Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận cao học, vai trò của gia đình trong việc nhận thức và thực hiện bình đẳng giới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.27 KB, 22 trang )

MỤC LỤC


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Tiểu Luận
Bình đẳng là biểu hiện của văn hoá trong đời sống con người, có bình
đẳng trong gia đình mới thực sự có bình đẳng trong xã hội. Tại Việt Nam,
nhiều năm qua cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, vai trò và địa
vị của người phụ nữ ngày được nâng cao.
Cụ thể, ở Điều 18 Luật Bình đẳng giới đã nêu: “Vợ, chồng bình đẳng với
nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hơn nhân và gia
đình; có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng
trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn
lực trong gia đình; bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa
chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hố gia đình phù hợp; sử dụng thời gian
nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật; con trai, con gái được gia
đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui
chơi, giải trí và phát triển; các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách
nhiệm chia sẻ cơng việc gia đình”.
Tuy nhiên, trên thực tế định kiến về giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ
vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong mỗi gia đình và một bộ phận dân cư trong
xã hội Việt Nam. Do đó, để xây dựng gia đình hạnh phúc là điều mà mỗi gia
đình đều có thể thực hiện được nếu vợ chồng hiểu và chia sẻ với nhau trong
cuộc sống. Người phụ nữ phải có ý thức tự vươn lên để học hỏi và phát triển.
Đồng thời, người chồng cũng phải có ý thức hỗ trợ và khuyến khích, tạo điều
kiện cho người vợ. Trong gia đình, vợ chồng thương u, tơn trọng lẫn nhau
thì con cái mới được chăm sóc đầy đủ và cảm nhận được sự ấm êm, hạnh
phúc. Giáo dục bình đẳng giới trong gia đình phải nêu gương từ chính những
người cha, người mẹ để con trẻ noi theo, đó sẽ là nền tảng vững chắc để thực


hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình Việt Nam hiện nay.


2

Xuất phát từ ý nghĩa đó, tơi chọn đề tài làm Tiểu luận là "Vai trị của gia
đình trong việc nhận thức và thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam".
2. Mục đích nghiên cứu
Nhận thức về vai trị của gia đình trong việc nhận thức và thực hiện bình
đẳng giới ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp để góp phần nâng cao
hiệu quả việc nhận thức và thực hiện chính sách bình đẳng giới của Đảng và
Nhà nước ta trong thời gian tới trong khía cạnh gia đình.
3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu về bình đẳng giới và tầm quan trọng của BĐG trong gia đình.
- Nhận thức về vai trị của gia đình trong việc nhận thức và thực hiện
bình đẳng giới ở Việt Nam.
- Mối liên hệ giữa nhận thức tới thực hiện bình đẳng giới thơng qua vai
trị của gia đình.
- Đề xuất giải pháp thực hiện trong thời gian tới nhằm đạt hiệu quả hơn.
3.2. Về đối tượng:
Tiểu luận nghiên cứu đánh giá vai trò của gia đình trong nhận thức và
thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tìm hiểu
các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp xử lý thông tin...
5. Cấu trúc Tiểu luận
A. Mở đầu

B. Nội dung
C. Kết luận


3

B. NỘI DUNG
I. BÌNH ĐẲNG GIỚI, TẦM QUAN TRỌNG CỦA BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG GIA ĐÌNH
1. Bình đẳng giới
Trong Luật Bình đẳng giới (2006) của Việt Nam viết: “Bình đẳng giới là
việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát
huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
2. Tầm quan trọng của bình đẳng giới trong gia đình
Bình đẳng nam, nữ là nền tảng văn hố của con người, của gia đình và
hạnh phúc. Phụ nữ bình đẳng với nam giới khơng chỉ góp sức cho xã hội giàu
mạnh, văn minh mà trong gia đình là ngọn nguồn của hạnh phúc, đã sản sinh
và ni dưỡng thế hệ trẻ tốt đẹp. Vai trị của phụ nữ được phát huy bình đẳng
trong xã hội và trong gia đình, mang một ý nghĩa lớn đối với sự giữ gìn và
phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và truyền thống văn hố
của dân tộc. Văn hố gia đình là nền tảng của văn hố xã hội, ở đó vai trị của
người phụ nữ với chức năng sàng lọc và giữ gìn văn hố dân tộc mang ý
nghĩa đặc biệt. Để phụ nữ làm được chức năng quan trọng này với gia đình và
dân tộc, trước hết họ phải được bình đẳng để tiến bộ và theo kịp thời đại.
Trong cuộc sống đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng và Nhà nước ta lấy dân làm gốc, lấy việc trồng người để mưu cầu
lợi ích trăm năm. Trồng người là sự nghiệp tạo dựng thế hệ công dân mới có
đức, có tài, thể lực tốt mà gia đình là cái nơi ban đầu và người mẹ đồng thời
cũng là người thầy dạy con ngay từ thời mới cịn chập chững. Khơng phải

ngẫu nhiên mà phương Đơng ta đề cao Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nguyễn Du
có câu "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài". Trong dân gian truyền tụng câu
"Làm mẹ phải biết để đức cho con", đức thuộc phạm trù văn hoá.


