Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học, quan điểm của hồ chí minh về xử lý mối quan hệ giữa nước ta với các nước lớn và vận dụng trong bối cảnh quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.02 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta, một
nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc. Người tượng trưng cho sự
kết hợp hài hoà tinh hoa của dân tộc Việt Nam với tinh hoa văn hoá của nhân
loại, tượng trưng cho sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Người suốt đời hy sinh phấn đấu
không chỉ cho độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, mà cịn
đấu tranh khơng mệt mỏi cho sự đồn kết, tình hữu nghị giữa các dân tộc,
quốc gia trên thế giới. Những giá trị tư tưởng của Người là những cống hiến
lớn lao cho cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Người được tơn vinh
là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn”. Đại hội đồng UNESCO
lần thứ 24 đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về
quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung
của các dân tộc vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... và
những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc
trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự
hiểu biết lẫn nhau”.


2

2

Tiếp thu truyền thống đấu tranh vẻ vang của dân tộc kết hợp với
phương pháp khoa học biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh hoa văn
hoá của phương Đông, phương Tây và kinh nghiệm ngoại giao thế giới, Hồ
Chí Minh đã dẫn dắt sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam lần lượt vượt qua


thử thách của các cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ xâm lược, đi đến thắng
lợi hoàn toàn và để lại cho nền ngoại giao hiện đại Việt Nam một di sản vô
cùng quý báu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Tư tưởng Hồ Chí Minh
vừa là một khoa học, vừa là một “cẩm nang” cho hoạt động thực tiễn. Việc
nghiên cứu, tổng kết rút ra những bài học và hệ thống những quan điểm trong
tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng vào thực tiễn nước ta hôm nay là vô cùng
cần thiết. Trong khuôn khổ bài tiều luận, em xin phép trình bày nội dung
chuyên đề “Quan điểm của Hồ Chí Minh về xử lý mối quan hệ giữa nước ta
với các nước lớn và vận dụng trong bối cảnh quốc tế hiện nay.


3

3

B. NỘI DUNG
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU TK XX
Bảo vệ lợi ích dân tộc trước các cường quốc từ xa xưa đã là mối quan
tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Từ khi giao thương quốc tế phát triển, thế
giới trở thành một thị trường thống nhất, và nhất là từ khi các cường quốc đế
quốc đánh chiếm thuộc địa, tranh giành ảnh hưởng ở các nước chậm phát
triển thì vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia trở nên gay gắt và phức tạp hơn. Nhân
tố quốc tế trở thành nhân tố chi phối sự phát triển, thậm chí sự tồn vong của
một dân tộc.
Cùng với cuộc cách mạng công nghiệp và các cuộc cách mạng tư sản
nhân quyền và dân quyền, từ nửa cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản Âu - Mỹ
phát triển nhanh chóng và chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Tại chính
quốc, chúng tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân lao động, đặc biệt là giai cấp
cơng nhân; ở bên ngồi, tiến hành chiến tranh đánh chiếm thuộc địa ở khắp các
châu lục Á, Phi và Mỹ Latinh. Giữa các nước đế quốc nổ ra cuộc tranh đua

quyền lực và giành giật ảnh hưởng trên thế giới. Một loạt mâu thuẫn nảy sinh:
mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế
quốc và các dân tộc bị áp bức, mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc.


4

4

Trong bối cảnh đó, vấn đề giải phóng con người khỏi sự áp bức, bóc
lột trên được đặt ra: ở chính quốc, vấn đề chính nổi lên là giải phóng giai cấp
vơ sản khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, ở các nước kém phát triển, vấn đề
là bảo vệ độc lập dân tộc hoặc giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của chủ
nghĩa đế quốc.
Dưới giác độ dân tộc, sự phát triển không đều tạo ra những biến động
lớn trong tương quan lực lượng giữa các quốc gia. Đây là điều kiện cho các
nước đế quốc gây chiến tranh chinh phục thuộc địa hoặc tranh giành ảnh
hưởng lẫn nhau ở các nước chậm phát triển. Đối với các nước chậm phát
triển, bên cạnh vấn đề đấu tranh giai cấp là vấn đề phát triển đất nước để có
đủ sức chống lại các nguy cơ từ bên ngoài do sự mất cân đối quá lớn về tương
quan lực lượng nói trên tạo ra.
Ở khu vực châu Á lúc đó, hầu hết các nước cịn chìm đắm trong lạc
hậu, không đọ nổi sức mạnh của các cường quốc đế quốc, đã lần lượt rơi vào
ách đô hộ của chúng, trừ hai nước Nhật Bản và Thái Lan:
Tại Việt Nam, từ đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến ở trong tình trạng
khủng hoảng và suy tàn; bên trong duy trì đặc quyền đặc lợi cho tập đồn
phong kiến, kìm hãm những lực lượng sản xuất mới manh nha phát triển, đối
với bên ngoài thực hiện bế quan tỏa cảng, làm cho sản xuất, giao thương đình
trệ, đi ngược với xu thế tiến hố của xã hội lồi người. Đất nước nghèo nàn,
lạc hậu, lại khơng có được sự đồn kết nhất trí của đơng đảo nhân dân, khơng có

được chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần để đương đầu với cuộc xâm lược của
chủ nghĩa thực dân đang bành trướng mạnh mẽ, cuối cùng đã rơi vào tay Pháp.
Với truyền thống yêu nước, bất khuất của nhân dân ta, nhiều cuộc khởi
nghĩa, nhiều phong trào yêu nước: Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Duy tân
hội… đã nổi lên chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, nhưng đều thất bại.


