ĐĨNG GĨP CỦA THẾ GIỚI A-RẬP
Al-Khwarzimi
(khoảng 780-khoảng 850)
Đóng góp của thế giới A-rập
“Giữa thế kỷ VIII và XV, nghiên cứu khoa học tiên tiến nhất được tiến
hành bằng tiếng A-rập. Đó là ngơn ng ữ của khoa học, từ Tây Ban Nha tới
biên giới Trung Hoa”. Nhận xét của Roshdi Rashed, người chủ biên của bộ
sách đồ sộ Lịch sử khoa học A-rập (Histoire des Sciences arabes, 3 t ập,
nxb Le Seuil 1977). Vào th ế kỷ XIX, những sử gia Tây phương như Ernest
Renan xem khoa học A-rập như một trạm tiếp nối đơn thuần giữa khoa học
Hy Lạp và thời Phục hưng ở phương Tây. Ngoại trừ phát minh ra đại số
học, những nhà học giả không làm gì khác ngồi vi ệc truyền sang châu Âu
di sản của người Hy Lạp – Ptolémée, Aristote, Hippocrate, Euclide và vài
người khác. Ngày nay, n gười ta biết rằng sự thật khác hẳn. Nghiên cứu của
nhiều sử gia cho thấy người A-rập đã đóng góp nhiều biết bao trong việc
chuẩn bị, nhiều khi đi trước, cho phép nổ ra cuộc cách mạng kỹ nghệ ở thế
kỷ XVII. Và đó là thực tế trong nhiều lĩnh vực: toán học, thiên văn, hố
học và y khoa.
Nhưng, Khoa học A-rập là gì?
Khoa học A-rập? Người ta dùng thuật ngữ đó để chỉ tất cả những sản phẩm
về mặt học thuật bằng tiếng A-rập giữa các thế kỷ VIII và XV. Cần nhắc
lại rằng sau khi đế chế La Mã sụp đổ, đời sống tinh thần gần như kiệt quệ
hoàn toàn ở phương Tây. Trong nhi ều thế kỷ, tư duy không đư ợc phép vượt
qua những bức tường các tu viện, nơi Khoa học hầu như hồn tồn v ắng
bóng. Ở Phương Đông, một đời sống tri thức tiếp tục tồn tại ở các trung
tâm đô thị. Từ thế kỷ V, một nền văn hoá độc đáo nảy nở trong đế chế
Sasan (Iran hiện nay), ở biên giới đế chế Byzance. Văn hoá này thừa hưởng
những thành quả của các nền văn minh Hy Lạp, Ấn Độ và Trung Hoa,
nhưng sẽ sụp đổ khi bị những người Hồi giáo chinh phục.
Chỉ trong vòng vài thập kỷ sau khi nhà tiên tri Mahomet qua đ ời (vào năm
632), đạo Hồi sẽ lan toả ra khắp vùng Trung Đông, B ắc Phi và Tây Ban
Nha. Những vị vua A-rập chiếm lĩnh các thành phố lớn và áp đặt tiếng Arập là ngôn ngữ chính thức và ngơn ngữ văn hố. Đó là những vị vua sáng.
Họ có chính sách ưu đãi đ ối với nghệ thuật, văn chương và khoa học. Họ
xây dựng nhiều thư viện lớn, cho người dịch sang tiếng A-rập những tác
phẩm Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, byzantin, syriaque, v.v. Bagdad, r ồi sau đó
tới Le Caire, Cordoue, trở thành những trung tâm trí thức nổi tiếng tại đó
các ơng hồng sát cánh với những nhà văn, nhà tốn học, nhà thiên văn hay
những vị thầy thuốc lớn.
Một đời sống trí thức cực kỳ phong phú diễn ra bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII.
Người ta thường phân biệt hai giai đoạn: thời gian đầu dành cho những
cơng trình dịch thuật, bình luận và sưu tập những tác phẩm xưa. Giai đoạn
sau, trễ hơn tuy rằng hai giai đoạn có những thời gian trùng l ắp, là cả một
thời đại sáng tạo. Những nhà thông thái A -rập đặc biệt rạng rỡ trong nhiều
lĩnh vực: toán học, thiên văn, y h ọc và giả kim học.