4

Người mẹ Việt Nam thời đại hôm nay đứng trước sứ mệnh sàng lọc và
truyền nối để bảo vệ nền văn hố dân tộc, trước tiên gia đình mình phải là
người có đức, có trí, có lực. Họ phải được bình đẳng thì mới đạt được những
chuẩn mực mang nội dung thời đại để từ đó xây dựng hạnh phúc gia đình,
ni dưỡng con cái trở thành con người mới, cơng dân mới xã hội chủ nghĩa.
Trong gia đình, vợ chồng thương u, tơn trọng lẫn nhau thì con cái mới được
chăm sóc đầy đủ và cảm nhận được sự ấm êm, hạnh phúc, luôn luôn là điểm
tựa cho con người vượt qua mọi thử thách.
Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại,
đặc biệt là ở cuộc sống hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa hiện nay. Bình đẳng
giới trong gia đình là mơi trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em
được đối xử bình đẳng, được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động
bình đẳng; bình đẳng giới trong gia đình là tiền đề quan trọng cho sự thành
cơng trong việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ em; bình đẳng giới trong
gia đình góp phần tăng chất lượng cuộc sống của các thành viên gia đình, góp
phần tăng trưởng kinh tế đất nước và bình đẳng giới trong gia đình góp phần
giải phóng phụ nữ và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững.
3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết bình đẳng giới
3.1. Chính sách tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận việc làm, tham gia chính
trị cho cả nam và nữ:
Tính đến tháng 1/2015, thế giới có 22% số nghị sỹ tồn cầu là nữ và 19
nước có phụ nữ là người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ (Theo Tổ chức
Phụ nữ Liên hợp quốc và IPU). Ở những quốc gia này họ rất quan tâm và tạo

ra nhiều cơ hội cho phụ nữ phát triển, nổi bật là:
- Cơ hội học tập để nâng cao trình độ, năng lực. Theo UNESCO có 32%
quốc gia tỷ lệ nữ sinh viên cao hơn nam sinh viên (Phần Lan, Nhật, Pháp, Na
Uy, Thụy Điển …).


5

- Chính sách hỗ trợ nữ giới về cơng việc gia đình, coi cơng việc gia đình
là trách nhiệm của vợ, chồng, của Nhà nước, đặc biệt là chăm sóc con cái.
- Hỗ trợ khung pháp lý trong bầu cử, tuyển dụng … bảo đảm tỷ lệ bình
đẳng với nam giới và coi đó là yêu cầu bắt buộc đối với cơ quan Nhà nước.
3.2. Khuyến khích sự san sẻ của nam giới về trách nhiệm gia đình:
Hiện tại ở nhiều quốc gia phát triển, chính sách thai sản rất được coi
trọng, vì nó ảnh hưởng tích cực trực tiếp tới chất lượng cuộc sống của các bà
mẹ, trẻ em và bình đẳng giới. Cụ thể là Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch … là
các quốc gia có chất lượng sống cho các bà mẹ tốt nhất, với tỷ lệ tử vong của
các bà mẹ và trẻ em thấp, dịch vụ chăm sóc y tế cao, chế độ nghỉ thai sản khá
rộng rãi. Khi phụ nữ ở các nước này nghỉ sinh con thì họ vẫn được nhận
lương cả năm. Những nỗ lực đó đã đưa tới kết quả chỉ số bình đảng giới
(GDI) của họ ln ở thứ bậc dẫn đầu trên thế giới trong nhiều năm qua.
Đây cũng là kinh nghiệm mà Việt Nam cần xem xét, nghiên cứu trong
quá trình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
II. VAI TRỊ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC NHẬN THỨC VÀ
THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau về các đặc điểm
giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới. Bình đẳng giới là nam giới và
nữ giới cùng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau; cùng được tạo
điều kiện và cơ hội để phát huy khả năng và thực hiện các mong muốn của
mình; cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực

của xã hội và quá trình phát triển. Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật,
về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận
nguồn lực, bình đẳng cho thù lao trong cơng việc, bình đẳng trong việc hưởng
thụ các thành quả, bình đẳng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến
bản thân, gia đình và xã hội (bình đẳng trong tiếng nói). Thế giới đã trải qua


6

hơn 100 năm của chặng đường bình đẳng giới. Nhìn lại những thành tựu và
những tồn tại hiện nay của chặng đường đó, cả nhân loại phải thừa nhận thành
quả của bình đẳng giới đã góp phần rất quan trọng vào sự tiến bộ chung của
thế giới.
Bình đẳng giới là cần thiết và có thể thực hiện được. Ở Việt Nam, vấn đề
bình đẳng giới đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và được đánh giá là
một động lực và mục tiêu phát triển quốc gia. Các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã được cụ thể hóa trong Luật Bình
đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ
họp thứ 10 thơng qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
1/7/2007. Bên cạnh đó, ngày 24/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020. Chiến lược có mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ
bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và
thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào
sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.
Gia đình là nơi định hình các quan hệ giới, truyền tải những chuẩn mực
về giới và quyết định những cơ hội cho các thành viên gia đình. Gia đình là
nơi đưa ra các quyết định cơ bản như: Số con, việc nuôi dạy con, phân bố thời
gian và nguồn lực sản xuất, tiêu dùng và đầu tư cho tương lai… Thực tế cho
thấy, gia đình có thể làm trầm trọng hơn định kiến giới hoặc có thể làm dịu đi

sự phân biệt giới. Có thể nói, gia đình đóng vai trị quan trọng trong nhận thức
và thực hiện bình đẳng giới
1. Vai trị của gia đình trong nhận thức về bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một vấn đề không mới trong đời sống xã hội hiện nay
nhưng khơng phải ai cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Việc thực
hiện bình đẳng giới phải đi từ nhận thức đến hành động, chính vì thế việc