5

5

Một trong những nguyên nhân chính là trong lúc chế độ phong kiến ở Việt
Nam đã thối nát, hầu hết những người lãnh đạo vẫn chủ trương duy trì chế độ
phong kiến lạc hậu, khơng gắn vấn đề giải phóng đất nước với giải phóng con
người, khơng đúng với xu thế của thời đại , vì vậy chưa tập hợp được đông
đảo lực lượng quần chúng nhân dân thành một mặt trận dân tộc thống nhất
chống đế quốc.
Khác với các nhà yêu nước đương thời, Hồ Chí Minh chủ trương giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng: đấu tranh để giải phóng cả dân tộc
và giai cấp. Song đấu tranh giai cấp ở đây là đấu tranh giai cấp ở điều kiện cụ
thể của nước Việt Nam lúc bấy giờ, khơng phải ở trình độ phát triển của các
nước Âu, Mỹ; nghĩa là tập hợp tất cả các tầng lớp nhân dân lao động, những
người yêu nước đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi cả hai tầng áp bức thực dân
và phong kiến phản động, giành chính quyền về tay nhân dân ; đồng thời gắn
cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới và dẫn dắt cách mạng Việt Nam
tiến theo dòng chảy của cách mạng thế giới. Lợi ích dân tộc tối thượng trong
suốt thời kỳ này cho đến khi đất nước ta được hoàn toàn giải phóng năm 1975
là giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho dân tộc Việt Nam. Chính nhờ cách
tiếp cận cách mạng này của Bác mà sự nghiệp giải phóng dân tộc của ta đã
tập hợp được đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân lao động trong cả

nước và sự ủng hộ của các phong trào cách mạng trên thế giới, tạo thành một
sức mạnh tổng hợp to lớn, chiến thắng được lực lượng vật chất to lớn của thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO ĐẢM LỢI ÍCH DÂN
TỘC VÀ VIỆC XỬ LÝ MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC LỚN.
2.1. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn liền với đoàn kết và hợp tác
quốc tế


6

6

2.1.1. Độc lập, sáng tạo trong tư duy
Một trong những điểm nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là cách
tư duy độc lập, sáng tạo, không giáo điều, rập khn, ln tìm tịi suy nghĩ
hướng đi, cách luận giải mới để bảo đảm lợi ích của dân tộc Việt Nam. Người
thường nói: muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm.
Thơng thường, các nước lớn hay các đảng lớn là xuất phát điểm của các
dòng chủ lưu về tư duy chính trị cũng như chiến lược đối ngoại. Các dòng chủ
lưu này phần nhiều xuất phát từ lợi ích hoặc từ thực tế của các nước lớn, các
đảng lớn và không phải lúc nào cũng phù hợp với lợi ích hoặc thực tế của
cách mạng Việt Nam. Với tư duy độc lập và sáng tạo, đứng trên góc nhìn cụ
thể của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tìm ra cách luận giải mới bảo
đảm lợi ích của dân tộc ta mà khơng đối lập với dòng chủ lưu của các đảng
lớn và các nước lớn anh em. Có thể nêu hai ví dụ:
Một là , vào đầu thế kỷ XX, đứng trên giác độ đấu tranh giai cấp ở một
nước phát triển, các đảng lớn, đại biểu cho quan điểm chính thống của Quốc
tế Cộng sản chủ trương giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới giải quyết vấn
đề dân tộc và cho rằng chỉ có làm cách mạng thành cơng ở chính quốc thì mới

có thể làm được cách mạng ở các nước thuộc địa. Tuyên ngôn thành lập Quốc
tế Cộng sản (năm 1919) viết: “Sự giải phóng các thuộc địa chỉ có thể có được
cùng với sự giải phóng giai cấp cơng nhân ở chính quốc. Cơng nhân và nơng
dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengalia mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia,
chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp
lật đổ được Lơit Gicgiơ và Clêmăngxơ, giành chính quyền nhà nước trong
tay mình”.
Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong
hoàn cảnh cụ thể của các dân tộc nhược tiểu bị áp bức xâm lược. Người chỉ rõ


7

7

phải giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp . Ở Việt Nam, quyền lợi
giai cấp và quyền lợi của dân tộc là nhất trí, đấu tranh giải phóng dân tộc là một
phần của đấu tranh giải phóng giai cấp. Các nước thuộc địa cần đấu tranh để tự
giải phóng mà khơng đợi cách mạng vơ sản thành cơng ở chính quốc; làm cách
mạng ở các nước thuộc địa chính là giúp cho cách mạng ở chính quốc.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm của Mác là trong mỗi giai đoạn
lịch sử tiến hố của xã hội lồi người, đấu tranh giai cấp có khác nhau. Ở Việt
Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến - mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông
dân với giai cấp địa chủ phong kiến, giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp tư
sản. Do đó, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Giải
phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho
giải phóng giai cấp. Quan điểm trên sau này được chính thức hoá trong Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương tháng 5 năm 1941 do
Hồ Chí Minh chủ trì: “Trong lúc này nếu khơng giải quyết được vấn đề dân

tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng
những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được” .
Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám
vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa”. Bằng thắng lợi của mình, hàng trăm
triệu nhân dân châu Á có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn. Người kêu gọi cơng nhân và các
đảng cộng sản ở các nước phương Tây tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa dân tộc là
động lực lớn của đất nước và chiến lược của cách mạng Việt Nam là đoàn kết
dân tộc trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức là một. Chủ nghĩa


8

8

yêu nước chân chính là một bộ phận của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong
Quốc tế Cộng sản cũng như trong Đảng Cộng sản ở Đông Dương, Bác đã
kiên quyết bảo vệ quan điểm này dù có lúc bị phê phán và hạn chế hoạt
động.Như vậy Bác Hồ đã bảo vệ lợi ích của dân tộc ta mà khơng đối lập với
phong trào cách mạng chung trên thế giới.
Hai là , cũng với trí độc lập, sáng tạo như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thuyết phục được các đảng và các nước anh em ủng hộ cuộc đấu tranh
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong bối cảnh hồ hỗn Xơ - Mỹ.
Vào đầu những năm 1960, Liên Xơ chủ trương hồ hỗn, thi đua hồ
bình, lo ngại một tia lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy cả đồng cỏ và cuộc chiến
tranh ở Việt Nam có thể dẫn đến chiến tranh thế giới. Đảng ta và Bác Hồ đã lý
giải: Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống xâm lược của đế quốc

