Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận cao học, môn lịch sử quan hệ quốc tế, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA xã hội THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.77 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI
Q TRÌNH HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THẾ GIỚI


MỤC LỤC
TRANG
LỜI MỞ ĐẦU

3

PHẦN NỘI DUNG

5

Chương 1: XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ GÌ
1

Khái niệm xã hội chủ nghĩa

5

2

Khái niệm hệ thống xã hội chủ nghĩa

5

Chương 2: SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


1

Sự hình thành từ nguyên thủy đến xã hội chủ nghĩa

6

2

Những ảnh hưởng và tiền đề hình thành xã hội chủ nghĩa

7

3

Sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.

9

4

Khó khăn và thách thức

14

Chương 3: NHỮNG THÀNH TỰU CỦA HỆ THỐNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1

Về kinh tế


20

2

Về chính trị

20

3

Về khoa học – kĩ thuật

21

4

Liên hệ với Việt Nam

22

KẾT LUẬN

24

TÀI LIỆU THAM KHẢO

25

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích và yêu cầu


2


Làm rõ được sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa. Những ảnh hưởng ban đầu tác động đến sự ra đời của hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu những khó khăn thách thức gặp phải trên con đường xây dựng
xã hội chủ nghĩa ngay từ buổi ban đầu khi nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
thành lập. Cho đến xã hội chủ nghĩa thành hệ thống trên toàn thế giới.
Những thành tựu mà các nước xã hội chủ nghĩa đã làm được trong giai
đoạn phát triển.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Tìm kiếm tài liệu liên quan đến sự ra đời của hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa,những khó khăn gặp phải cũng như những thành tựu đạt được.
- Trao đổi thảo luận nhóm để tìm quan điểm thống nhất chung.
- Vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin để đưa ra
như phương pháp luận để giải quyết vấn đề.
3. Lý do chọn đề tài
- Tìm hiểu sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa để ta có thể
biết thêm những giai đoạn lịch sử trong quá khứ đã làm thay đổi toàn nhân loại.
Giúp những người thống khổ trên toàn thế giới tìm cho mình một lối thốt, thốt
khỏi sự thống trị, áp bức.
- Biết được những thành quả mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa làm
được, giúp ta thêm tin và tự hào về những truyền thống của nhân loại.
- Đặc biệt tìm hiểu thêm về sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa và thành tựu mà nó mang lại. Để sinh viên ta ngày nay cùng nhau
cố gắng, phấn đấu duy trì sự phát triển của xã hội chủ nghĩa. Cùng nhau tạo ra
nhiều thành tựu hơn nữa chứng tỏ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là đúng
đắn và sáng suốt.

4. Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa, quá trình hình thành, phát triển của nó cũng như những khó khăn trở ngại
gặp phải từ lúc mới xuất hiện. Những ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự ra
đời phát triển của xã hội chủ nghĩa,từ một đất nước đơn lẻ là Liên Xô để làm
tiền đề quan trọng cho sự phát triển lớn mạnh sau này của hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa.
Những khó khăn gặp phải trong q trình phát triển cũng như bảo vệ những
thành quả của chủ nghĩa xã hội.
3


Cuối cùng, nghiên cứu về những thành quả mà hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa đã đạt được.
Liên hệ với Việt Nam - một nước tiến lên con đường xây dựng đất nước
theo mơ hình xã hội chủ nghĩa và cả những thành quả mà Việt Nam đạt được
trong quá khứ cũng như tương lai.
5. Ý nghĩa của đề tài
Từ những bước đi chập chững buổi ban đầu đầy khó khăn, thách thức. Sự
ra đời của chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở Liên Xô đã mở ra một thời đaị mới cho
lịch sử nhân loại. Những giai cấp bị thống trị trước kia có thể tự làm chủ cuộc
sống của mình, cùng nhau xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơng bằng,
dân chủ, văn minh, thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Từ những buổi
ban đầu đó, vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn xã hội chủ nghĩa đã phát triển
thành một hệ thống trên toàn thế giới. Giúp nhau cùng tồn tại và phát triển.
Việt Nam ta là một nước cũng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những
thành quả đạt được ngày hôm nay làm ta thêm tự hào và tin tưởng hơn vào con
đường đúng đắn ấy.
Tìm hiểu về sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những
thành tựu của nó ta cảm nhận được sự cố gắng của biết bao con người đặt những

viên gạch đầu tiên xây nên nền móng cho Sự phát triển của hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa sau này.

4


PHẦN NỘI DUNG
I. XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ GÌ ?
1. Khái niệm xã hội chủ nghĩa
Xã hội chủ nghĩa là một xã hội quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Trong đó, giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với nhân dân lao
động xây dựng xã hội công bằng,dân chủ văn minh.
Một số đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai cấp
nào đó, nhà nước đó thực hiện một chính sách giai cấp vì lợi ích của tất cả người
lao động nhưng đồng thời vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua
chính đảng của mình đối với nhà nước vẫn được duy trì.
- Cũng là cơng cụ của chun chính giai cấp,nhưng vì lợi ích của tất cả
người lao dộng tức là tuyệt đại đa số nhân dân,nhà nước chun chính vơ sản
thực hiện sự trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp cách mạng của xã
hội chủ nghĩa..
- Mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản nhất của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, của chun chính vơ sản.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,ngày
càng hồn thiện các hình thức đại diện nhân dân,mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn
đơng đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lí nhà nước,quản lí xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước
không còn nguyên nghĩa”,là “nửa nhà nước”.Sau khi những cơ sở kinh tế xã hội
cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng khơng cịn,nhà nước tự
“tiêu vong”.