Toán học
Trước hết, toán học A-rập thừa kế hai truyền thống lớn: toán học Hy Lạp
(Những phần tử của Euclide đã đư ợc dịch), và đóng góp r ất phong phú c ủa
toán học Ấn Độ, hướng về các kỹ thuật tính tốn. Những nhà tốn học Arập sẽ thu nhập các thành quả đó và đẩy xa hơn nhiều khám phá. AlKhwarzimi (thuật ngữ algorithm – tiếng Anh, có nghĩa là thuật tốn – được
đặt ra từ tên ơng), một trong những tên tuổi lớn nhất của trường toán
Bagdad, cho xuất bản vào khoảng năm 830 một chuyên luận về các phương
trình nhiều ẩn số, mở ra một chuyên ngành m ới: đại số - mà tên tiếng Anh
Algebra cũng có nguồn từ tên tập sách này. R. Rashed nh ận xét: “đó là một
sự kiện mấu chốt (…). Tầm quan trọng của tác phẩm được cộng đồng toán
đương thời cũng như nhiều thế kỷ sau này công nhận. Cuốn sách của AlKhwarzimi không ngừng tạo hứng khởi và là chủ đề bình luận của các nhà
tốn học, khơng chỉ bằng tiếng A-rập hay tiếng Ba Tư, mà cả với tiếng Latinh hoặc trong các ngôn ng ữ Tây Âu cho tới thế kỷ XVIII”.
Những cơng trình c ủa Al-Khwarzimi mở ra một dịng nghiên cứu tốn theo
hai hướng: hình học và số học, theo R. Rashed. Những tiến bộ vượt bậc
được đạt tới sau khi sách ra đ ời, trong số học, các thuật tốn, hình học, đại
số và lượng giác.
Thiên văn
Người A-rập chú trọng tới thiên văn do những mối quan tâm tôn giáo. Thực
vậy, Khoa học này liên hệ trực tiếp với vài đòi hỏi của nghi thức lễ Hồi
giáo: xác định tháng Ramadan, những giờ khởi hành lễ cầu kinh, định
hướng nhìn về La Mecque. Thiên văn học A-rập được thừa hưởng những
thành quả của người Ấn và Babylon, nhưng h ệ quy chiếu chính của nó vẫn
là hệ thống địa trung tâm của người Hy Lạp Ptolémée.
Những nhà bác học A-rập sẽ tập trung vào việc quan sát chuyển động của
các vì sao nhờ những dụng cụ quan sát xách tay (máy đẳng cao, thư ớc đo
góc vng). Họ cũng xây dựng đài thiên văn l ớn qua đó họ thiết lập những
bảng số liệu thiên văn và sử dụng những cơng cụ tốn hồn thiện để tính
tốn chuyển động của các vì sao và các hành tinh. Ho ạt động đó giúp họ
làm tinh vi hơn, sửa lỗi và xem xét lại mơ hình Ptolémée, dù v ề cơ bản
khơng thay đổi nó. Tuy nhiên, khi nêu rõ nh ững điểm bất thường, khi nhân
lên các quan sát và tính tốn, khơng th ể chối cãi là họ đã tạo ra những tiền
đề cho cuộc cách mạng Copernic.
Thuật giả kim
al-Razi (865-925)
Thuật giả kim ở thời thượng cổ và trung cổ không chỉ bao gồm một vài ảo
thuật huyền bí nhằm biến chì thành vàng (“cơng trình vĩ đại”) , như ngư ời
ta thường tưởng thế. Thuật giả kim A-rập chính là tiền thân của hố học
hiện đại. Tại đây, người ta nghiên cứu những tính chất của các kim loại,
các loại muối, mỏ, thành phần của chúng, phản ứng của chúng trư ớc sức
nóng, độ lạnh, khi được trộn với nhau, v.v. Bác sĩ Abu Bakr al -Razi (868924), được biết với tên Rhazès ở phương Tây, là người chiếm vị trí “đỉnh
cao của Khoa học giả kim hay đúng hơn là hoá h ọc A-rập”. Trong chuyên
luận Secretum secretorum, ông mô tả nhiều thao tác hố học: sự chưng cất,
nung khơ, hồ tan, làm b ốc hơi, kết tinh, thăng hoa, lọc, sự hỗn hống hoá,
v.v. Khoa học giả kim này, nửa triết học, nửa thực nghiệm, cịn có một áp
dụng thực tế: bào chế thuốc men, làm ra các lo ại chất độc, phẩm màu để
sơn và nhuộm, những hoạt chất để tẩy uế kim loại.