Mỹ hiếu chiến là nhằm giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thời đại; phù hợp
với xu thế của thời đại là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cuộc đấu tranh này góp phần bảo vệ hồ bình thế giới, bảo vệ phe xã hội chủ
nghĩa, sẽ không dẫn đến chiến tranh thế giới và cũng khơng phá hỏng hịa
hỗn giữa Liên Xơ và Mỹ. Do đó chúng ta đã giành được sự đồng tình, ủng
hộ của Liên Xô và các nước trên thế giới.
Tư tưởng độc lập, tự chủ, sáng tạo về tư duy này của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khơng được qn triệt và thực hiện trong thời kỳ cuối những năm 1970 và đầu
những năm 1980, nên chúng ta đã mắc phải những sai lầm nặng nề, giáo điều, rập
khuôn dẫn đến tình trạng khủng hoảng kéo dài cho đến khi ta tiến hành đổi mới
sâu rộng.
2.1.2. Độc lập, tự chủ trong hành động
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta thường chịu tác động nhiều chiều
của các nước lớn. Đối với kẻ thù là sự đe dọa, đối với đồng minh là tác động


9

9

dưới nhiều hình thức. Để vững lái con thuyền cách mạng Việt Nam trong bối
cảnh đó, trong ý chí cũng như phương pháp hành động, Bác Hồ thể hiện một
tinh thần độc lập tự chủ mẫu mực, kiên định trong ý chí, tự chủ trong hành
động ; đối với kẻ thù phải kiên quyết, khôn khéo; đối với đồng minh vừa đoàn
kết vừa đấu tranh. Điểm bất biến trong tư tưởng của Bác chính là lợi ích của
dân tộc Việt Nam.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam đứng trước
thử thách to lớn, phải đối mặt với Mỹ là nước đế quốc hùng mạnh nhất thế
giới, hung hăng nhất thế giới trong khi phong trào cộng sản và cơng nhân
quốc tế đang có bất đồng lớn, Hồ Chí Minh lại một lần nữa khẳng định tư

tưởng độc lập tự chủ, chủ động tiến cơng. Người nói: khơng nên đặt câu hỏi
Mỹ mạnh, can thiệp vào Việt Nam thì ta thế nào? Mỹ giúp Pháp mạnh hơn, ta
thế nào? Mỹ giúp bù nhìn tổ chức quân đội mạnh hơn, ta thế nào? Hỏi như
vậy là bị động, “phải đặt ngược lại là: ta chủ động, Mỹ đến ta cũng đánh;
Pháp mạnh, ta cũng đánh; bù nhìn tổ chức thêm quân, ta cũng đánh”
Không chỉ độc lập, tự chủ trong hành động trước kẻ thù, Hồ Chí Minh
ln giữ độc lập, tự chủ trong hành động phối hợp với các nước lớn xã hội
chủ nghĩa anh em. Trong khi giúp đỡ ta, các nước lớn anh em đều muốn sử
dụng vấn đề Việt Nam làm con bài mặc cả với Mỹ, thúc ta đánh hoặc đàm
theo ý họ, vì lợi ích của họ. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, ta đã khéo léo xử lý quan hệ, chủ động đánh theo chiến lược của ta, chủ
động trong việc chọn thời điểm, phương thức, nội dung, giải pháp đàm phán
với Mỹ và kết thúc chiến tranh, độc lập với Liên Xô và Trung Quốc, nhằm
mục đích cao nhất là giành thắng lợi hồn tồn cho cách mạng Việt Nam. Cả
đối với Liên Xô và Trung Quốc, ta đều tạo điều kiện để họ có tiếng nói và vị
trí trong vấn đề Việt Nam, nhưng đều khơng nhận qn tình nguyện chiến đấu
ở Việt Nam và cố vấn bên cạnh Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt


10

10

Nam. Đối với Liên Xơ, ta kiên trì đấu tranh trên ba mặt trận, không đi vào
giải pháp sớm như Liên Xô thúc ép và không để Liên Xô làm trung gian giữa
ta và Mỹ. Đối với Trung Quốc, ta từ chối đề nghị của Trung Quốc đưa bộ đội
làm đường vào miền Nam hoặc đưa cán bộ Trung Quốc vào miền Nam
“nghiên cứu”. Mặc dù Trung Quốc phản đối ta vừa đánh vừa đàm và khuyên
ta phải trường kỳ kháng chiến, nhưng ta vẫn tiến hành nói chuyện với Mỹ và
kết thúc đàm phán thắng lợi. Do đó ta đã tránh được thỏa hiệp giữa Liên Xô

hoặc Trung Quốc với Mỹ gây bất lợi cho ta.
2.1.3. Tự lực, tự cường dân tộc đi đơi với đồn kết, hợp tác quốc tế
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Bác Hồ đã kêu gọi nhân dân ta “lấy
sức ta giải phóng cho ta” và sau đó là “nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường
kỳ kháng chiến” chống thực dân Pháp. Quan điểm của Người là muốn người ta
giúp cho thì trước hết tự mình phải cứu mình đã. Như trên đã nêu, con đường
Bác chỉ ra cho dân tộc Việt Nam không phải là làm cách mạng thế giới rồi nhờ
thắng lợi hay sự giúp đỡ của thế giới để giải phóng Việt Nam. Con đường của
Bác là con đường cách mạng bằng sự nỗ lực và sức mạnh của chính mình, là
tranh thủ thời cơ và sự giúp đỡ bên ngoài để dân tộc ta và sự nghiệp cách mạng
của dân tộc ta lớn mạnh, chủ động vươn lên tự giải phóng cho mình, qua đó góp
phần vào cách mạng thế giới.
Trong giai đoạn 1941-1945, Việt Nam đứng về phe Đồng minh chống
phát xít, Đảng Cộng sản Đơng Dương xác định mối quan hệ này thực chất là
quan hệ với các nước lớn, đã nhấn mạnh: “Chú ý rằng: Ta có mạnh thì họ mới
chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là
kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy” . Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, năm 1949 trả lời các nhà báo nước ngoài, Bác Hồ khẳng định: “Thắng
lợi của Việt Nam sẽ là độc lập và thống nhất thực sự”, bởi vì “Chúng tơi bao
giờ cũng trơng ở sức mình. Chúng tơi khơng sợ ai cả. Khơng nước nào có thể