2. Khái niệm hệ thống xã hội chủ nghĩa
Hệ thống xã hội chủ nghĩa: là thể chế chính trị ở các nước có đảng cộng
sản đã hoặc đang giữ độc quyền.các nước này, tạm gọi tắt là hệ thống Xô Viết,
tự gọi mình là các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó từ chủ nghĩa xã hội dùng
theo nghĩa giai đoạn trước chủ nghĩa cộng sản.
Một số đặc trưng của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa:
- Chỉ do một đảng lãnh đạo đó là: Đảng cộng sản
- Các đặc trưng của cơ cấu quyền lực chính là nền tảng để từ đó suy ra quy
luật vận hành của chính hệ thống xã hội chủ nghĩa.

5


- Thể chế căn bản của cơ cấu quyền lực là đảng cộng sản. Các nước xã hội
chủ nghĩa có hệ thơng một đảng, trong đó khơng một đảng đối lập nào khác
được hoạt động. Ở thời điểm đỉnh cao của quyền lực,đảng viên chiếm một tỉ lệ
dân số đáng kể.
- Phương châm chủ đạo của nguyên tắc tổ chức đảng là nguyên tắc tập
trung dân chủ.
- Ban lãnh đạo được bầu tại đại hội tổ chức cơ sở theo từng nhiệm kì cụ
thể. Mỗi tổ chức cơ sở có một bí thư lãnh đạo.
- Các cơ sở chịu sự lãnh đạo của tổ chức đảng cao hơn, thường được tổ
chức theo nguyên tắc phạm vi lãnh thổ.
- Lãnh đạo cấp trung ương có bộ tham mưu rất lớn,là những người tạo ra hệ
thống thứ bậc quan liêu bao gồm những người đứng đầu các ban, phó ban và
những viên chức. Theo quy định chính thức,quan chức được chỉ định của đảng
khơng có quyền lực, bởi vì quyền quyết định duy nhất thuộc về cơ quan bầu ra.
Trên thực tế,họ có ảnh hưởng đến việc quản lý hoạt động.
- Các cán bộ lãnh đạo được bầu ra (làm việc chuyên trách) và công chức
được của đảng thường được biết đến như là bộ máy của đảng.

- Theo hiến pháp, pháp luật và các quy phạm pháp luật, nhà nước dưới hệ
thống xã hội chủ nghĩa cổ điển cũng giống như các nhà nước hiện đại khác. Nhà
nước chia thành ba ngành: lập pháp, hành pháp và tư pháp; cơ quan quản lí nhà
có trách nhiệm hành pháp và tư pháp.
II.SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Sự hình thành từ nguyên thủy đến xã hội chủ nghĩa
Từ lúc sơ khai theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người đi lên từ cái
khơng có đến cái có. Từ xã hội nguyên thủy, xã hội nô lệ, xã hội phong kiến đến
xã hội tư bản và tiến tới xã hội chủ nghĩa. Lịch sử cho thấy rằng, xã hội cộng sản
nguyên thủy chỉ là một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống
bình đẳng, chưa có giai cấp và chưa có nhiều nước. Tổ chức đầu tiên của xã hội
loài người là chế độ thị tộc, bộ lạc phù hợp với tình trạng cịn thấp kém lúc bấy
giờ. Đứng đầu các thị tộc bộ lạc là các tộc trưởng, hội đồng các tộc trưởng cho
nhân dân bầu ra. Họ chịu trách nhiệm trước nhân dân, coi sóc các cơng việc
chung và có thể bị bãi nhiễm nếu khơng có sự tín nhiệm của nhân dân. Họ điều
chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì các quy tắc đời sống xã hội vừa điều khển các
công việc sức mạnh của dư luận xã hội và uy tín của họ đối với xã hội. Trong tay
họ khơng có và khơng cần có một công cụ cưỡng dức đặc biệt nào cả.
6


Sự phát triển của lực lượng sản xuất vào thời kì cuối của xã hội nguyên
thủy dẫn đến sự hình thành các chế độ tư hữu và bắt đầu phân thành những giai
cấp nô lệ,quan hệ người áp bức,người thay thế quan hệ bình đẳng,hợp tác tương
trợ sự đối kháng của giai cấp bóc lột đối với những nơ lệ, giai cấp nô lệ phải
phục tùng theo những trật tự do mình đặt ra,bộ máy đó là nhà nước.
2. Những ảnh hưởng và tiền đề hình thành xã hội chủ nghĩa
Những nhà nước đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là những nhà nước chiếm
hữu nơlệ, tiếp đó là những nước phong kiến,những nước tư sản và những nước
xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, khi tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển mạnh làm

cho mâu thuẫn giữa các tầng lớp ngày càng gay gắt.Những giai cấp bị bóc lột
đứng lên đấu tranh chống áp bức, đòi quyền tự do cho chính bản thân mình. Tư
tưởng lý luận mác – Lê nin ra đời và cách mạng tháng 10 Nga là những ảnh
hưởng cũng như tiền đề quan trọng cho sự hình thành hệ thơng các nước xã hơi
chủ nghĩa trên trên toàn thế giới.
2.1. Ảnh hưởng của thắng lợi cách mạng tháng 10 Nga
Thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga đã làm nên một kì tích to lớn và tạo
dựng nên một chế độ xã hội chủ nghĩa “ưu việt”, có ảnh hướng sâu sắc đến đời
sống chính trị thế giới, ngay từ những năm tháng nó diễn ra cho đến mọi thời đại
sau này. Cách mạng tháng 10 Nga là cột mốc lịch sử đánh dấu sự mở đầu của
một thời đại lịch sử mới, thời đại quá độ từ chủ ngĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Vì cuộc cách mạng này làm sụp đổ trật tự xã hội chủ nghĩa cũ-xã hội tư bản chủ
nghĩa, tổ chức xây dựng một xã hội mới do nhân dân làm chủ.Sau cách mạng
tháng 10,nhân dân Nga đã làm chủ bộ máy nhà nước,làm chủ những tư liệu sản
xuất của chính mình,nhân dân Liên Xơ dưới sự lãnh đạo của của đảng cộng sản
Liên xô, đã lao động quên mình,nhanh chóng biến nước Nga từ một nước lạc
hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển,nhiều ngành khoa
học tiên tiến,có một xã hội ln luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân lao
động.
Với thành quả của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,với niềm tin vào lý
tưởng cộng sản đã giúp cho nhân dân Liên Xô cùng với lượng dân chủ tiến bộ
đập tan chủ nghĩa phát xít,cứu nhân loại khỏi họa diệt chủng,giải phóng hàng
loạt các nước Đơng Âu,tạo điều kiện cho các nước này đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ ngĩa xã hội với tính ưu việt của nó,đã cổ vũ hàng loạt các nước đứng
lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc,dân chủ cho nhân dân,xóa bỏ chế độ bàn
tích của của chế độ thực dân phong kiến.Nhiều nước,trong số đó đã lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa hoặc định hướng lên chủ nghĩa xã hội.chủ nghĩa xã hội
7



