Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi trường Việt Nam: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 100 trang )

205

Chương III
NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM
NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN
I. NHU CẦU VÀ ĐỊNH HƯỚNG HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN
1. Nhu cầu hồn thiện pháp luật mơi trường Việt
Nam nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô
nhiễm phải trả tiền
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại hội XII của Đảng (20/0128/01/2016) tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của
Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
trong giai đoạn phát triển mới. Báo cáo chính trị trình Đại hội
XII xác định: “Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp,
tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính
trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh
tế, văn hóa, xã hội. Hồn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ,
phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh hoàn thiện


206

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM


và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước. Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực
nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định
rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền”1. Trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người vừa
là nguồn gốc, vừa là nguồn lực, vừa là mục tiêu của q trình
xây dựng Nhà nước, trong đó có quyền con người được sống trong
một môi trường trong lành, mơi trường khơng bị ơ nhiễm. Do đó,
các chế định về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền và
nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền đóng vai trị rất quan trọng để đạt được mục tiêu này.
Thứ hai, xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng về
phát triển bền vững trong bảo vệ mơi trường. Tại hội nghị trực
tuyến tồn quốc về mơi trường ngày 24/8/2016, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Xn Phúc đã phát biểu: “Không đánh
đổi môi trường lấy kinh tế, gây ảnh hưởng người dân”2. Quan
điểm về phát triển bền vững không phải lần đầu được nhắc đến
trong phát biểu của người đứng đầu Chính phủ Việt Nam. Các
nội dung về phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ mơi trường,
bảo đảm tiến bộ xã hội trước đó đã được đưa vào các văn kiện
quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Cương lĩnh
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 39-40.
2. “Không đánh đổi môi trường lấy kinh tế, ảnh hưởng người dân”,
(truy cập ngày 25/8/2016).


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...


207

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đánh
giá vấn đề tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu là thách
thức có tính tồn cầu, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển
của đất nước, xác định rõ định hướng mục tiêu, nhiệm vụ và
giải pháp để đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, mơi trường
và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Cương lĩnh nhận
định: “Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề tồn
cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh lồi người. Đó là giữ
gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo
vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tồn cầu... Việc
giải quyết những vấn đề đó địi hỏi sự hợp tác và tinh thần
trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc”1.
Năm 2013, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI với những đánh giá đồng bộ về vấn đề biến đổi
khí hậu và tài nguyên, môi trường, đã thông qua Nghị quyết
số 24-NQ/TW về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng
cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đây là vấn đề
chiến lược có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển bền vững
của nước ta, được đề cập nhiều lần trong các Báo cáo chính trị ở
nhiều kỳ Đại hội Đảng toàn quốc2. Đây là cơ sở quan trọng cho
việc hồn thiện pháp luật mơi trường nói chung, pháp luật về
ngun tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền nói riêng.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 69.
2. Xem thêm Võ Trung Tín: “Bảo đảm quyền con người trong
chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậu ở Việt Nam”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 04 (308), 2016.


208

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM

Thứ ba, xuất phát từ thực trạng môi trường hiện nay.
Trong những năm qua, cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu sắc và toàn diện, kinh tế nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, ngày càng khẳng định được vị thế
trên trường quốc tế. Kinh tế luôn đạt mức tăng trưởng cao, tạo
nhiều thuận lợi cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao đời sống
nhân dân. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội cũng làm
nảy sinh nhiều hệ lụy phức tạp đối với môi trường. Mặc dù, có
nhiều nỗ lực trong việc thiết lập các cơ chế và giải pháp bảo vệ
môi trường trong thời gian qua, nhưng thực trạng mơi trường
Việt Nam vẫn cịn thách thức, đó là sự gia tăng của ơ nhiễm
mơi trường và sự cố môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con
người và sinh vật; năng lực ứng phó sự cố cịn hạn chế; biến đổi
khí hậu và các vấn đề môi trường xuyên biên giới ngày càng
lớn, phức tạp, khó lường, đặt ra các yêu cầu ngày càng cao đối
với công tác bảo vệ môi trường1... Những vấn đề nêu trên tạo
ra các áp lực lên môi trường nước ta. Nếu khơng có giải pháp
cấp thiết, thỏa đáng sẽ tạo ra lực cản lớn đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, đe dọa nghiêm trọng sự phát triển bền
vững của đất nước.
Thứ tư, xuất phát từ thực trạng các quy định pháp luật môi
trường Việt Nam hiện nay. Hệ thống pháp luật quy định về môi

trường ở Việt Nam đã phát triển cả về nội dung lẫn hình thức,
điều chỉnh tương đối đầy đủ các yếu tố tạo nên thành phần
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo môi trường quốc gia giai
đoạn 2011-2015, 2015, tr. 221-226.


