Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tiểu luận cao học môn lịch sử Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.75 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) có ý nghĩa
lịch sử vô cùng quan trọng, mở ra trang sử mới chói lọi của dân tộc
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu khách quan của
lịch sử, gắn liền với công lao vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đến
nay, 83 năm đã trôi qua, nhưng việc nghiên cứu, tìm hiểu về sự vận
động ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị khoa
học. Đặc biệt, qua đó, giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về Đảng, từ đó phấn
đấu, rèn luyện để bước vào hàng ngũ của Đảng quang vinh. Đề tài mà
tiểu luận hướng đến là vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành
lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hành trình tìm đường cứu nước:
Người sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ
An trong gia đình nhà nho yêu nước. Người thanh niên Nguyễn Tất
Thành sớm có lòng yêu nước và cũng sớm nhận thấy những hạn chế
trong chủ trương cứu nước của các vị tiền bối nên đã quyết định sang
Phương Tây tìm con đường cứu nước mới.
Ngày 5 - 6 - 1911 Người đi tìm đường cứu nước từ cảng
Nhà Rồng (Sài Gòn nay là TP. HCM). Người lấy tên là Văn Ba, làm
phụ bếp cho tầu vận tải Latusơ Tơrêvin sang Pháp cấp bến cảng Mac
Xây ngày 6/7/1911. Sau những năm bôn ba qua nhiều nước TBCN và
1


thuộc địa, và làm nhiều nghề khác nhau, Người đã nhận thấy kẻ thù
của cách mạng là bọn đế quốc và lực lượng của cách mạng là giai cấp
công nhân.
Tháng 11/1917, CM tháng 10 Nga thành công đã ảnh
hưởng quyết định đến xu hướng hoạt động của Người.
1919 Người lấy tên Nguyễn ái Quốc, gửi đến hội nghị
Vecxai (của các nước đế quốc) bản yêu sách 8 điểm về quyền tự


quyết của dân tộc Việt Nam. Sự kiện đó đã thức tỉnh ý thức đấu
tranh của nhân dân ta.
Tháng 7/1920, Người đọc "Sơ thảo luận cương về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa" của Lênin và tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc ta là CMVS.
Tháng 12/1920 Người tham gia hội nghị Tua (của Đảng xã hội
Pháp), Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, tham gia sáng lập
ĐCS Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc,là : kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, kết hợp độc
lập dân tộc với CNXH. từ năm 1921 Người tiếp tục học tập để bổ sung
hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam.
2


- Với tư cách là trưởng tiểu ban Đông Dương của Đảng Cộng sản
Pháp, Người đã viết nhiều bài đăng trên báo (Báo Người cùng khổ,
Nhân Đạo, Đời sống công nhân, Tập san thư tín quốc tế, Tạp chí Cộng
sản...). Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ
nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền
tư tưởng Mác – Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và
phụ thuộc. Đây là thời gian Người thu thập tư liệu cho tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp”.
- Đặc biệt, từ ngày 17-6 đến 18-7-1924, Người đã tham dự Đại
hội lần thứ V của Quốc tế cộng sản. Tại Đại hội này, Người đã trình
bày bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bằng
nhiều số liệu và tư liệu cụ thể, bản báo cáo đã làm sáng rõ và phát triển

một số luận điểm của Leenin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về
nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh
chống áp bức bóc lột và giải phóng đấu tranh ở các thuộc địa.
Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho quá trình thành lập
Đảng: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
3


Về chính trị:
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm
chính trị (sau này phát triển thành nhưng nội dung cơ bản trong cương
lĩnh chính trị của Đảng).
Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực
dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động trên thế giới.
Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ cho nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng
dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc
đẩy cách mạng chính quốc.
Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng
đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy
cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối
công nông làm động lực cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham
gia đông đảo của các giai tầng khác.

Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải phải
có Đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được
trang bị chủ nghĩa Mác – Lênin.
4


Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không
phải của một vài người. “công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò
nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… là bầu bạn cách mệnh của công nông”.
Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng
đấu tranh từ thấp đến cao.
Những quan điểm đó được Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
truyền bá về trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phòng trào
công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh
mẽ.

Về tổ chức:
Ngay từ giữa năm 1923, trước khi rời nước Pháp sang Liên Xô,
trong một bức thư gửi cho các bạn cùng hoạt động, Người đã nói rõ ý
định của mình: “Đối với tôi, câu trả lời rõ ràng: trở về nước, đi vào
quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa
họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
Vì vậy, sau một năm rưỡi hoạt động ở Liên Xô tháng 11-1924
Người về Quảng Châu (Trung Quốc) – nơi có rất đông người Việt
Nam yêu nước hoạt động – để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập
chính đảng mác xít. Người lấy tên là Lý Thụy, công tác trong phái
đoàn cố vấn của Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật
Tiên, do Bô-rô-đin làm trưởng đoàn. Tháng 2-1925 Người lựa chọn
5