đã vượt khỏi phạm vi của một nước trở thành hệ thống trên toàn thế giới đối lập
với tư bản chủ nghia.
Tóm lại,cách mạng tháng 10 Nga đã mở đầu một thời đại mới thời kì qua
dộ lên chủ nghĩa xã hội vì
Thứ nhất: Sau cách mạng tháng 10 Nga chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở
thành thực tiễn,đã xuất hiện hình thái kinh tế-XH cộng sản chủ nghĩa,là cái đối
lập,là cái phủ định hình thái kinh tế-Xh tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai: Chiều hướng phát triển chủ yếu,xuyên suốt của sự vận động lịch
sử từ sau cách mạng tháng 10 là đấu tranh xoa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa,thiết
lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn thé giới.
Thứ ba: Từ sau cách mạng tháng 10 Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nịng cốt, đi đầu trong
cuộc đấu tranh vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới.
Sự vận động lịch sử là quanh co và phức tạp khi tiến, khi lùi. Do vậy, hiện
nay mặc dù tình hình quốc tế diễn ra vơ cùng phức tạp, nhưng đảng ta vẫn khẳng
định “chủ ngĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, lịch sử thế giới
hiện đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ
tiến chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật của tiến hóa lịch sử”
Từ sau cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 tới kết thúc chiến tranh thế giới
lần thứ hai năm 1945.
Giai đoạn này là giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa mới hình thành trên
phạm vi một số nước như Mông Cổ, Liên Xô, cuộc cách mạng tháng 10 là cuộc
cách mạng đầu tiên trong lịch sử đưa nhân dân lao động từ những người nô lệ,
làm thuê trở thành những người làm chủ đất nước. Sức mạnh của chế độ mới đã
giúp nhân dân lao động Nga đứng vững trong công cuộc nội chiến, đập tan âm
mưu can thiệp của chủ nghĩa đế quốc, với khí thế lao động của những con người
được giải phóng, thơng qua chính sách kinh tế mới,thơng qua con con đường
hợp tác hóa nơng nghiệp, cơng nghiệp hóa đất nước, sau 20 năm Liên Xô đã tạo
ra sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Đó là những ngun nhân Liên Xơ
đánh bại chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ 2, cứu nhân loại khỏi

thảm họa chủ nghĩa phát xít.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định “giống như mặt trời chói
lọi,cách mạng tháng 10 Nga chiếu sáng khắp năm châu,thức tỉnh hàng triệu
người bị áp bức bóc lột.Trong lịch sử lồi người chưa từng có cuộc cách mạng
nào ý nghĩa to lớn và sâu sa như thế.
8


2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Mác - Lê nin và những yếu tố khác.
Thành công của cách mạng tháng 10 Nga ảnh hưởng không nhỏ dến sự ra
đời của chủ nghĩa xã hội, bên cạch đó chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng ảnh hưởng
lớn lao, các phong trào cộng sản,công nhân quốc tế, các cuộc cách mạng để hình
thành nên các nước xã hội chủ nghĩa. Điển hình như một số cuộc cách mạng
như: Cuộc cách mạng tháng 03/1871 ở Pháp lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại,
một kiểu nhà nước mới – nhà chun chính vơ sản (cơng xã Pari) được thành
lập, có thể coi là sự kiểm nghiệm vĩ đại đối với chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Năm 1919, Quốc tế cộng sản được thành lập, năm 1922 Liên Bang
CộngHịa xã hội chủ nghĩa Xơ Viết ra đời đánh dấu sự liên minh vô sản trong
nhiều quốc gia. Chiến tranh thế giới thứ hai không chỉ bảo vệ được thành quả
của giai cấp vô sản mà cịn đưa chủ nghĩa xã hội phát triển ra ngồi biên giới của
Liên Xơ, hình thành nên cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn
đầu.Với các thành viên như: Mông Cổ, Ba Lan, Rumani, Hungari, Việt Nam,
nam Tư, Anbani, Tiệp khắc, Nam tư, Triều Tiên, CH DC Đức, Trung Quốc, Cu
Ba.
Sự kiện này làm cho chủ nghĩa tư bản khơng cịn là các hệ thống duy nhất
mà song song là một hệ thống chính trị đối lập với nó về bản chất và mục đích
hoạt động.
Những sự kiện này cổ vũ mạnh mẽ phong trào công nhân của giai cấp cơng
nhân tồn thế giới,thức tỉnh cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc của