7

nhận thức những vấn đề liên quan đến bình đẳng giới là rất cần thiết. Con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, trong cuộc sống con người tham
gia vào các hoạt động sống như lao động, học tập và từ đó hình thành nhân
cách và gia đình chính là ngơi trường đầu tiên đào tạo, hình thành nhận thức
của con người về mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có bình đẳng giới.
Gia đình có một vai trị quan trọng trong việc hình thành những nhận
thức, thái độ về các quan hệ giới, đồng thời cũng là nơi diễn ra q trình xã
hội hố cá nhân, bởi vậy có thể nói rằng gia đình là một xã hội thu nhỏ. Mỗi
một hành vi, một thái độ của mỗi thành viên trong gia đình về vấn đề bình
đẳng giới đều được truyền từ đời này sang đời khác, nó cũng ăn sâu “thâm
căn cố đế” vào tiềm thức của thế hệ sau, rất khó thay đổi. Chính vì vậy, việc
nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới có vai trị rất quan trọng trong việc thực
hiện và tiến tới bình đẳng giới thực chất. Trong cơng tác thực hiện bình đẳng
giới chúng ta khơng thể khơng nhắc đến vai trị của gia đình – tế bào của xã
hội, trước hết đó là trong việc nhận thức về bình đẳng giới.
1.1. Gia đình có vai trị quan trọng giúp các thành viên trong gia đình
nhận thức đúng đắn về các khái niệm của Luật bình đẳng giới:
Để nhận thức đúng về bình đẳng giới trước hết phải hiểu đúng các khái
niệm liên quan đến nó như: giới, giới tính, vai trị giới...từ đó rút ra thái độ
ứng xử của mình trong quan hệ giới. Luật bình đẳng giới năm 2006 đã đưa ra

những khái niệm về giới, giới tính và bình đẳng giới tại khoản 1, 2, 3 Điều 5:
"1. Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả các mối
quan hệ xã hội.
2. Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
3. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng


8

đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển
đó."
Việc quy định chi tiết như trên là bước tiến quan trọng trong việc thực
hiện bình đẳng giới, bởi nó sẽ giúp ích rất lớn trong cơng tác tun truyền,
giáo dục về bình đẳng giới. Vấn đề đặt ra là gia đình Việt Nam ngày nay đã
được trang bị đủ những kiến thức về bình đẳng giới hay chưa? Câu hỏi này rất
khó trả lời bởi điều kiện kinh tế xã hội của chúng ta đã có sự thay đổi theo
hướng tích cực nhưng vẫn cịn nhiều vùng khó khăn ,đại bộ phận người dân
chưa được trang bị những kiến thức nền tảng về sinh học, về giới và các vấn
đề liên quan đến bình đẳng giới.
Bất cứ ai cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Gia đình bao
gồm những người sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp, có lợi ích
kinh tế chung và có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống. Gia đình vừa là
nơi đáp ứng nhu cầu riêng tư vừa thực hiện chức năng phát triển nịi giống và
là trường học đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách con người.
Trong mỗi gia đình vai trị của cha mẹ có vị trí quan trọng, bên cạnh
quan hệ cha mẹ - con cái cịn có quan hệ vợ chồng. Đây là quan hệ cơ bản,
đan xen giữa khía cạnh tự nhiên – sinh học, kinh tế và tâm lý đạo đức. Văn
hóa trong gia đình nói chung, quan hệ vợ chồng nói riêng đều có sự ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các thành viên

trong gia đình. Bầu khơng khí tâm lý – đạo đức của gia đình tác động trực tiếp
đến nếp nghĩ, lối sống của trẻ. Mọi xung khắc của các cá nhân trong gia đình,
nhất là giữa bố và mẹ, đều ảnh hưởng đến con cái. Trong nếp nghĩ của trẻ nhỏ
ln lưu giữ hình dáng, lời ăn tiếng nói của cha mẹ.
Giáo dục con cái khơng thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những công
việc cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn có có tác động trực
tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách của trẻ.


9

Chính vì vậy, trong một gia đình mà người cha hoặc người mẹ hoặc cả
hai có nhận thức đúng đắn về những vấn đề liên quan tới giới, giới tính, vai
trò giới và đặc biệt là nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới trong cách đối xử
với nhau và đối xử với con cái sẽ có những biểu hiện quan tâm, chia sẻ trong
công việc và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức của những đứa trẻ
trong gia đình. Với kiến thức, những nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới thì
tất yếu trong cách giáo dục, dạy con cái của họ sẽ ít nhiều thể hiện điều này.
Chẳng hạn như đối xử với con trai và con gái như nhau trong việc thực hiện
quyền học tập của chúng, trong phân công lao động trong gia đình, dạy các
con phải biết giúp đỡ chia sẻ cơng việc với nhau không phân biệt trai gái…
Hay với những kiến thức của mình về bình đẳng giới, những bậc cha mẹ có
thể trực tiếp giáo dục cho con những kiến thức về giới, giới tính, cách hiểu
đúng đắn về bình đẳng giới…
Tóm lại, tất cả những gì diễn ra trong gia đình, cách đối xử bình đẳng, sự
quan tâm chia sẻ trong công việc giữa cha, mẹ với nhau; cách đối xử bình
đẳng của cha mẹ đối với con trai, con gái; sự giúp đỡ, chia sẻ nhau trong công
việc, học tập giữa các anh, chị, em trong gia đình; đặc biệt là sự giáo dục của
cha, mẹ trong việc truyền đạt những kiến thức về bình đẳng giới cho con cái
thì đều ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức của chúng.