11

11

thống trị được chúng tôi” Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
cũng như chống đế quốc Mỹ, Bác luôn kêu gọi nhân dân ta kháng chiến - kiến
quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc - đấu tranh giải phóng miền
Nam; nghĩa là trong bất kỳ hoàn cảnh nào việc xây dựng thực lực cũng luôn là

một nhiệm vụ trung tâm. Năm 1948, Bác Hồ căn dặn: “Mỗi một người dân
phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do” .
Hồ Chí Minh ln ý thức rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới. Vì vậy, chủ trương độc lập tự chủ nhằm bảo đảm lợi ích
dân tộc chính đáng, thực hiện các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta,
nhưng không rơi vào xu hướng biệt lập, chủ nghĩa biệt phái hay ích kỷ, hẹp
hòi. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình nhiều lần trong bối cảnh
thời đại mới, Hồ Chí Minh ln chủ trương đồn kết và tranh thủ sự hợp tác
giúp đỡ của các nước, trước hết là của các nước lớn anh em là Liên Xô và
Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn độc lập tự chủ
với đoàn kết quốc tế, vừa tranh thủ, vừa đấu tranh để thực hiện mục tiêu của
cách mạng, bảo vệ quyền lợi của dân tộc. Đây là một nguyên lý cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động quốc tế và
ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày 3 tháng 8 năm 1956, giữa lúc các đảng cộng sản và cơng nhân
quốc tế có bất đồng về vấn đề độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết trên báo Sự thật (Liên Xô) nêu bật mối quan hệ biện chứng
giữa hai yếu tố đó: Trong tình hình quốc tế hiện nay, những đặc điểm dân tộc
và những điều kiện riêng biệt ở từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan
trọng trong việc vạch ra chính sách của mỗi đảng cộng sản và mỗi đảng công
nhân… nhưng đồng thời Đảng chúng tôi cũng hiểu rõ rằng không thể nào hạn
chế những hoạt động hiện nay và tương lai của chúng tôi trong khuôn khổ dân


12

12

tộc thuần t, rằng những hoạt động đó có mn vàn sợi dây liên hệ với cuộc
đấu tranh chung của thế giới tiến bộ.

2.2. Coi trọng và xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn và đánh giá
tác động của cục diện giữa các nước lớn đến nước ta.
Trong lịch sử thế giới, chiến lược của các nước lớn và quan hệ đấu
tranh, thoả hiệp giữa họ với nhau thường chi phối tình hình thế giới và quan
hệ quốc tế. Các cuộc chiến tranh thế giới nổ ra trong thế kỷ XX đều bắt nguồn
từ những mâu thuẫn khơng thể điều hồ được giữa các nước lớn, lơi kéo các
nước khác vào dịng xốy của cuộc chiến. Sự dàn xếp, thoả hiệp giữa họ với
nhau thường được tiến hành trên lưng các nước nhỏ yếu, vì lợi ích của riêng
họ, dễ dàng hy sinh quyền lợi của các nước nhỏ yếu, kể cả đồng minh. Tuy
nhiên, nếu các nước nhỏ có đối sách đúng đắn, biết khai thác những mối quan
hệ tuỳ thuộc, biết ứng xử khôn khéo, linh hoạt và kịp thời thì có thể hạn chế
được những thoả hiệp giữa các nước lớn bất lợi cho mình. Phương pháp xử lý
của Bác là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Điểm “bất biến” của Bác là bảo đảm
lợi ích cơ bản của dân tộc.
2.2.1.Coi trọng quan hệ với các nước lớn và xử lý đúng đắn mối quan
hệ với các nước lớn, vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Sớm thấy rõ tầm quan trọng của các nước lớn trong quan hệ quốc tế
cũng như đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước
của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ với các nước lớn
và việc xử lý đúng đắn quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Và điều đó
diễn ra trong mọi hồn cảnh: ta bị đối phương bao vây, khơng có quốc gia đồng
minh nào giúp đỡ cũng như trong hoàn cảnh ta có đồng minh là các nước xã
hội chủ nghĩa. Ngày 3 tháng 10 năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ ra thơng cáo về chính sách ngoại giao của nước Việt Nam Dân


13

13


chủ Cộng hịa, nêu rõ: chính sách ngoại giao của Việt Nam được xây dựng trên
cơ sở thực tiễn Việt Nam, tình hình quốc tế, thái độ của các “liệt quốc”.
2.2.2.Thêm bạn, bớt thù, tranh thủ đồng minh dù bấp bênh, có điều
kiện, tránh cùng một lúc đối đầu với nhiều nước lớn, phân hóa hàng ngũ
đối phương.
Trong khi nhấn mạnh tinh thần tự lực, tự cường và biết rõ bản chất của
các nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất coi trọng việc thiết lập và phát
triển quan hệ với các nước lớn với tinh thần “không gây thù ốn với một ai”
và “tìm kiếm bạn đồng minh dầu rằng tạm thời bấp bênh, có điều kiện”. Đối
với các nước lớn, Hồ Chí Minh chủ trương tránh đối đầu chừng nào cịn có
thể tránh được, cố gắng tìm ra điểm tương đồng với họ, lợi dụng mâu thuẫn
và khác biệt giữa họ với nhau, xử lý khôn khéo, linh hoạt để phân hoá hàng
ngũ đối phương, tránh bị kẹp trong xung đột giữa các nước lớn và hết sức
tránh cùng một lúc đối đầu với nhiều nước lớn. Điển hình của đối sách trên là
sách lược hịa với Tưởng để chống Pháp ở miền Nam và sau đó hòa với Pháp
để đuổi quân Tưởng về nước trong thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám.
Phương châm xử lý quan hệ với các nước lớn là “dàn xếp sao cho đại sự thì
thành tiểu sự và tiểu sự thì thành vô sự”. Việc coi trọng quan hệ với các nước
lớn được thể hiện nhất quán trong nhiều thời kỳ và hoàn cảnh khác nhau:
Trong thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Bác tìm cách liên hệ với lực lượng
đồng minh Mỹ đóng ở Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ chống phát
xít Nhật. Sau khi cách mạng thành cơng Bác vẫn tìm cách hồ hỗn với Pháp
- Tưởng, tránh đối đầu để bảo toàn và xây dựng lực lượng; chỉ đánh khi thấy
khơng cịn khả năng hồ hoãn. Trong thời kỳ kháng chiến ác liệt chống thực
dân Pháp, Bác vẫn phân biệt giữa nhân dân tiến bộ Pháp và bọn thực dân
Pháp, vẫn tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Pháp đối với cuộc kháng chiến
của nhân dân ta. Cũng như vậy trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước,