nhân dân các nước thuộc địa.Vai trò định hướng của Chủ Nghĩa Mac lê-nin đã
đem lại những thành quả lớn lao cho sự nghiệp vì hịa bình,độc lập dân tộc,dân
chủ và tiến bộ xã hôi.
3. Sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản ở nhiều nước châu Âu
và châu Á đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phối hợp với Hồng quân Liên xô
thành một mặt trận chống phát xít, có sự phối hợp chi viện cho nhau, tăng cường
liên hệ quốc tế. Chính sự lớn mạnh của các Đảng Cộng sản trong thời kỳ chiến
tranh là cơ sở để khi chủ nghĩa phát xít bị đánh bại, Đảng Cộng sản ở nhiều
nước đã đứng lên lãnh đạo quần chúng nhân dân vũ trang giành chính quyền
thành lập nhà nước dân chủ nhân dân. Trong thời gian 5 năm (từ năm 1944 đến
năm 1949) ở châu Âu và châu Á đã có 11 nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng
3 phương thức đã giành được chính quyền.
Phương thức thứ nhất chủ yếu dựa vào lực lượng vũ trang của nhân dân
nước mình, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, khi thời cơ đến đã lãnh đạo
9


nhân dân đứng lên giành chính quyền như: cộng hồ nhân dân liên bang Nam
Tư thành lập 1944; nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập 1945; cộng hoà
nhân dân Anbani năm 1946 và cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Phương thức thứ hai chủ yếu dựa vào Hồng quân Liênxơ giải phóng đồng
thời phối hợp vũ trang của nhân dân nước mình như Cộng hồ nhân dân BaLan
(1945), Bungari (1946), Rummani (1948), Hunggari và Tiệp Khắc (1946) nhưng
sau đó phải đấu tranh trong nội bộ chính phủ để trục xuất các phần tử tư sản, trở
thành nước cộng hoà dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo (Hunggari
7/1947; Tiệp Khắc 2/1948) và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên.Phương
thức thứ ba hoàn toàn do Hồng quân Liênxơ giải phóng và dưới sự giúp đỡ của
Liênxơ để đi lên con đường chủ nghĩa xã hội như CHDC Đức(10/1949)
Vậy là sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước đã mở

rộng ra 13 nước ở châu Âu và châu Á; với thắng lợi của cách mạng dân chủ ở
Cu Ba năm 1959, Phong trào 26 tháng 7 do Phiden Castrô lãnh đạo, nước cộng
hoà Cu Ba chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Như vậy chủ nghĩa xã hội đã không
chỉ ở châu Âu, châu Á mà còn mở rộng đến châu Mỹ Latinh. Những nước này
về hình thái ý thức đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm tư tưởng chỉ đạo. Về chính
trị hình thành phe chủ nghĩa xã hội do Liênxô đứng đầu, về qn sự ở châu Âu
hình thành tổ chức thơng qua Hiệp ước Vacsava. Về quan hệ kinh tế, đó là
những nước có chung một kiểu cơ sở kinh tế-xã hội, quyền sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất và thông qua các hiệp ước song phương và Hội đồng tương trợ
kinh tế để tương trợ giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cộng đồng thị trường thế giới xã
hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống tồn tại song song với hệ
thống tư bản chủ nghĩa.
* Việt Nam cũng là một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh
dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội
IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo
chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta của nhân dân ta là
hồn tồn chính xác.

10


Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến
thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước
ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc

nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các
bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương,
khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và
hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng ta đàn áp và thất
bại.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở
nên là yêu cầu cơ bản, cấp bách. Cơng cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy
ở trong “tình hình đen tối như khơng có đường ra”. Bằng con đường nào và giai
cấp nào có khả năng gánh gách vác sứ mệnh lịch sử đó?
Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra
cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác
khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn chế độ cộng sản chủ nghĩa khơng có người bóc lột người. Và người đào huyệt
chơn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp cơng nhân - sản phẩm của nền đại cơng
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào
thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến và đã
bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội lồi người.
Chính vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho một xu
thế mới của lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu
tranh giải phóng có quy mơ to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong
lịch sử nhân loại
Tồn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm
sâu trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản
đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của
cơng cuộc giải phóng nữa thơi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm
cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã
hội. Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với
phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một
tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp,
quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của

Đảng.
Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời tuyên bố ấy
11


của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc
đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã
và đang đi, từ đó dọc theo thế kỷ XX, sang thế kỷ XXI, và tiếp tục đi cho tới
đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa
Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nơ lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem
lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có một xã hội tốt
lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no; bảo đảm việc làm
cho mọi người, tất cả vì niềm vui,hạnh phúc ấm no của con người.
Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã
hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lơgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch
sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế
phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể
của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân
dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định
sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc
theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và
chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế
bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị của các chế độ ấy - những hình thái
kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ
đối kháng khác.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề
độc lập theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền

độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập
trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập
dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hố, đối ngoại; xố bỏ
tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh
tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công
việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc đó giải
quyết,khơng có sự can thiệp từ con người.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội xoá
bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xố bỏ cơ sở kinh tế sinh ra
ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức
và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục
12


vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của
cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng
đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân
tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các
dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự
bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng
dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm
chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển của chủ nghĩa
xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt
Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và hành động
theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng đã lãnh đạo thành cơng cuộc Cách
mạng Tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hồn tồn
khơng cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam

cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt
Nam xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tín độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội
và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân
tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu,
là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực,
là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi
của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động,
cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng
quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế tồn
cầu hố, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong
hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ
đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực
và trên thế giới
13