một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản
đoàn. Tháng 6-1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
tại Quảng Châu (Trung Quốc). Sau khi thành lập, từ năm 1925-1927
đã mở trên 10 lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin
cho những người trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.
Hội còn xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ, số đầu tiên
ra ngày 21-6-1925. Ngoài ra ban lãnh đạo Hội còn cử người đi học
trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) như Trần Phú, Lê
Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Hà Huy Tập… và trường Quân chính
Hoàng Phố (Trung Quốc) như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Trương
Văn Lĩnh… Tháng 7-1925 Nguyễn Ái Quốc cùng với một số nhà cách
mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia… tham gia sáng lập Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông.
Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện,
đào tạo cán bộ ở Quảng Châu được tập hợp thành cuốn Đường cách
mệnh và những hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã
có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào công
nhân, phong trào yêu nước, đưa lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tôn
chỉ, mục đích đấu tranh của Hội vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Từ năm 1928, bằng phong trào “vô sản hóa”
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã giác ngộ sâu sắc tinh
thần yêu nước và cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, bước
đầu kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
6


phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân ngày càng phát triển.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam chuyển mạnh
sang xu hướng cách mạng vô sản, đến năm 1929 với hội viên của Hội

Việt Nam Cách mạng Thanh niên để lãnh đạo và đưa cách mạng đi
đến

thắng

lợi.

Tình hình thực tế đó chứng tỏ chủ nghĩa Mác – Lênin đã thật sự thâm
nhập vào phong trào công nhân và chiếm ưu thế trong phong trào yêu
nước Việt Nam: “Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của công
nhân đã thắng lập trường giải phóng dân tộc của tư bản”.
Như vậy, từ năm 1921 đến năm 1929 bằng nhiều hình thức hoạt
động phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh kiên trì,
gian khổ nhằm truyền bá những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Đặc biệt, Người tiếp tục đào tạo, huyện luyện đội ngũ cán bộ từ việc
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 6-1925) – tổ
chức tiền thân của Đảng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Đó là sự sáng
tạo của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị về tư tưởng, chính
trị và tổ chức để dẫn tới

Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Phong trào công nhân và phong trào yêu nước lên cao đòi hỏi
phải thành lập Đảng cộng sản để đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh. Từ
7


đó dẫn đến sự phá sản các tổ chức "Thanh niên" và "Tân Việt" để
thành lập 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929);
An Nam Cộng sản Đảng (7/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn

(9/1929).
Đến cuối năm 1929, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản, hoạt
động riêng rẽ và còn công kích lẫn nhau. Tình hình đó càng kéo dài,
càng bất lợi cho cách mạng. Yêu cầu khách quan đòi hỏi các tổ chức
cộng sản phải hợp nhất mới đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu
tập hội nghị gồm đại biểu các tổ chức cộng sản trong nước để bàn về
việc hợp nhất thành một Đảng. Hội nghị diễn ra từ ngày mồng 3 đến
ngày 7/02/1930 tại Cửu Long thuộc Hương Cảng - Trung Quốc, do
Nguyễn ái Quốc chủ trì. Ngày 3/02/1930, Đảng đã ra đời, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hội nghị này Nguyễn ái Quốc còn
thảo ra những văn kiện quan trọng, được hội nghị thông qua: "Chính
cương vắn tắt", và "Sach lược vắn tắt", "Điều lệ vắn tắt", "Chương
trình hành động vắn tắt". Tuy còn sơ sài, song là những văn kiện vạch
ra những nét cơ bản nhất về đường lối chiến lược và sách lược cho
cách mạng Việt Nam.

8


KẾT LUẬN

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn liền với vai trò
vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, thể hiện rõ ở các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp
thu học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời, hướng cách mạng
Việt Nam đi theo con đường đó và giúp cách mạng Việt Nam thoát
khỏi bế tắc đường lối cứu nước. Người đầu tiên gắn chặt ngọn cờ độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, bằng phương pháp cách mạng đầy tính khoa học,

sáng tạo và tinh thần cống hiến quên mình, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra
hệ thống giao thông liên lạc bí mật, rất chặt chẽ, đa chiều từ nước
ngoài về Việt Nam và ngược lại. Kết quả là Người đã truyền bá thành
công chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, đánh lùi các tư tưởng cứu
nước sai trái. Tuyển chọn và đào tạo nên đội ngũ cán bộ cộng sản đầu
tiên cho cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, bằng uy tín và sự chuẩn bị chu đáo của mình,
Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất thành công các tổ chức cộng sản ở
Việt Nam, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Tạo sự thống nhất
về tư tưởng, chính trị và tổ chức trong phong trào đấu tranh cách
9


mạng. Đây là những điều kiện thiết yếu để đưa cách mạng Việt Nam đi
đến thành công.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng nghĩa với
việc Nguyễn Ái Quốc đã phá tan sự đơn độc tồn tại lâu đời, thiết lập
nên sự đoàn kết, thống nhất hành động giữa cách mạng Việt Nam với
cách mạng các nước Đông Dương. Đặc biệt là đưa cách mạng Việt
Nam trở thành một bộ phận khăn khít của cách mạng thế giới.

10



×