14


14

Bác tranh thủ nhân dân tiến bộ Mỹ, tuyên bố sẵn sàng trải thảm đỏ để Mỹ rút
quân khỏi Việt Nam, tranh thủ vai trị của Pháp để phân hố Pháp với Mỹ.
Cách xử lý của Bác với các nước lớn trong thời kỳ trước và sau cách mạng,
đặc biệt trong bối cảnh ta chưa có đồng minh, là bài học mẫu mực về hồ
hỗn và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương.
2.2.3.Hết sức tranh thủ, đoàn kết với các nước lớn anh em song
khơng vì vậy mà từ bỏ đấu tranh.
Từ khi thiết lập được mối quan hệ ngoại giao với phe xã hội chủ nghĩa,
Bác rất quan tâm phát triển mối quan hệ mật thiết với Liên Xô và Trung
Quốc. Nhờ mối quan hệ tốt đẹp đó Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ
to lớn về vật chất và tinh thần của hai nước lớn anh em. Song trong bối cảnh
mâu thuẫn Xô - Trung, ta vừa phải xử lý hài hoà vấn đề chủ nghĩa quốc tế xã
hội chủ nghĩa và lợi ích dân tộc giữa ta với các nước trên, vừa phải xử lý vấn
đề giữa hai nước lớn anh em với nhau. Bác đã nêu nguyên tắc: Mục đích của
ta là vì đồn kết. Vì đồn kết mà phải tranh đấu. Tranh đấu để đi đến đồn kết
chứ khơng nói xấu ai… Phải làm sao cho trong Đảng và trong nhân dân giữ
được lòng yêu mến và biết ơn các nước bạn anh em…, đó là “thiên kinh địa
nghĩa”, đồng thời không nên coi bất đồng là chuyện lạ, xử lý quan hệ với các
nước lớn trên nguyên tắc độc lập tự chủ, không thiên vị, không “nhất biên
đảo”.
2.3. Coi trọng việc đánh giá cục diện quan hệ giữa các nước lớn và tác
động của cục diện đó đến nước ta.
Để xử lý tốt quan hệ với các nước lớn, điều quan trọng trước tiên là
theo dõi đánh giá cục diện các nước lớn và tác động của nó đến sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Hồ Chí Minh am hiểu các nước lớn là đồng minh
cũng như là đối phương, biết được lợi ích, mối quan tâm và chiến lược cơ bản



15

15

của họ, hiểu bản chất của nền chính trị ngoại giao nước lớn, giới hạn của các
mối quan hệ đó và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nó đến ta để đề ra
những đối sách đúng đắn, kịp thời. Từ năm 1941, khi phát xít Nhật chiếm
đóng Đơng Dương và chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, nhiều nước lớn
cùng nhịm ngó Việt Nam và Đơng Dương, Việt Nam phải xử lý quan hệ với
các nước lớn trong tổng thể mối quan hệ tương tác phức tạp, luôn biến đổi
giữa họ với nhau và giữa từng nước với ta, cả về mặt lợi ích cũng như so sánh
lực lượng. Sự biến đổi nêu trên tạo ra sự phân hố nhiều khi rất nhanh chóng
trong quan hệ giữa các nước lớn, mang lại cho sự nghiệp cách mạng của
chúng ta những nguy cơ mới cùng những thời cơ mới. Ngay từ thời kỳ này,
Bác chủ trương chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng nắm bắt khi thời cơ đến. Phân
tích kỹ các mặt thống nhất và mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô và
Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) và tác động của nó đến cách mạng Đơng
Dương, Nghị quyết Hội nghị tồn quốc Đảng Cộng sản Đơng Dương họp ở
Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945 nêu rõ: “Sự mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ,
Pháp và Liên Xơ có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho
Pháp trở lại Đơng Dương”, “Chính sách chúng ta là phải tránh cái trường hợp
một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh (Tàu, Pháp, Anh, Mỹ) tràn
vào nước ta và đặt chính phủ của Pháp Đờ Gơn hay một chính phủ bù nhìn
khác trái với ý nguyện dân tộc”, “Bởi vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên
Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương
và mưu mô của một số quân phiệt Tàu định chiếm nước ta”. Song Đảng ta cũng
xác định: Đừng ảo tưởng rằng: quân Tàu và quân Anh, Mỹ sẽ mang lại tự do cho
ta. Khơng, trong cuộc chiến đấu giải phóng cho ta, cố nhiên là phải kiếm bạn
đồng minh dầu rằng tạm thời bấp bênh, có điều kiện, nhưng cơng việc của ta

trước hết ta phải làm lấy. Phân tích đúng đắn đó đã giúp Đảng ta có một chiến
lược và sách lược khơn khéo cùng một lúc đối phó được với nhiều kẻ thù đang


16

16

âm mưu xâm lược nước ta, nắm bắt thời cơ giành thắng lợi trong Cách mạng
tháng Tám và bảo vệ thành cơng chính quyền non trẻ.
2.4. Kết hợp sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh của thời đại,
dân tộc với quốc tế, tập hợp lực lượng nhiều tầng nấc khác nhau, tạo thế đứng
vững chắc cho ta trong quan hệ với các nước lớn
Trên phạm vi thế giới, sức mạnh quốc tế có được nhờ những tập hợp
lực lượng khác nhau trên cơ sở tương đồng về một lợi ích nhất định. Đối với
một nước nhỏ bé như ta khi đối mặt với một nước lớn, điều hết sức quan
trọng là tìm ra điểm tương đồng về lợi ích để tập hợp lực lượng rộng rãi, phục
vụ cho lợi ích của ta. Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng và Bác
Hồ chủ trương: “Ai làm cách mạng trên thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả” và sau khi giành được chính quyền: “Mục đích của ta lúc này là tự
do, độc lập… bạn của ta trong giai đoạn này tất cả những nước nào, những
dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục đích ấy, cùng ta chung
một ý chí ấy” .
Để huy động được triệt để các nguồn lực nêu trên, trong hoạt động
ngoại giao với các nước lớn, Hồ Chí Minh đã sử dụng tổng hợp nhiều biện
pháp ngoại giao: lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, thêm bạn
bớt thù… và đặc biệt là ngoại giao tâm cơng. Phát huy truyền thống ngoại
giao hồ hiếu của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh triệt để sử dụng ngoại giao
tâm công: với bạn bè thể hiện tình cảm chân thành, vừa là đồng chí, vừa là
anh em, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác, với đối phương khẳng định ý chí quyết

tâm nêu cao chính nghĩa, lẽ phải, thức tỉnh lương tâm đồng thời tỏ rõ thiện chí
hồ bình, hợp tác cùng có lợi, quan tâm đến những lợi ích của đối phương
khơng trái với lợi ích cơ bản của dân tộc ta. Hồ Chí Minh chú trọng tranh thủ
cá nhân, bạn bè quốc tế bằng những cử chỉ tượng trưng hoặc xử lý tinh tế