4. Khó khăn và thách thức
4.1. Khó khăn
- Giai đoạn từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980
Trong giai đoạn này ở nhiều nươc XHCN không chú ý tới công tác xây
dựng Đảng,nhiều kẻ cơ hội chui vào hang ngũ của Đảng Cộng Sản.Một số mắc

vào tệ nạn sùng bái cá nhân, khơng ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản,khơng
nhìn thấy và đánh giá đúng những thay đổi trong chính sách của chủ nghĩa tư
bản.Ở khơng ít nước XHCN,bộ máy nhà nước trở lên quan liêu,vi phạm những
quyền dân chủ của nhân dân.Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng vội,khơng
tn thủ nhưng quy đinh khách quan,chậm đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào
sản xuất.Trong lĩnh vực xã hội thực hiện bao cấp tràn lan,khơng kích thích được
tính tích cực cá nhân,do vậy khơng tạo được động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Những sai lầm trên kéo dài,chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã
hạn chế tốc độ phát triển kinh tế -xã hội của các nước,dẫn tới tình trạng khủng
hoảng kinh tế-xã hội ở nhiều nước,buộc các nước phải thay đổi.
Trong quá trình cải cách đổi mới,nhiều đảng cộng sản mắc những sai lầm
mang tính ngun tắc.Lợi dụng tình hình đó,những thế lực thù địch với CNXH ở
bên ngoài,kết hợp với những kẻ phản bội bên trong,thậm chí cả những người
đứng đầu cơ quan nhà nước của Đảng đã tấn công làm sụp đổ chế độ CNXH ở
Đông Âu và Liên Xô.
+ Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất: là Quan niệm giáo điều về CNXH: Trước hết, là do quan niệm
giản đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản
xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh quan hệ sản
xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và lạc hậu, và
cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ.
Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên Xơ, chính sách kinh tế mới khơng được
tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu,
kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên
Xô vẫn tiếp tục duy trì mơ hình này. Trong mơ hình này đã tuyệt đối hóa, từ bỏ
hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị
trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người
lao động.

14


Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, xây dựng năng lực cầm
quyền của một chính đảng cách mạng sau khi giành được chính quyền chưa thực
hiện đầy đủ, khiến Đảng khơng phát huy được vai trị của người lãnh đạo, người
tổ chức nhân dân; vừa không phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội...,
dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn
Thứ hai: là đánh giá quá cao CNXH hiện thực và đánh giá quá thấp chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong
việc hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của
Liên Xơ về “CNXH đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa”, “CNXH phát triển”...), không thấy hết tính chất lâu dài, quanh co, phức
tạp của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH.
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải
cách, đổi mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, rơi
vào khủng hoảng. Đó khơng phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế
độ XHCN, mà do quan niệm giáo điều về CNXH.
+ Nguyên nhân trực tiếp: Lệch lạc về hệ tư tưởng XHCN và sự can thiệp từ
bên ngồi
Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xơ đã mắc sai lầm rất nghiêm
trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh,
cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Những
tuyên bố ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH hơn”, “chúng
ta sẽ đi tới CNXH tốt đẹp hơn chứ khơng đi ra ngồi nó”, “chúng ta tìm trong
khn khổ của CNXH chứ khơng phải ở ngồi giới hạn của nó những câu trả lời
cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra”..., rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông
ngụy trang cho ý đồ phản bội.
Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày
càng cơng khai tun bố từ bỏ những mục tiêu XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ

bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “khơng vùng cấm”, cải tổ đã
nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, cơng kích, bơi đen tất cả những gì gắn
với lịch sử 70 năm xây dựng CNXH, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của
CNXH. Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ
niềm tin của quần chúng đối với những giá trị của CNXH. Người ta sử dụng
toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên
truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh
mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích của phương Tây.
15


Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng
trợn, thực hiện được “diễn biến hịa bình” trong nội bộ Liên Xơ và các nước
Đông Âu. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải
tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân
nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở “tư duy chính
trị mới”. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi hại để
lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc đã
đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trong nội bộ.
Trong cuốn sách Chiến thắng khơng cần chiến tranh, Tổng thống Mỹ
Níchxơn cho rằng “mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”. Ơng ta viết:
“Tồn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không
đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.
Như vậy sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xơ có ngun nhân xâu
xa là những sai lầm của các đảng cộng sản,các nhà nước XHCN,sự chống phá
của các thế lực thù địch và sự phản bội của một số người đảng cộng sản,chứ
khơng hồn tồn là sự sụp đổ của CNXH và lí luận khoa học về CNXH như một
số người vẫn đang rêu rao. Trong tình hình CNXH trì trệ và khủng hoảng do
những sai lầm của mơ hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì

chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn diện mới đưa CNXH thoát
khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Cải tổ, cải cách, mở cửa,
đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì khơng là tất yếu. Vấn đề ở chỗ: cải tổ, cải
cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào.
Một số Đảng cộng sản các nước trên thế giới đã nhận định nguyên nhân
của sự sụp đổ này là: Sự lệch lạc về hệ tư tưởng của những người lãnh đạo đảng
và sự thiếu hiểu biết về hệ tư tưởng XHCN của nhân dân; sự thiếu dân chủ trong
xã hội và trong đảng; tình trạng quan liêu trong đảng, tham nhũng và sự xa lánh
nhân dân của lãnh đạo đảng; một số sai lầm trong chính sách kinh tế của đảng
cộng sản cầm quyền; và sự phá hoại tinh vi của chủ nghĩa đế quốc.
Đây là những bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước
XHCN trong giai đoạn hiện nay.
- Giai đoạn từ cuối nhưng năm 1980 đến nay:
CNXH thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Cùng với sự sụp đổ của CNXH
ở Đông Âu và Liên Xô,nhiều Đảng Cộng Sản và công nhân bị tan rã,nhiều đảng
viên xin ra khỏi Đảng.Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên
CNXH,nhưng giờ đây mất chỗ dựa về tinh thần và vật chất,các lực lượng phản