1.2. Bên cạnh việc nhận thức đúng về các khái niệm liên quan đến
bình đẳng giới, vai trị của gia đình trong việc nhận thức về bình đẳng giới
cịn thể hiện trong việc đẩy lùi, dần xố bỏ những định kiến giới còn tồn tại
trong xã hội:
Khoản 4 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: “Định kiến giới là nhận
thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trị, năng
lực của nam hoặc nữ”. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, bị ảnh hưởng
sâu sắc bởi hệ tư tưởng Nho giáo phong kiến, do đó định kiến giới tồn tại phổ


10

biến và nặng nề trong đời sống xã hội. Trình độ dân trí thấp cùng với đời sống
nghèo nàn, lạc hậu là điều kiện cho định kiến giới tồn tại và ảnh hưởng sâu
sắc tới hệ tư tưởng, nhận thức của các gia đình Việt Nam. Định kiến giới được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con
người ở các vùng, miền, dân tộc với các mức độ khác nhau gây nên hiện
tượng bất bình đẳng giới. Gia đình là một xã hội thu nhỏ là một thể chế quan
trọng đóng vai trò là một yếu tố tác động trực tiếp và thường xun tới việc
bảo đảm bình đẳng giới. Chính vì lẽ đó, đảm bảo bình đẳng giới trong gia
đình có ý nghĩa đối với việc hình thành nhận thức và hành động vì sự bình
đẳng giới của mỗi cá nhân. Để đảm bảo thực hiện bình đẳng giới thì một
trong những vai trị rất quan trọng của gia đình là phải nhận thức được về các
định kiến giới đang tồn tại trong đời sống xã hội. Từ đó gia đình sẽ tiến tới
xố bỏ các định kiến giới, hình thành những nhận thức mới đúng đắn về giới,
đảm bảo thực hiện bình đẳng giới.
Gia đình có vai trị quan trọng trong việc nhận thức về các định kiến giới.
Các thành viên trong gia đình đặc biệt là thế hệ trước như ơng bà, cha mẹ phải
có nhận thức đúng về vai trò, vị thế của nam giới và nữ giới, tránh phân biệt
giới dựa trên cơ sở sự khác biệt về giới tính. Nhận thức của ơng bà, cha mẹ

trong gia đình có ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức của con cái. Bởi vậy, các
thành viên lớn tuổi trong gia đình cần tránh có những nhận xét, đánh giá thiếu
toàn diện, phiến diện, thiên lệch dẫn đến cách nhìn tiêu cực về vị thế, vai trị,
năng lực của nam, nữ. Khi có sự đánh giá khơng đúng về vai trị giới tức là có
định kiến giới trong gia đình, điều này sẽ hạn chế khả năng của các cá nhân
trong việc thực hiện các quyền của mình cũng như thụ hưởng các lợi ích.
Có rất nhiều định kiến giới đang tồn tại trong cuộc sống. Trong gia đình
tư tưởng đề cao vai trị của người đàn ơng, hạ thấp vai trò, vị thế của người
phụ nữ là phổ biến. Quan niệm chung của nhiều người là trong gia đình người


11

chồng giữ vai trò lãnh đạo mọi vấn đề của cuộc sống gia đình là điều đương
nhiên. Những việc nội trợ là việc nhẹ không tạo ra thu nhập cho cuộc sống
chung của gia đình, người chồng là người chủ chốt kiếm ra tiền nên họ là chủ
gia đình. Tư tưởng trọng nam khinh nữ, gia trưởng tồn tại trong suốt thời kì
phong kiến hiện nay vẫn cịn ảnh hưởng nặng nề tới suy nghĩ, nhận thức
không chỉ của nam giới mà cả những người phụ nữ trong gia đình Việt Nam.
Đặc biệt định kiến giới tồn tại nặng nề ở những gia đình vùng dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, khó khăn. Định kiến giới là một tập hợp các đặc điểm
mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho nam giới hay phụ
nữ. Người ta hay cho rằng phụ nữ không đủ mạnh để làm lãnh đạo, hay nam
giới khơng có khả năng chăm sóc con cái. Một trong những định kiến giới
biểu hiện khá rõ là gắn phụ nữ với vai trò gia đình, coi việc nội trợ, chăm sóc
gia đình ni dạy con cái là của phụ nữ. Đáng chú ý là hiện nay nhiều người
đang cổ suý cho tư tưởng đưa phụ nữ quay trở về với gia đình. Từ suy nghĩ đó
nhiều phụ nữ, trẻ em gái bị hạn chế trên con đường học tập lao động, phấn
đấu và vươn lên trong sự nghiệp, giảm khả năng đóng góp nhiều hơn về sức
lực và trí tuệ cho xã hội. Khi gia đình gặp khó khăn về kinh tế, khơng thể cho

cả con trai và con gái đi học, định kiến giới trọng nam khinh nữ sẽ ảnh hưởng
tới việc quyết định cho trẻ em trai đi học, còn trẻ em gái ở nhà lao động giúp
việc cho gia đình. Hiện tượng này khá phổ biến ở các vùng nông thôn, dân tộc
thiểu số miền núi. Gốc rễ sâu xa của hiện tượng này có phần bắt nguồn từ
định kiến giới. Bởi vậy, ông bà, cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình
cần phải có nhận thức đúng đắn về định kiến giới, nhận thức được những thái
độ, quan điểm tiêu cực về vai trò, vị thế của nam và nữ. Từ đó, định hướng
đúng đắn về mặt nhận thức cho con cháu về vai trò của từng giới trong gia
đình cũng như trong xã hội. Những thành viên lớn tuổi trong gia đình cần
thiết phải có sự giảng giải cho con cháu hiểu biết và nhận thức được các định