17

17

thấm đậm tình người. Như trên đã nêu, nước ta không lớn, tiềm lực vật chất
của ta rất hạn chế. Song ta có chính nghĩa, có sức mạnh to lớn về tinh thần. Ở
xuất phát điểm trong một cuộc xung đột về lợi ích với một nước lớn, cán cân
lực lượng thường nghiêng về phía đối phương. Muốn đạt được thắng lợi, ta
phải biết giành thắng lợi từng bước, để củng cố và phát triển thực lực, từng
bước thay đổi tiến đến thay đổi hoàn toàn cán cân lực lượng, giành thắng lợi
hoàn toàn. Trong thời kỳ cách mạng mới giành được chính quyền, ta đồng ý
ký với Pháp “Việt Nam là một nước tự do trong Khối Liên hiệp Pháp” để có
thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu giành lại độc lập.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta đã chủ trương đánh lùi từng
bước, đánh đổ từng bộ phận quân địch, ký Hiệp định Pari để quân đội Mỹ rút
đi mà quân đội miền Bắc vẫn ở lại miền Nam, góp phần làm thay đổi tương
quan lực lượng trên chiến trường, tạo điều kiện để đánh đổ ngụy quyền Sài
Gịn, giải phóng hồn tồn miền Nam.
Như vậy có thể thấy, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường; coi trọng quan hệ
với các nước lớn; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại,
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh quốc tế; giành thắng lợi từng bước tiến
tới giành thắng lợi hoàn toàn là một số bài học lớn của tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh, được thực hiện một cách có hiệu quả trong thời kỳ thế giới chia
làm hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập, cả khi nước ta còn bị các nước đế

quốc bao vây, cô lập thời kỳ đầu cách mạng, lẫn khi nước ta có đồng minh là
các nước xã hội chủ nghĩa.
III. VIỆC THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ
MINH TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY.
Từ giữa thập niên 1980, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu bước vào khủng hoảng nghiêm trọng và lần lượt từ bỏ con đường xã hội


18

18

chủ nghĩa. Với sự sụp đổ của Liên bang Xôviết, cục diện thế giới đã có những
thay đổi cơ bản. Hình thái thế giới chia làm hai hệ thống đối lập khơng cịn
nữa. Mâu thuẫn Đơng - Tây khơng cịn là nhân tố bao trùm quan hệ quốc tế.
Nguy cơ chiến tranh thế giới giảm đi nhưng mâu thuẫn, xung đột sắc tộc, tôn
giáo, xung đột khu vực vẫn nổi lên mạnh mẽ. Mỹ là siêu cường duy nhất còn
lại, trong khi đó Trung Quốc và nhiều nước khác lớn mạnh cũng vươn lên
khẳng định vị trí của mình. Ưu thế của siêu cường Mỹ (tuy có giảm sút), sự
trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, sự phục hồi của Nga, thế mạnh ổn định
của EU, Nhật Bản cùng sự vươn lên của Ấn Độ là những nhân tố nổi bật chi
phối cục diện thế giới. Đây cũng là thời kỳ mà cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật công nghệ phát triển mạnh, làm thay đổi cơ cấu sản xuất. Hàm lượng tri
thức giữ vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế thế giới. Q trình tồn cầu hố
diễn ra nhanh chóng. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng Đảng ta đã gắn nhận
định về tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn của thời đại để xác định mục
tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đối ngoại trong những năm tới. “Trong 5 năm tới, tình
hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực
tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hịa bình, độc lập dân tộc,

dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có khu vực Đơng Nam Á đã trở thành một cộng đồng, là
trung tâm phát triển năng động nhưng cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược
giữa một số nước lớn. Đây cũng là khu vực có nhiều nhân tố bất ổn định,
tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trên Biển Đơng cịn diễn ra gay gắt.
Các nước lớn đang điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh
tranh đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến tình hình thế giới và
khu vực. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên,
uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao; tuy nhiên vẫn còn


19

19

nhiều khó khăn, thách thức”. Nhận thức của Đảng ta về tình hình thế giới, tình
hình khu vực cũng ln đổi mới và sát thực tiễn trong giai đoạn mới, đây là
một trong những cơ sở trực tiếp để Đảng ta đưa ra quyết sách về đường lối
đối ngoại cho phù hợp trong những năm tới. Đảng ta đã nhận định: “Nhận
thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà
nước đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn, kịp thời trên cơ
sở lợi ích quốc gia - dân tộc”.
Tuy nhiên thực tiễn hiện nay cho thấy vẫn còn khơng ít một vài nước
lớn lợi dụng thế mạnh của mình, thế hịa hỗn, thỏa hiệp giữa họ với nhau để
gây chiến tranh, xung đột chống nước nhỏ hoặc yếu dưới danh nghĩa “lợi ích
quốc gia”. Trong bối cảnh đó, xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn tiếp tục
là yêu cầu bức thiết của ta nhằm thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ đất nước trong giai đoạn mới, trong đó quan hệ với Trung Quốc và Mỹ
giữ vai trò hết sức quan trọng. Có thể nói những nguyên lý, phương pháp cơ
bản của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh vẫn cịn ngun giá trị trong việc

xử lý quan hệ với các nước lớn, nhưng cần được tiếp tục áp dụng một cách
sáng tạo trong tình hình mới, nhất là các vấn đề sau:
3.1.Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, xử lý hài hồ lợi ích dân tộc và lợi
ích quốc tế.
3.1.1. Nâng cao nhận thức về lợi ích dân tộc
Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và chính sách của ta là
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hồ bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
đối ngoại trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hợp
tác hai bên cùng có lợi. Đây là lợi ích dân tộc đồng thời là nội hàm của việc