16


động giành lại chính quyền và đưa đất nước theo con đường khác.Ảnh hưởng
của CNXH trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng
Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương nghìn kế,bằng
nhiều luận điệu khác nhau để xoá bỏ chủ nghĩa Mac-Lê nin và phá hoại sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước XHCN trên toàn thế giới,nhằm
xác lập địa vị thống trị của cgủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới.Lịch sử đang đặt
ra những thử thách vô cùng to lớn cho CNXH,phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế.
Trong thời đại ngày nay: “chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới từ những bài

học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của dân tộc,có
điều kiện tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hố của lịch sử, lồi
người nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ xã hội khác
nhau đã và đang chi phối quá trình vận động và phát triển của lịch sử nhân loại.
Đây là cuộc đấu tranh giữa một chế độ mới ra đời, đang trưởng thành và
còn hạn chế về nhiều mặt với một chế độ đã lạc hậu về mặt lịch sử,nhưng đang
có những ưu thế nhất đinh về kinh tế, quân sự.
Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ khác nhau về bản chất đã và đang diễn ra
trên tất các mặt của đời sỗng xã hội:kinh tế,chính trị,tư tưởng,văn hố.vv..
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
Các học giả tư sản đang tìm cách chứng minh nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
là vĩnh cửu; chủ nghĩa tư bản khơng cịn bóc lột như trước.
Thế giới tư bản chủ nghĩa đang dựa vào lợi thế kinh tế của mình; chủ nghĩa
đế quốc đang tìm trăm phương ngàn kế để phá hoại,hạn chế sự phát triển kinh tế
của các nước XHCN bằng bao vây, cấm vận kinh tế,hoặc thơng qua chính sách
tồn cầu hố để tiếp tục áp bức bóc lột các nước nghèo đem lại lợi thế to lớn cho
các nước phát triển.
+ Trong lĩnh vực chính trị:
Các đảng tư sản,chủ nghĩa đế quốc,đứng đầu là Mỹ đang dùng mọi cách để
tuyên truyền quảng bá cho chế độ tư sản,tự do tư sản;biện minh cho chính sách
bá truyền của họ để can thiệp vào công cuộc nội bộ các nước.
Bằng âm mưu thủ đoạn khác nhau như mua chuộc,dụ dỗ lôi kéo,lợi dụng
những khuyết điểm,hạn chế của một số nước XHCN,tới những biện pháp đe
dọa,chủ nghĩa tư bản đang thực hiện âm mưu ‘ diễn biến hồ bình’ nhằm lật đổ
nhà nước XHCN,hịng khơi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước này.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng:
17


Chủ nghĩa tư bản dựa vào ưu thế kinh tế,khoa học-cơng nghệ và sức mạnh

qn sự đang tìm mọi cách phổ biến những giá trị phương tây,tuyên truyền quan
điểm đa phương chính trị,đa đảng hoặc đa giai cấp,phi ý thức hệ,phi chính
trị,làm lẫn lộn giữa đúng và sai,phải trái,nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội và
những lực lượng và hoà bình thế giới.
Đặc biêt ở các nước XHCN,chủ nghĩa đế quốc đã thực hiện chiến lược diễn
biến hồ bình,tun truyền các lý thuyết tư sản,tìm mọi cách phủ nhận học thyết
Mác-Lê nin- lý luận cách mạnh,vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân và nông
dân lao động.Mặt khác,chúng đang tìm cách mua chuộc,làm thối hố về tư
tưởng,đạo dức lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên;tìm cách chia rẽ cán
bộ với cán bộ,đảng với dân,cán bộ với nhân dân
4.2. Khắc phục
Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi
mới, phải khắc phục những yếu kém,nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mang khoa
học xã hội tạo ra,không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống
nhân dân, để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.
Trải qua những thăng trầm lịch sử,những người cộng sản ở các nước thuộc
Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ kẻ thù,đang ra sức
tập hợp lực lượng,tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị
của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân,nhân dân tiến
bộ trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư
bản hiện tại,từ đó đồn kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản,đưa đát
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội đang tìm cách khẳng định mình,bằng cách huy động mọi
tiềm năng,trí tuệ trong nhân dân,điều chỉnh những sai lầm trong cải cách,đổi
mới,khắc phục yếu kém trong quản lí kinh tế,tranh thủ những thành tựu của
khoa học cơng nghệ hiẹn đại để chứng minh tính ưu việt của nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa..
Các nước xã hội chủ nghĩa,các đảng cộng sản phải tỉnh táo và chủ động

kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù,bảo vệ
đảng,bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa,bảo vệ thành quả cách mạng.Đồng thời
giai cấp công nhân quốc tế,các nhà nước xã hội chủ nghĩa,phải làm rõ tính chất
bạo động,hiếu chiến của các tập đồn tư bản hiện nay,tập hợp mọi lực lượng tư
bản tiến bộ,tấn công làm thất bại mọi âm mưu chống phá hoại của kẻ thù.
18