12

kiến giới đang tồn tại trong gia đình và xã hội cũng như những hậu quả tiêu
cực xuất phát từ định kiến giới. Từ đó các thành viên trong gia đình sẽ nhận
thức được đâu là định kiến giới và có những hiểu biết đúng đắn về giới từ đó
tiến tới xoá bỏ những định kiến giới. Hơn nữa định kiến giới là hệ thống thái
độ tiêu cực được hình thành một cách lâu dài, có tính chất cố hữu, bảo thủ
thường ăn sâu bám rễ trong đời sống xã hội nên các thành viên trong gia đình
phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị thế, năng lực của từng giới trong
từng hoạt động của đời sống gia đình cũng như ngồi xã hội, xố bỏ được
định kiến giới tạo nên nhận thức và thói quen suy nghĩ mới về giới. Nhận thức
và xoá bỏ định kiến giới trong gia đình là tiền đề xây dựng nhận thức đúng
đắn về giới và xoá bỏ định kiến giới trong xã hội.
Tóm lại, gia đình là cái nơi văn hố đầu tiên của mỗi người, vậy nên gia
đình có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách cũng như
nhận thức của mỗi người về mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của đời sống xã hội
trong đó có vấn đề về bình đẳng giới. Ảnh hưởng từ gia đình về vấn đề bình
đẳng giới là ảnh hưởng trực tiếp và có khả năng tác động mạnh mẽ tới nhận

thức của mỗi thành viên trong gia đình. Đây sẽ là những nhận thức mang tính
chất nền tảng để họ đón nhận những tri thức mới từ những mơi trường khác.
Từ nhận thức sẽ đi đến hành động, vậy khi có nhận thức đúng đắn về vấn đề
bình đẳng giới từ những ảnh hưởng của gia đình, chúng ta sẽ thực hiện bình
đẳng giới ra sao?
2. Vai trị của gia đình trong thực hiện về bình đẳng giới
Qua việc trình bày vai trị của gia đình trong việc nhận thức bình đẳng
giới, chúng ta đã có thể phần nào hình dung ra được vai trị của gia đình trong
việc thực hiện bình đẳng giới hiện nay. Thế nhưng thực hiện nó như thế nào
lại là câu chuyện cần bàn: Hiểu thế nào cho đúng? thực hiện tốt hay chưa?
liệu đó có trở thành truyền thống gia đình? là nền tảng cho một xã hội bình


13

đẳng, lành mạnh....? Ở Việt Nam hiện nay, đây đang là đề tài rất nóng, là mối
quan tâm và hướng tới của tồn xã hội.
2.1. Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể xóa bỏ phân cơng lao
động theo giới:
Phân công lao động theo giới là việc phân công các công việc, các trách
nhiệm khác nhau giữa nam và nữ. Sự phân công này là do xã hội gán cho mỗi
giới và được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác nên được mọi thành
viên của từng cộng đồng nắm vững.
Với tư cách là một thiết chế của xã hội, gia đình là một xã hội thu nhỏ,
gia đình phản ánh đầy đủ các vấn đề của xã hội, trong đó nổi bật nhất là vấn
đề bất bình đẳng giới. Gia đình – pháo đài kiên cố nhất của sự bất bình đẳng
nam nữ, mọi sự bất bình đẳng giữa nam và nữ đều bắt nguồn từ gia đình. Sự
bất bình đẳng giới được bắt nguồn từ gia đình, được bao bọc bởi các quan hệ
gia đình, tơn ti trật tự, nề nếp gia phong… nên bất bình đẳng giới diễn ra êm
ái, dễ dàng và ít gặp sự phản kháng mãnh liệt từ phụ nữ. Địa vị của phụ nữ tác

động tới sự phát triển nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con
cái họ. Nếu địa vị của người phụ nữ thấp kém thì khơng chỉ ảnh hưởng xấu
đến nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con cái họ mà còn ảnh
hưởng xấu đến viễn cảnh tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thiên chức của
phụ nữ là mang thai, sinh con và nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, do nhận
thức về vai trò giới và giới tính cịn hạn chế nên nhiều người cho rằng cơng
việc nội trợ cũng là thiên chức của phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ luôn phải gánh vác
công việc trong gia đình như: Chăm sóc con nhỏ, người già, người đau ốm;
giặt giũ, đi chợ, nấu ăn; dọn dẹp nhà cửa… Chính những cơng việc này đã
chiếm rất nhiều thời gian, sức lực của phụ nữ. Do đó, cơ hội tham gia vào thị
trường lao động của phụ nữ rất thấp. Điều này dẫn đến thực tế là phụ nữ
không trực tiếp lao động tạo thu nhập cho gia đình. Hệ quả là địa vị thấp kém


