lợi. Hồ Chí Minh cho rằng bọn đầu cơ cũng
giống như là bọn phản động, nó “là địch nhân lọt vào trong Đảng để phá
hoại”(7(Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H.2002, tập 5, tr.264). Nó dùng mọi
thủ đoạn như xu nịnh, đút lót, hối lộ, tâng bốc, bênh che, cánh hẩu, ô dù, phe

cánh, gian dối… để chui sâu, leo cao, miễn sao nắm được quyền lực để mưu vinh
thân phì gia.
Rất phổ biến là tệ chạy chức, chạy quyền, “cố tranh cho được uỷ viên này
chủ tịch kia… lo chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị và cơng tác của
mình mà bn bán phát tài, lo việc riêng hơn việc công”(10).
Một biểu hiện khá phổ biến nữa là thói quen “hội” nhưng không “nghị” như
Bác Hồ từng nhắc nhở, nghĩa là hội họp thì nhiều nhưng thảo luận, tranh luận thì
ít, người chủ trì thì đưa ra lấy ý kiến chiếu lệ, cốt sao áp đặt được ý mình, hợp
pháp hố ý muốn chủ quan của mình, cịn các thành viên thì một bộ phận tán
dương, a tòng, chiều nịnh ý của người đứng đầu, khơng dám bộc lộ chủ kiến của
mình; một bộ phận thì vơ trách nhiệm “sao cũng mặc kệ, sao cho xong chuyện
thì thơi. Khơng phê bình, khơng tự phê bình”(11); một bộ phận nữa tuy có hiểu
biết nhưng thiếu dũng khí đấu tranh, thấy sai đúng nhưng không dám tỏ bày ý
kiến nên giữ thái độ “ai mặc kệ ai… trong Đảng, còn nhiều người giữ thái độ đó,


23

nhất là khi cấp dưới đối với cấp trên. Thái độ đó thường sinh ra thói “khơng nói
trước mặt, hục hặc sau lưng”. Nó gây nên sự uất ức và khơng đồn kết trong
Đảng. Nó để cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt động trong Đảng. Nó để cho
khuyết điểm ngày càng chồng chất lại và phát triển ra”(10,11,12)( Hồ Chí Minh
tồn tập, NXB CTQG, H.2002, tập 5, tr.74, 264, 265). Đến khi không thể giấu
giếm được nữa thì quy lỗi cho tập thể, cuối cùng thì lấy một đại từ nhân xưng số
nhiều là “chúng ta” làm bình phong và để quy trách nhiệm.
Vì vậy, sinh thời Bác rất coi trọng việc giáo duc đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên. Khi chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng, năm 1927,
trong tác phẩm Đường cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề lên trang đầu Tư
cách một người cách mệnh, và nhấn mạnh sự: cần kiệm, cả quyết sửa lỗi mình,
vị cơng vong tư, khơng hiếu danh, khơng kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ

nghĩa cho vững, ít lịng tham muốn về vật chất... Trải qua 30 năm Đảng lãnh đạo
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng ta là đạo đức, là văn minh.
Trước khi đi xa, Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhấn
mạnh nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân. Về nâng cao chất lượng đảng viên, Nghị quyết Đại hội X của Đảng yêu
cầu: "lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để
làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công
tác được giao"(1) (Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 133). Như vậy, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức
cách mạng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng hàng đầu trong xây dựng,
chỉnh đốn Đảng.


24

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, chủ nghĩa thực dân "đã dùng mọi thủ đoạn hòng
hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ơ và
những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân
dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc
lập"(3)( Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 4, tr 8).
Người cũng đã sớm nhận thấy những biểu hiện thoái hóa, biến chất trong một số
đảng viên, cán bộ nắm bộ máy chính quyền. Trong thư gửi ủy ban nhân dân các
kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ
những lầm lỗi chính là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước. Mọi việc làm tốt
hay xấu của đảng viên đều ảnh hưởng đến sự nghiệp cách mạng của giai cấp, của
dân tộc, cuộc sống của nhân dân. "Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng

có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì
nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và
sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người
đó; cịn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến
nhân dân"(4)( Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 254).
Tháng 10-1947, Bác Hồ viết xong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, mang
bút danh X.Y.Z (Bác có khoảng 160 bút danh, tên gọi khác nhau). Lúc này Trung
ương chỉ đạo tổ chức đợt học tập chính trị trong tồn Đảng. Tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc” của Bác là tài liệu quý giúp cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn
luyện, tu dưỡng trên các mặt tư tưởng, đạo đức và phương pháp làm việc.


25

Trong tác phẩm, Bác khẳng định “Sửa đổi lối làm việc” của Đảng là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp cách mạng; là nhiệm vụ thường xuyên, vừa lâu dài,
vừa cấp bách của một Đảng chân chính. Theo Bác: Sửa ở đây là sửa chữa, khắc
phục. Đổi là đổi mới; Lối là phương pháp cách thức; Làm việc là hoạt động của
Đảng, lãnh đạo của Đảng. Sửa đổi lối làm việc là để nâng cao sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng, giúp cho mọi tổ chức và cán bộ, đảng viên hồn thành tốt hơn
nhiệm vụ của mình. Nội dung tác phẩm đề cập đến các lĩnh vực về tư tưởng, tổ
chức, phương thức, phương pháp lãnh đạo, công tác quần chúng của Đảng trong
điều kiện đặc thù của đất nước vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.
Bác Hồ chỉ ra có 3 loại khuyết điểm mà cán bộ thường gặp, đó là bệnh chủ
quan; bệnh hẹp hịi; bệnh ba hoa. Biểu hiện của các loại khuyến điểm đó là:
Khơng đem lý luận thực hành trong cuộc sống; nói, viết dài dòng; tự cao tự đại,
coi thường mọi người, dẫn đến chia rẽ, bè phái, đố kỵ; cơng thần, suy bì, tị nạnh
với đồng chí, đồng đội; kể cơng với Đảng. Ngun nhân chính dẫn đến các
khuyết điểm đó theo Bác là do yếu kém lý luận, khinh lý luận hoặc lý luận
sng. Bác cho rằng lý luận chân chính phải xuất phát từ thực tiễn, tổng kết thực

tiễn, gắn với cuộc sống, chỉ đạo cuộc sống. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải
học lý luận, đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế hàng ngày. Phải biết tổng
kết kinh nghiệm ngay trong cơng việc của mình.
Bác chỉ ra nhiệm vụ của toàn Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên là phải
thường xuyên xem xét, sửa đổi lối làm việc; xác định đâu là ưu điểm, đâu là
khuyến điểm. Đừng sợ khuyết điểm, không che dấu khuyến điểm, phải tự phê
bình, phê bình rộng rãi. Bác cho rằng: Một Đảng mà giấu khuyết điểm là một
Đảng hỏng, có gan thừa nhận khuyết điểm, tìm nguyên nhân, quyết tâm sửa chữa
khuyết điểm thì Đảng đó là một Đảng tiến bộ.


×