Các đảng cộng sản,các nhà nước xã hôi chủ nghĩa phải đẩy mạnh cuộc đấu
tranh tư tưởng bằng nhiều cách khác nhau,phê phán những tư tưởng phản
động,hiếu chiến muốn duy trì sự thống trị,sự áp bức giữa nước giàu với các
nước nghèo,nước lớn đối với nước nhỏ;cổ vũ cho cuộc đấu tranh,vì một thế giới
hồ bình,hưu nghị,đồn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển
III. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Thành tựu nổi bật của các nước xã hơi chủ nghĩa là xố bỏ chế độ người
bóc lột người, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước,quản lý xã hội.
Chính vì lẽ đó,Hồ Chí Minh đã từng bước khẳng định nước Nga có chuyện lạ
đời,đem người nô lệ thành người tự do.Đi cùng với việc xây dựng một xã hội tốt
đẹp,CNXH còn thiết lập một quan hệ quốc tế bình đẳng giữa các quốc gia dân
tộc.Điều này,hoàn toàn xa lạ với việc dân tộc này áp bức,bóc lột dân tộc khác
nhau như trước đây.quan hệ quốc tế trước XHCN luôn luôn là cá lớn nuốt cá
bé;nước mạnh,nước lớn thống trị nước nhỏ,nước yếu.CNXH ra dời đã xây dựng
một mối quan hệ quốc tế hoàn toàn mới,tốt đẹp,tạo điều kiện cho các quốc
gia,dân tộc giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển.
Khi bắt đầu sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, các nước xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm khác nhau nhưng có điểm
chung nổi bật là đều từ điểm xuất phát thấp về kinh tế-xã hội, nhiều nước đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Ở châu Âu, tuy kinh tế
tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở trình độ nhất định nhưng giai cấp tư sản trước
đó cũng chưa tạo được một nền công nghiệp tương đối hoàn chỉnh. Ở châu Á,

các nước đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Mông
Cổ đều là những nước lạc hậu từ sản xuất nhỏ chưa qua tư bản chủ nghĩa đi lên
chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa các nước đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua
những cuộc chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Có thấy hết những
khó khăn khi bắt tay vào thực hiện những nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ trong
lịch sử, mới thấy được những thành tựu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội mà các nước đi theo con đường xã hội tạo ra.
Trải qua hơn 70 năm tồn tại và phát triển chủ nghĩa xã hội đã đem lại
những thành quả.
Cho dù lịch sử có biến động như thế nào,dù có ai cố tình xun tạc lịch sử
cũng khơng thể phủ nhận được sự thật Liên Xô và các nước Đơng Âu đã có một
thời phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu to lớn sau đây:

19


1. Về kinh tế:
Từ những điểm xuất phát thấp, nhưng nhờ tập trung nguồn lực của cải vật
chất, phát huy sức mạnh chính trị, các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được những
thành tựu to lớn trong kinh tế. Nước Nga sau cách mạng Tháng Mười, qua 3
năm chiến tranh và nội chiến như người “bị đánh sắp chết” và tồn tại trong vòng
vây thù địch của chủ nghĩa đế quốc nhưng đến năm 1938 sản lượng công nghiệp
của Liênxô tăng hơn 9 lần so với 1913, trong khi đó Mỹ, Anh và Đức chỉ tăng
khoảng 1,3 lần. Liênxơ từ một nước nông nghiệp lạc hậu chỉ qua 3 kế hoạch 5
năm thực hiện cơng nghiệp hố, điện khí hố, tập thể hố và cơ giới hố nơng
nghiệp đã trở thành nước công nghiệp tiến tiến. Sự lớn mạnh về kinh tế tạo điều
kiện để phát triển công nghiệp quốc phịng, đảm bảo cho Liênxơ có điều kiện
bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa và góp phần quyết định vào việc
chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh
thế giới thứ II, hệ thống xã hội chủ nghĩa có sự phát triển to lớn, chỉ tính riêng

các nước tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế, khi mới thành lập (1949) chỉ
chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới, đến đầu những năm 80 đã
chiếm 40%. Nhịp độ phát triển kinh tế trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX ở
các nước xã hội chủ nghĩa đã cao hơn 2 lần so với các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong vong 20 năm đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của cá nước XHCN đạt được
mức trung bình trên 7%/năm.Trong khoảng gần 30 năm trước đây,Trung quốc
luôn giữ được mức tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 9%/năm(năm 1993 đạt
13.4%0,Việt Nam được xem là nước phát triển cao thứ hai Châu á(sau Trung
Quốc)đã gần 20 năm giữu tốc độ tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 8%/năm.
2. Về chính trị:
Chế độ người bóc lột người đã bị xố bỏ, trên phạm vi tồn xã hội khơng
cịn tồn tại giai cấp bóc lột, chế độ xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng,
nhân dân lao động trở thành người làm chủ đất nước. Chế độ xã hội chủ nghĩa
đã tạo nên sự thống nhất trong cộng đồng xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai
trị quản lí điều hành của nhà nước đã tập trung được mọi nguồn lực, sự đồng
thuận của xã hội để vượt qua khó khăn thử thách.
Thứ nhất,Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa nhân dân lao động lên
làm chủ nghĩa xã hôi,thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên
toàn thế giới.
Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ tiến
bộ được thiết lập.Bắt đầu từ bản chất giai cấp của nó,chế độ dân chủ chủ
nghĩa,chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dâ lao động,thực hiện ngày càng
20


đầy đủ những quyền dân chủ,ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm
quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Chế độ xã hội chủ nghĩa khống chỉ đảm bảo quyền làm chủ trên thực tế cho
nhân dân lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa,mà hơn thế nữa nó cịn thúc đẩy
trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa và trên