Jabir ben Hayyan (721-815), nhà giả kim A-rập nổi tiếng nhất, được biết ở
phương Tây dưới tên Geber. Được nhiều vị chúa là mạnh thường quân của
Khoa học và nghệ thuật hỗ trợ, ông vừa là người thực nghiệm, nhà lý
thuyết và sưu tập. Người ta cho rằng ông là tác giả của một khối lượng
sách vở khổng lồ (Một trăm mười hai cuốn sách, Mười cuốn sách chỉnh
sửa, Sách về các cân, v.v.). Geber đã đ ề ra một bảng xếp loại các phần tử
theo tính chất của chúng: khơ hoặc ẩm, nóng hay lạnh. Ơng cũng tìm cách
tìm ra các tính chất của các hoá chất tự nhiên bằng cách kết hợp chúng với
nhau. Geber tin ở khả năng chuyển đổi của các kim loại, nhưng tỏ ra dè dặt
đối với các quan niệm bí ẩn hay ma thuật thường thấy trong ngành gi ả kim.
Y học
Cũng như các chuyên ngành khác (toán, thiên văn, gi ả kim), y học A-rập
mang nặng các ảnh hưởng Hy Lạp và La Mã (Hippocrate và Galien), nhưng
cũng chịu ảnh hưởng của ngành dược học phong phú của Ấn Độ cũng như
những kỹ thuật y học từ các bộ tư liệu này. Trong cuốn bách khoa thư về y
học, Toàn tập đầy đủ về y học, al-Razi, hay cũng g ọi là Rhazès, nêu ra đ ối
với mỗi bệnh tật, ý kiến của người Hy Lạp, người Syrie, người Ấn Độ,
người Ba Tư, người A-rập, trước khi đưa ra những nhận xét bổ sung và
những lời bình dựa trên chính những quan sát của ơng. Giám đốc bệnh viện
Bagdad, ông vừa là thầy thuốc thực hành, vừa là nhà giáo. Cơng trình đư ợc
biết nhiều nhất của ông mô tả rất tỉ mỉ bệnh đậu mùa và bệnh sởi.
Ibn Sina (980-1037)
Tên tuổi lớn nữa của y học A-rập là Ibn Sina (980 -1037), được biết tới ở
Tây phương dưới tên Avicenne. Người thầy thuốc kiêm triết gia Ba Tư này
đã để lại một tác phẩm lớn vào thế kỷ X, cuốn Quy tắc Y khoa. Thường
người ta chỉ giữ lại từ Avicenne lý thuyết 4 tính khí (4 humeurs) mà ông k ế
thừa một phần từ Hippocrate và Galien, cũng như nh ững lời bình của ơng
về Aristote. Như vậy là quên đi phần chính yếu. Là một thầy thuốc lâm
sàng xuất sắc, Avicenne đã để lại trong các tác phẩm của ơng những phân
tích rất sâu về các bệnh viêm màng óc, viêm màng ph ổi và chứng ngập
máu. Quan điểm của ông về chữa bệnh được dựa trên những kỹ thuật bào
chế thuốc cũng như tiết thực.
Khoa học A-rập được truyền sang phương Tây như th ế nào?
Vào thế kỷ X, tiếp xúc tri thức giữa Đơng và Tây cịn ít và ngồi l ề. Nhưng
từ thế kỷ XII, Khoa học A-rập bắt đầu xâm nhập vào phương Tây. Tiếp đó,
các cuộc dịch thuật được nhân lên. Các đại học châu Âu, đang trong quá
trình tỉnh thức trí tuệ, sẽ khám phá ra truyền thống Hy Lạp thông qua các
bản dịch từ tiếng A-rập. Aristote, Euclide, Ptolémée, Hippocrate, t ất cả đều
được dịch lại thông qua bản dịch A-rập.
Những nhà toán học hay thiên văn như Al -Khwarizimi cũng đư ợc dịch. Ảnh
hưởng A-rập xâm nhập bắt đầu từ Tây Ban Nha. Rồi tới các tác giả Do
Thái, đến từ Trung Đông, biết tiếng A-rập. Sau cùng, các tu sĩ cũng khuy ến
khích việc đưa vào nhà thờ Thiên chúa giáo những tác phẩm này, rồi sau đó
là các bản dịch trực tiếp từ tiếng Hy Lạp sang La tinh. Sự di chuyển các ý
tưởng và tri thức này sẽ trở thành một chất men chính của cuộc cách mạng
kỹ thuật vào thế kỷ XVII.
Achille Weinberg