20

20

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều đó cho
thấy cũng như giai đoạn trước đây, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp của
chúng ta là thống nhất.
Mặt khác, chủ nghĩa xã hội hiện nay đang ở giai đoạn thoái trào. Bản thân
việc tồn tại và xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
một đóng góp lớn cho chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Tất cả những điều trên khẳng định tính chính đáng và tính giai cấp của việc
bảo vệ lợi ích dân tộc của ta. Cần nhấn mạnh rằng ngày nay thế giới khơng
cịn chia thành hai phe đối lập nhau. Các nước lớn vừa hợp tác vừa đấu tranh
với nhau trong cùng tồn tại hồ bình. Đảng ta đã chỉ rõ hai mặt đối tượng và
đối tác trong quan hệ với mỗi nước lớn và chủ trương đa dạng hoá, đa phương
hoá. Tuy nhiên đến nay một số người vẫn giữ thói quen nhìn nhận và xử lý
các vấn đề với các nước lớn theo tư duy đơn giản một chiều như trước đây, do

cảm tính ý thức hệ.
Trong tình hình mới, nhân tố ý thức hệ và đạo lý trong quan hệ quốc tế
vẫn có tác dụng nhất định và cần được tiếp tục phát huy nhằm thúc đẩy tình
đồn kết hữu nghị với một số nước bạn bè truyền thống và thức tỉnh lương tri,
công lý trong dư luận các nước lớn khác. Tuy nhiên, cũng cần ý thức rõ rằng,
trước đây ý thức hệ đã không ngăn được chiến sự biên giới nổ ra ở Việt Nam
và cũng không ngăn được cuộc xung đột qn sự Xơ - Trung, thì ngày nay khi
thế giới khơng cịn chia làm hai phe đối lập về ý thức hệ (kể cả Trung Quốc
cũng chủ trương phi ý thức hệ trong quan hệ quốc tế), chúng ta càng cần
không để những định kiến về ý thức hệ làm lu mờ, bng lỏng lợi ích dân tộc
chính đáng của ta. Điều hết sức quan trọng là chúng ta cần bảo vệ và nâng cao
hơn nữa sự đồn kết nhất trí trong tồn Đảng, tồn qn và tồn dân trong sự
nghiệp chính nghĩa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân tố quyết định sự thành


21

21

công này của cách mạng Việt Nam cần được biểu thị mạnh mẽ trong các thời
điểm trọng yếu, nhất là trước sự đe dọa của các nước lớn đối với độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.
3.1.2. Nhìn nhận, xử lý vấn đề quan hệ với các nước lớn xuất phát từ
vị trí và lợi ích dân tộc của Việt Nam, xử lý hài hoà lợi ích dân tộc và lợi
ích quốc tế
Hiện nay, đấu tranh và thoả hiệp giữa các nước lớn rất phức tạp, có thể
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến nước ta. Do vậy, cần hết sức thận trọng
và đứng trên vị trí và lợi ích của ta để nhìn nhận, xử lý các vấn đề giữa họ với
nhau và với ta. Phải xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của mình với việc tranh thủ các nước lớn, khơng vì tranh

thủ hoặc vì ý thức hệ mà hy sinh quyền lợi dân tộc. Ngược lại, cũng cần linh
hoạt, khéo léo để tránh đối đầu, đổ vỡ khi bảo vệ lợi ích dân tộc trước các
nước lớn. Cần tiếp tục thể hiện tính độc lập tự chủ, khơng đi với nước này
chống nước kia, đồng thời rất cảnh giác ngăn ngừa khả năng các nước lớn
thoả hiệp, mua bán, đổi chác với nhau về những vấn đề liên quan đến lợi ích
quốc gia của ta.
Mặt khác, trong các vấn đề quốc tế, dù có liên quan hoặc khơng liên
quan trực tiếp đến ta, ta đều cần kiên trì bảo vệ nguyên tắc tơn trọng độc lập,
chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào nội bộ của nhau, hồ bình
giải quyết các tranh chấp quốc tế để ngăn ngừa các nước lớn xâm phạm độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta. Cần ý thức rằng ta là một nước
nhỏ, hay bị nước lớn bắt nạt, nhưng bên ta cịn có cộng đồng quốc tế. Bảo vệ
các ngun tắc trên chính là tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối
với sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ta. Việc
tranh thủ các nước lớn trong các sự kiện liên quan đến độc lập, chủ quyền và


22

22

toàn vẹn lãnh thổ của nước thứ ba cần được cân nhắc, xử lý khéo léo, không
nên trái với các nguyên tắc trên.
3.2. Vận dụng sức mạnh tổng hợp của đất nước và của quốc tế trong
quan hệ với các nước lớn
3.2.1. Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước
Quan hệ của nước ta với các nước lớn đã đi vào giai đoạn phát triển
mới, sâu rộng hơn, nhưng cũng phức tạp hơn. Các mối quan hệ chính trị, kinh
tế, an ninh, quốc phòng đan xen nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó cần
tạo dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước mới có thể giành được thế chủ

động trong quan hệ với các nước lớn. Sức mạnh này trước hết là sự đồn kết
nhất trí trong mục tiêu chung, đặc biệt là sự nhất trí về nhận thức và sự phối
hợp nhịp nhàng giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các ngành hữu quan, giữa
trung ương và địa phương. Trong thời đại tồn cầu hố, khi các yếu tố đối nội
và đối ngoại gắn chặt với nhau và có sự tham gia ngày càng lớn của nhân dân,
thì việc huy động khối đại đồn kết dân tộc cho những mục tiêu đối ngoại là
cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, ngoại giao phải tăng cường thông tin, tuyên
truyền và giải quyết tốt những yêu cầu thiết thực của nhân dân liên quan tới
đối ngoại thì mới có thể nhận được sự tham gia ủng hộ của đơng đảo nhân dân
ở trong cũng như ngồi nước. Điều đó cũng địi hỏi ngành ngoại giao phải đi
sâu hồn thiện các biện pháp, tổ chức và nhân sự để triển khai trên tất cả các
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, tuyên truyền, lãnh sự, Việt kiều…
3.2.2. Tạo địn bẩy về lợi ích, tạo thế đan xen về lợi ích, tạo thế cân
bằng động giữa các nước lớn, tạo cơ hội đi đôi với nắm bắt cơ hội.
Trong thời đại tồn cầu hóa hiện nay, mối quan hệ tùy thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia ngày càng tăng. Đây vừa là một lợi thế, vừa là một giới hạn
đặt ra đối với các nước lớn trong tổng thể mối quan hệ của họ với các nước