tồn thế giới.
3. Về văn hố, khoa học kỹ thuật
Các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã đạt được những thành tựu rực rỡ: nâng
cao trình độ học vấn cho người lao động, dẫn đầu thế giới về nhiều lĩnh vực,
nhất là lĩnh vực nghiên cứu chinh phục khoảng khơng vũ trụ. Trong các lĩnh vực
văn hố, giáo dục, y tế cũng có những thành tựu.
Với sức mạnh tổng hợp của mình, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã có ảnh
hưởng to lớn đến đời sống chính trị thế giới. Chủ nghĩa xã hội trở thành chỗ dựa
của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào bảo vệ hồ bình thế giới. Các
nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần thức tỉnh, cổ vũ phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Ở nhiều
nước sau khi giành độc lập dân tộc đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cho
dân tộc mình. Cũng chính sự lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của
phong trào giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động những thập niên 50, 60 và 70 của thế kỷ XX buộc các nước tư bản
chủ nghĩa muốn tồn tại phải có những điều chỉnh của nó.
Trước khi cách mạng XHCN thành cơng thì hầu hết các nước này trình độ
học vấn của nhân dân còn thấp kém,số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn (nước Nga
trước cách mạng tháng 10 có đến trên 755 số người mù chữ) thế mà sau một thời
gian xây dựng XHCH trình độ học vấn của các nước XHCN tương đối cao và
đồng đều (năm 1987 Liên Xơ có 154 triệu người có trình độ học vấn từ trung
học phổ thông trở nên)
Không chỉ thu được nhiều thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội
mà ngay trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng các nước XHCN cũng gặt hái
nhiều thành tựu to lớn.Nhờ vậy,các nước XHCN đã bảo vệ được thành quả cách
mạng,bảo vệ nền hồ bình thế giới,chỗ dựa cho phong trào cách mạng thế giới.
Những thành tựu to lớn mà các nước XHCN giành được là hết sức đáng
trân trọng,đáng ghi nhận.
Tóm lại,từ tháng 11 năm 1917 cho đến sự kiện tháng 8 năm 1991,chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ

năm 1945.Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trải qua một thời kì phát triển mạnh
21


mẽ,có những thành tựu to lớn và đã phát huy tác dụng mạnh mẽ đến tiến trình
phát triển lịch sử của loài người.Sự phát triển như vũ bão của 3 dòng thác cách
mạng trong suốt mấy thập kỷ qua đã gắn liền với sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa xã hội hiện thự và với hệ thống xã hội chủ nghĩa.
4. Liên hệ với Việt Nam về những thành tựu đã đạt được
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đưa ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy kinh tế; nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc… Nhờ vận dụng
đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương, chính sách, sản xuất trong nước
ngày càng phát triển, lưu thông ngày càng thông suốt, đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, xã hội ngày càng lành
mạnh, qua đó, chế độ XHCN ngày càng được củng cố…
* Kinh tế thị trường định hướng XHCN
Có thể nói, đây là thành quả to lớn và quan trọng của nghiên cứu lý luận
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là
mơ hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tư duy lý luận và
nhận thức về KTTT định hướng XHCN là một quá trình lâu dài, thường xuyên
và qua nhiều bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công CNXH ở
nước ta.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội; trong đó quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thơng qua thị
trường. Vì thế khơng Kinh tế thị trường chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để
phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó khơng
chỉ gồm lực lượng sản xuất, mà cịn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy
rõ ràng là khơng thể có một nền KTTT chung chung, trừu tượng tách rời khỏi
hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước

định hướng xã hội chủ nghĩa.Kinh tế thị trường hướng xã hội chủ nghĩa là nền
kinh tế vừa tuân theo quy luật của Kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối của
các nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa.Vì thế ở nư Kinh tế thị trường nước ta
vừa có những đặc trưng chung, phổ biến của mọi nền, vừa có n Kinh tế thị
trường những đặc trưng mang tính đặc thù - định hướngxã hội chủ nghĩa.Theo
tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến lần thứ X
định hướng xã hội chủ nghĩa nền Kinh tế thị trường thể hiện ở các nội dung sau
đây: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; giải phóng mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi
22


người làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi
nghèo, từng bước khá giả hơn; phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; thực hiện tiến
bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các
vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng với nguồn lực khác và thơng qua phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ
xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Sự khác nhau về bản chất của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
quá trình phát triển là điều kiện, là một “tiêu thức” quy định đặc trưng bản chất
của nền Kinh tế thị trường nước ta. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
sự quản lý của nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết
định thành công sự phát triển rút ngắn, bền vững nền Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, Kinh tế thị trường... mới không bị chệch định hưVề tốc độ tăng trưởng,
trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc

nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra
rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và
ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng hoảng kinh tế thị trường.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ
289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng
bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang
vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung
của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển
có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385
USD).Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực
kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005.
Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh
vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải
quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát
triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có
tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với
thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
23


Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa,
tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới.
Từ một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và
“đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến
nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở
rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngồi ra,
Việt Nam cịn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu

vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Phúc lợi xã hội và đời
sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá
của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm với mục tiêu xố đói giảm
nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng
đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hộingày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan
điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản
PHẦN KẾT LUẬN
Sự ra đời của hệ thống các nước XHCN là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự
trưởng thành của phong trào cách mạng chống áp bức bóc lột trên tồn thế giới.
Tuy trong q trình hình thành, phát triển hồn thiện cịn gặp nhiều thách thức,
khó khăn nhưng với những cố gắng của những người trực tiếp lãnh đạo đảng và
sự đồng lòng của các tầng lớp bị bóc lột. Các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa đã từng bươc khắc phục khó khăn và đạt được nhiều thành tựu trên mọi
mặt của đời sống xã hội. Đây là một minh chứng cho sự đúng đắn của mơ hình
xã hội chủ nghĩa và lý luận Mác-Lê nin. Khơng ai có thể phủ nhận những thành
quả mà xã hội chủ nghĩa mang lại. Những gì mà Việt nam đã và đang là trong
tương lai nhằm phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn
đúng đắn. Đặc biệt, chúng ta những sinh viên năm nhất của đại học công nghiệp
chúng ta phải luôn cố gắng, phấn đấu nỗ lực học tập để có thế đóng góp sức lực
của mình cho xã hội cũng như đất nước.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Website: www.tailieu.vn-tiểu luận hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Gs- Ts Đỗ Nguyên Phương(2010) GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC ,nxb Chính Trị Quốc Gia
Bộ giáo dục và đào tạo(2007) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC,Nxb
Chính Trị Qc Gia
HẾT----------------------------------------

25


×