14

và khơng có tiếng nói ngay trong gia đình của mình. Những phụ nữ được
tham gia vào thị trường lao động thì tình hình cũng ít được thay đổi. Họ ln
phải đối mặt với áp lực cơng việc ngồi xã hội và cơng việc gia đình. Việc kết
hợp hài hịa giữa chăm sóc gia đình, ni dạy con với nâng cao địa vị xã hội –
nghề nghiệp là khó khăn lớn mà phụ nữ ngày nay phải đối mặt.
Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể làm thay đổi tập quán phân
công lao động theo giới. Khi trong gia đình nam giới sẵn sàng chia sẻ việc
nhà, thì phụ nữ có cơ hội tham gia vào thị trường lao động, phát huy khả năng
và sở thích của mình, trực tiếp tạo thu nhập. Từ đó, phụ nữ có khả năng tiếp
cận và kiểm sốt các nguồn lực, có tiếng nói trong gia đình. Điều đó, mang lại
cho phụ nữ sự tự tin và địa vị của họ trong gia đình được nâng cao.
Như vậy, xóa bỏ tập quán phân công lao động theo giới là tiền đề quan
trọng để giải phóng phụ nữ, phát huy khả năng của phụ nữ cho sự phát triển
kinh tế gia đình, nâng cao địa vị của phụ nữ. Gia đình có vai trị quyết định

trong việc xóa bỏ tập qn phân cơng lao động theo giới, góp phần xóa bỏ
phân cơng lao động theo giới, tạo điều kiện thực hiện bình đẳng giới một cách
hiệu quả.
2.2. Gia đình có thể quyết định đầu tư các nguồn lực trên cơ sở bình
đẳng giữa nam và nữ:
Con người đưa ra hầu hết những quyết định cơ bản của cuộc sống trong
phạm vi gia đình, trong đó có việc đầu tư cho tương lai. Nguồn lực được phân
bổ như thế nào giữa con trai và con gái, giữa vợ và chồng, mỗi người tùy
thuộc vào giới tính của mình được trao quyền đến đâu, kỳ vọng của cha mẹ
đối với con trai, con gái, của vợ, chồng đối với nhau có khác nhau hay
khơng… Tất cả những điều này sẽ tạo ra và khoét sâu hay sẽ giảm bớt sự
phân biệt giới. Định kiến giới đã dẫn đến người vợ và trẻ em gái ít có cơ hội
được đầu tư cho sự phát triển con người hơn. Đa số các gia đình cho rằng, đầu


15

tư cho người vợ và trẻ em gái thu được ít lợi suất cho gia đình hơn là đầu tư
cho người chồng và trẻ em trai. Do vậy, tình trạng thất học, khơng được chăm
sóc sức khỏe ở trẻ em gái cao hơn so với trẻ em trai. Trong quan hệ vợ chồng
cũng tương tự, người vợ ít được đầu tư cho giáo dục và chăm sóc sức khỏe
hơn so với người chồng. Gia đình là nơi đầu tiên xóa bỏ định kiến giới, làm
thay đổi các quyết định đầu tư bất bình đẳng giữa nam và nữ. Việc đầu tư các
nguồn lực của gia đình bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái
sẽ tạo cơ hội cho nam giới và nữ giới cùng được học tập nâng cao trình độ
(văn hóa, nghề nghiệp), tiếp cận thơng tin và khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức
khỏe. Từ đó, tạo điều kiện cho nữ giới có đủ khả năng về tri thức, sức khỏe
tham gia thị trường lao động, kể cả thị trường lao động đòi hỏi trình độ cao.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu xã hội học cho thấy, người vợ có học vấn
cao và hiểu biết xã hội rộng sẽ tác động tốt đến việc nuôi dạy con. Học vấn

của người mẹ sẽ làm cải thiện chế độ dinh dưỡng của con cái, thông qua chất
lượng chăm sóc mà người mẹ dành cho con. Nghiên cứu các nước đang phát
triển cho thấy, mối quan hệ ngược chiều mạnh giữa số năm đi học bình quân
của người mẹ với tỷ lệ tử vong của trẻ. Điều tra về nhân khẩu và sức khỏe
mới nhất tại hơn 40 nước đang phát triển cho thấy tử vong của trẻ dưới 5 tuổi
thấp hơn tại các gia đình mà người mẹ có đi học tiểu học so với gia đình mà
người mẹ khơng đi học và cịn thấp hơn nữa ở các gia đình mà người mẹ học
đến trung học. Phụ nữ có học vấn cao hơn dường như sử dụng các dịch vụ
chăm sóc con cái chính quy và đưa con đi tiêm chủng đầy đủ. Các phương
pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới đều cho thấy trình độ của người mẹ quyết
định đến sự thành cơng của con trong học vấn và sự nghiệp. Những người mẹ
“thông minh” sẽ dạy con với những phương pháp thông minh nhất và kết quả
là con của họ cũng thành những người “thơng minh”. Bên cạnh đó, vai trị cá
nhân của người mẹ trong những năm đầu đời của đứa trẻ là con đường chính