23

23

khác. Nếu ta biết tăng cường một cách hợp lý các lợi ích của từng nước lớn
trong quan hệ với ta, làm cho quan hệ hợp tác với các nước lớn phát triển lành
mạnh thì sẽ góp phần giảm thiểu tác động của các nhân tố tiêu cực từ họ đối
với ta. Đây thực chất là thông qua những nhân tố chủ quan để tạo cơ hội cho
vị thế đối ngoại của đất nước. Bối cảnh hòa dịu hiện nay giữa các nước lớn là
cơ hội tốt, cần nắm bắt để ta triển khai theo hướng trên.
Ta cần tận dụng mạnh mẽ hơn nữa xu thế này bằng cách tạo ra thế đan

xen về lợi ích, vừa tận dụng các thế mạnh riêng của từng nước phục vụ cho
công cuộc xây dựng đất nước, vừa gắn lợi ích của họ với việc duy trì hồ bình
và ổn định ở nước ta. Đến nay, với việc mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài,
đặc biệt là đầu tư của một số nước lớn, ta đã bước đầu tạo được thế đan xen
lợi ích, nhưng chưa có cơ chế tính tốn, xem xét để bảo đảm có sự cân đối hài
hồ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị và triệt để sử dụng lợi ích kinh tế
(đầu tư, thương mại) làm địn bẩy cho quan hệ chính trị và ngược lại. Ta cũng
cần có cơ chế tốt hơn để xem xét cân đối hài hòa về mặt tổng thể lợi ích giữa
các nước lớn.
3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao tâm công với trọng tâm là các
nước lớn
Để các yếu tố trên phát huy được hết hiệu quả, ta cần đẩy mạnh ngoại
giao tâm công, thuyết phục dư luận, tranh thủ chính giới và các cá nhân có thế
lực để tranh thủ cảm tình của dư luận, qua đó tác động vào chính sách của các
nước đối với ta. Muốn vậy, ta cần có chương trình và phân vai cụ thể hơn giữa
các cơ quan đối ngoại trong hoạt động với từng nước lớn, tăng cường các
kênh tiếp xúc khác nhau để giúp cho các bên thông hiểu nhau hơn và phát
triển tình cảm hữu nghị trong dư luận các nước.


24

24

3.3. Tăng cường các hình thức liên kết khu vực và hợp tác quốc tế, tạo
thế đứng cho ta trong quan hệ với các nước lớn
3.3.1. Đẩy mạnh liên kết khu vực.
Hiện nay với Hiến chương ASEAN vừa được thông qua, ta đã mở rộng
hợp tác với các nước ASEAN trên cả ba trụ cột: kinh tế, chính trị - an ninh và
văn hóa - xã hội. Như vậy sau lĩnh vực kinh tế, ta đã có liên kết mới về vấn đề

an ninh quốc phòng, dù ở mức độ thấp, là cơ sở để nước ta tăng cường hợp
tác về an ninh quốc phịng với các nước Đơng Nam Á, củng cố thế đứng của
ta trước các nước lớn. Trên cơ sở đó, ta cần bổ sung nội hàm bằng sự hợp tác
song phương để tăng cường tiềm lực quân sự của ta cũng như để giải quyết
các tranh chấp, nhất là về biên giới lãnh thổ với các nước ASEAN, góp phần
thúc đẩy đàm phán với Trung Quốc.
3.3.2.Tích cực tham gia vào các thiết chế quốc tế.
Cùng với các nước lớn, các thiết chế quốc tế cũng là những tác nhân giữ
vai trò ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc tế. Tham gia đầy đủ và hoạt
động tích cực hơn tại các tổ chức quốc tế sẽ giúp nước ta có vai trị lớn hơn trong
các cơ chế quyết định chính sách quốc tế, qua đó đạt được nhiều khả năng bảo
vệ lợi ích dân tộc của ta hơn, đặc biệt là trước các nước lớn. Việc tham gia Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc là một kinh nghiệm tốt để ta tiếp tục mở rộng hoạt
động ra các thiết chế chính trị, kinh tế quốc tế quan trọng khác. Việc tham gia
đầy đủ và tích cực nói trên địi hỏi chúng ta phải nắm vững, tiến đến sử dụng
nhuần nhuyễn “luật chơi” của các thể chế quốc tế. Muốn vậy, chúng ta cần có kế
hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu về tổ chức quốc tế và các lĩnh vực
chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của Bộ Ngoại giao và hướng tới ứng cử vào các
vị trí then chốt trong các tổ chức quốc tế.
3.4. Tăng cường thực lực, chuẩn bị cho các tình huống xấu


25

25

Tình hình thế giới trong tương lai diễn biến nhanh chóng và khó lường.
Tuy hịa bình, hợp tác để tập trung phát triển kinh tế vẫn là xu hướng chủ đạo,
song không loại trừ khả năng một nước lớn lợi dụng tiềm lực chính trị, kinh tế,
quân sự áp đảo cũng như khả năng các nước lớn thực hiện chính sách hịa hỗn,

phụ thuộc lẫn nhau để chèn ép nước nhỏ, xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của ta. Vì vậy, chúng ta cần nâng cao cảnh giác và có bước đi thích
hợp từ nay đến năm 2020 để củng cố tiềm lực của ta, không để bị động, bất ngờ
trước các thách thức mới.

C. KẾT LUẬN
Bảo đảm lợi ích dân tộc trong quan hệ với các nước lớn là một vấn đề
phức tạp, khó khăn, nhưng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xử lý một cách
khôn khéo, nhuần nhuyễn trong một thời kỳ đầy biến động, góp phần cực kỳ
quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thời gian đã trôi qua và
thế giới đã chứng kiến nhiều sự thay đổi. Nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về
ngoại giao nói chung và về bảo đảm lợi ích dân tộc trong quan hệ với các
nước lớn nói riêng là những bài học quý báu cho đến nay vẫn còn giá trị. Bản
chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là sáng tạo. Chúng ta cần nắm vững những
nguyên lý trên của Người và bổ sung cho nó những nội hàm mới trong tình
hình mới để tiếp tục bảo đảm lợi ích dân tộc của ta, đồng thời phát triển quan
hệ với các nước, đặt biệt là các nước lớn, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.


×