16

để bất bình đẳng giới có thể làm ảnh hưởng tới các thế hệ sau. Dinh dưỡng và
sức khỏe của người mẹ kém có thể có những tác hại lớn cho việc mang thai và
khả năng nuôi dưỡng con của người mẹ. Sự thất học và phụ thuộc vào người
khác của người mẹ sẽ lấy đi sự hiểu biết và sự tự tin, làm suy giảm khả năng
nuôi dưỡng và bảo vệ con của người mẹ. Đối với đứa trẻ sống trong đói
nghèo ít có khả năng tiếp cận tới sự chăm sóc và phịng bệnh chính quy, thì
người mẹ trở thành người bảo vệ đầu tiên và duy nhất. Như vậy, sức khỏe,
học vấn, khả năng quyết định của người mẹ, nhận thức của người mẹ về
giới… có vai trò quan trọng đối với việc sinh con (số con, khoảng cách giữa
các lần sinh), cách nuôi dạy con, nhận thức của các thành viên gia đình về
giới và bình đẳng giới… Do vậy, phân bổ nguồn lực trên cơ sở bình đẳng giới
góp phần đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình. Khi hiểu biết, học vấn, sức

khỏe của phụ nữ được nâng cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
cho các thành viên gia đình, đặc biệt là con cái.
Như vậy, gia đình phân bổ các nguồn lực đầu tư cho nam giới và nữ giới
như nhau chính là biện pháp đảm bảo cơng bằng giới. Cơng bằng giới sẽ tiến
tới bình đẳng giới. Tuy nhiên, quyết định đầu tư của các gia đình bình đẳng
giữa nam và nữ lại được đặt trong khuôn khổ cộng đồng, phản ánh tác động
của những động cơ khuyến khích mà thể chế và chính sách đã xác lập. Nền
kinh tế quyết định rất nhiều cơ hội mà con người có thể nâng cao mức sống
của mình, do đó chính sách và sự phát triển kinh tế có tác động mạnh mẽ đến
bình đẳng giới. Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, thì cha mẹ sẽ phải cân
nhắc xem đầu tư cho con trai hay cho con gái đem lại hiệu quả kinh tế hơn;
con trai hay con gái có cơ hội tham gia vào q trình lao động trình độ cao để
tăng thu nhập hơn… Do vậy, gia đình có thể đưa ra các quyết định đầu tư
nguồn lực bình đẳng giữa nam và nữ cần phải có nhận thức đúng đắn, có tầm
nhìn chiến lược và vì lợi ích chiến lược của cá nhân, gia đình và xã hội.


17

2.3. Gia đình khơng có bạo lực – tiền đề tiến tới bình đẳng giới:
“Gần như tất cả hành động bạo lực ngồi chiến tranh có thể được coi liên
quan tới giới”. Vai trò giới và những kỳ vọng về giới tạo ra sự tương tác và
hành vi dẫn đến bạo lực. Sự kỳ vọng vào vai trò trụ cột của đàn ông trong việc
đảm bảo cuộc sống của các thành viên gia đình và là người quyết định các
vấn đề trong gia đình đã gây áp lực lớn cho người đàn ơng. Khi nền kinh tế
chuyển đổi hoặc có sự thay đổi trực tiếp trong công việc dẫn đến khơng cịn
khả năng kiếm tiền thì nhiều người cảm thấy bất lực, rơi vào tình trạng nghiện
rượu, hành hạ vợ con, ly hơn… Đồng thời, quan niệm về vai trị là người “nối
dõi” của nam giới ở các nước phương Đơng đã dẫn đến tình trạng “trọng nam,
khinh nữ” tồn tại dai dẳng. Điều đó dẫn đến hệ quả là lựa chọn giới tính thai

nhi; phân biệt đối xử giữa con trai, con gái; hành hạ, ngược đãi con gái; con
gái không được đi học… Trong bối cảnh mà nạn bạo lực gia đình diễn ra trên
tồn cầu mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ thì có thể thấy gia đình là nơi tập
trung chủ yếu nhất của sự áp bức đối với phụ nữ. Do vậy, hướng tới gia đình
khơng có bạo lực là một trong những mục tiêu của bình đẳng giới. Để đạt
được mục tiêu đó, mỗi thành viên gia đình phải tơn trọng các quyền cá nhân
của các thành viên khác đã được pháp luật cơng nhận. Mặt khác, mỗi thành
viên gia đình phải được đối xử công bằng. Mọi hành vi phân biệt dựa trên cơ
sở giới đều được xóa bỏ.
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC HIỆN BÌNH
ĐẲNG GIỚI THƠNG QUA VAI TRỊ CỦA GIA ĐÌNH.
Để đạt được hiệu quả cao trong việc thực hiện bình đẳng giới ở tồn xã
hội, thì khơng những phải có nhận thức tốt về vấn đề này mà cịn phải có
những hành động cụ thể, thiết thực trong đời sống. Mỗi cá nhân được giáo
dục tốt về vấn đề bình đẳng trong gia đình là điều kiện, nền tảng thuận lợi để
tiến hành hoạt động bình đẳng giới trong xã hội. Nhưng nếu cá nhân đó chỉ


18

dừng lại ở việc nhận thức “nói sng” mà khơng thực hiện sẽ làm giảm đáng
kể vai trò giáo dục của gia đình. Vì vậy, để nâng cao được sự kết hợp và nhận
thức về vấn đề bình đẳng giới trong mỗi cá nhân, chúng ta phải nâng cao được
trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục vấn đề này.
Thứ nhất: Phải tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình nâng cao
nhận thức, hiểu biết và tham gia các hoạt động về bình đẳng giới.
Thứ hai: Giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ và phân cơng
lao động hợp lí cơng việc trong gia đình.
Thứ ba: Chăm sóc sức khỏe sinh sản và tạo điều kiện cho phụ nữ làm
việc an toàn.

Thứ tư: Đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau giữa con trai, con gái
trong học tập, lao động và tham gia các hoạt động khác.
IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI
Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình giúp con cái mỗi gia đình được
ni dưỡng, chăm sóc chu đáo, học hành tốt, lớn lên trở thành những công
dân tốt của xã hội. Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với con cái là mơi
trường quan trọng giúp mỗi người hòa nhập vào cộng đồng và xã hội, thích
ứng với địi hỏi về nghề nghiệp, đạo đức, vốn sống của mỗi người và giúp
con cái tránh những tệ nạn xã hội nảy sinh.
Quá trình xã hội hóa giáo dục được tạo bởi 3 mơi trường: Gia đình, nhà
trường và xã hội, trong đó gia đình là mơi trường đầu tiên có ảnh hưởng lớn
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Sự quan tâm giúp
đỡ lẫn nhau của mỗi thành viên trong gia đình giúp mỗi người có điều kiện
phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ lẫn tinh thần.
Để nâng cao vai trị trong nhận thức và thực hiện bình đẳng giới trong
gia đình hiện nay, thiết nghĩ cần thực hiện những giải pháp như sau:


19

Thứ nhất: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các vấn đề giới,
bình đẳng giới trong gia đình được quy định trong các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Xem việc thực hiện bình đẳng giới là một công việc lâu dài và cần sự
phối hợp đồng bộ của tồn xã hội, nhằm xóa bỏ dần các định kiến về giới
trong xã hội. Từ đó mỗi người ý thức tốt về vấn đề bình đẳng giới trong gia
đình. Trách nhiệm bình đẳng giới khơng chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân,
mà là trách nhiệm của mỗi gia đình và tồn xã hội; là cơ sở quan trọng để xây
dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.
Hai là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý về bình đẳng giới, xây dựng

các cơ chế, chế tài giám sát việc thực hiện. Đồng thời, tăng cường vị trí,
nguồn lực của các tổ chức tham mưu thực hiện.
Ba là: Tạo điều kiện thuận lợi để mỗi phụ nữ ý thức và tự phấn đấu vươn
lên, tự giải phóng mình; khơng ngừng cố gắng học tập nâng cao kiến thức để
khẳng định vai trị, ví trí của mình trong gia đình và ngồi xã hội.
Bốn là: Đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường
(đặc biệt là các trường THPT), giúp cho thanh, thiếu niên nhận thức được
những vấn đề giới và bình đẳng giới một cách cơ bản và có hệ thống; giúp các
em ý thức được trách nhiệm trong việc xây dựng gia đình sau này.
Năm là: Nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trị gia đình và bình
đẳng giới. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ các hành vi bạo lực gia đình. Gia đình
là tế bào của xã hội, mỗi thành viên trong gia đình được bình đẳng, tơn trọng
lẫn nhau thì xã hội sẽ cơng bằng và văn minh.


20

C. KẾT LUẬN
Vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng, Nhà nước ta đánh giá là có vai trị
quan trọng trong q trình phát triển của đất nước. Do đó, bình đẳng giới trở
thành trung tâm của phát triển, là một mục tiêu phát triển, là một yếu tố để
nâng cao khả năng tăng trưởng của quốc gia, xóa đói giảm nghèo và quản lý
nhà nước có hiệu quả. Thiên vị và bất bình đẳng giới gây tổn hại đến thế hệ
tương lai và làm cho sự chênh lệch giữa nam và nữ trong gia đình và ngồi xã
hội trở nên dai dẳng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của
cá nhân và của đất nước. Theo các kết quả nghiên cứu, ba yếu tố quan trọng
có ảnh hưởng đến bình đẳng giới là: Các thể chế (gồm các chuẩn mực xã hội,
luật pháp và thị trường); gia đình; nền kinh tế. Trong ba yếu tố đó thì yếu tố
gia đình tác động trực tiếp và thường xuyên nhất.
Vì vậy, gia đình là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc cách mạng về giới.

Con đường nhận thức và hành động vì sự bình đẳng giới phải bắt đầu từ gia
đình và ngay trong gia đình. Bất bình đẳng giới là nguồn gốc cơ bản về lịch
sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng.
Những nhu cầu, lợi ích cá nhân không được đáp ứng trong hôn nhân dần trở
thành xung đột và kéo theo hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và gia đình. Do
vậy, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là giải phóng phụ nữ - giải phóng
một nửa của xã hội và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững. Bình
đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong gia đình nói riêng khơng phải chỉ
vì phụ nữ, cũng khơng phải chỉ là vấn đề của phụ nữ mà cịn là vì nam giới, là
vấn đề của cả nam giới. Để có sự bình đẳng giới một cách thiết thực, địi hỏi
phải có sự tham gia của cả nam giới và nữ giới.


21

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1). Luật Bình đẳng giới năm 2006;
(2). Giáo trình cao cấp lý luận chính trị tập 14. Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh;
(3). Đưa vấn đề giới vào phát triển. NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội –
2001;
(4). Ngân hàng Thế giới – Liên Hợp Quốc tại Việt Nam “Chuẩn bị cho
tương lai: Các chiến lược ưu tiên nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam”.
Hà Nội, 2005;
(5). Và một số tài liệu, bài viết khác có liên quan



×