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM...

209

mơi trường. Các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã quy
định từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý
nhà nước về môi trường, đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi
cá nhân, tổ chức trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi
trường; là cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa
vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ môi trường. Các quy định
pháp luật đã chú trọng tới khía cạnh tồn cầu của vấn đề mơi
trường; xác định rõ bảo vệ mơi trường là sự nghiệp của tồn
dân chứ khơng phải chỉ là trách nhiệm riêng của Nhà nước.
Tuy nhiên, các văn bản pháp luật về môi trường liên quan đến
từng yếu tố môi trường hay điều chỉnh những hoạt động của
con người tác động đến môi trường được ban hành chưa đồng
bộ cả về mặt thời gian ban hành và nội dung của các quy định.
Các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ
ở các thành tố, nội dung các quy định pháp luật đã cụ thể hóa
tương đối kịp thời và đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về môi trường
mà Việt Nam đã cam kết. Tuy nhiên, cơ chế bảo đảm thực thi
pháp luật quốc gia cũng như cam kết quốc tế chưa cao. Các
biện pháp chế tài nói chung chưa thích hợp và chưa đủ mạnh
để trừng trị và răn đe những hành vi vi phạm1.

Thứ năm, xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế. Môi
trường là một thể thống nhất về không gian và giữa các yếu tố
cấu thành. Sự tác động đến môi trường ở khu vực này, quốc gia
1. Xem thêm Võ Trung Tín: “Tổng quan về pháp luật môi trường
Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Môi trường và nhà
nước pháp quyền: tăng cường thực thi pháp luật về môi trường ở khu
vực Đông Nam Á” do Viện Nhà nước và Pháp luật - Chương trình
pháp quyền châu Á tổ chức, 2014.


210

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM

này sẽ gây ảnh hưởng đến khu vực khác, quốc gia khác, đặc
biệt là ô nhiễm khơng khí xun biên giới. Cùng với xu thế
tồn cầu hóa và khu vực hóa, Việt Nam ngày càng chủ động hội
nhập khu vực và quốc tế. Ở cấp độ song phương và đa phương,
Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với nhiều quốc
gia, gia nhập nhiều tổ chức trên thế giới. Việc tham gia vào sân
chơi chung, với yêu cầu phải tôn trọng “luật chơi chung”, điều
này khiến Việt Nam phải đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật của
mình, trong đó có pháp luật về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường.
Bên cạnh việc tích cực ban hành các văn bản pháp luật liên
quan đến việc bảo vệ môi trường, Việt Nam đã từng bước tham
gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường1. Việc phê chuẩn
các công ước này là tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của
pháp luật Việt Nam với những tiêu chuẩn và quy phạm phổ
biến của pháp luật quốc tế; điều chỉnh hoạt động của con người
tác động vào thiên nhiên, gây ảnh hưởng đến môi trường. Điều

này vừa là thời cơ, vừa là thách thức trong việc nội luật hóa
các quy định pháp luật quốc tế vào trong pháp luật mơi trường
Việt Nam, trong đó có ngun tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
1. Việt Nam là quốc gia thành viên của hơn 20 Điều ước quốc tế
về môi trường. Tiêu biểu là các Điều ước: Công ước về Luật biển năm
1982; Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn năm 1985; Công ước New
York về biến đổi khí hậu năm 1992; Cơng ước về kiểm soát, vận chuyển
qua biên giới các phế thải nguy hiểm và tiêu hủy chúng (Công ước
Basel năm 1989); Công ước về bn bán quốc tế các lồi động vật, thực
vật hoang dã có nguy cơ diệt chủng (Cơng ước CITES năm 1973); Cơng
ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như
là nơi cư trú của lồi chim nước (Cơng ước RAMSAR năm 1971); Công
ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển (Công ước MARPOL năm 1973);
Công ước về đa dạng sinh học năm 1992; Công ước về việc bảo vệ di sản
văn hóa và tự nhiên thế giới năm 1972;...).


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM...

211

2. Định hướng hồn thiện pháp luật môi trường Việt Nam
nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền
Một là, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và vững chắc cho việc nâng
cao hiệu lực và hiệu quả của công tác sử dụng các nguồn tài
chính cho hoạt động bảo vệ môi trường. Về mặt lý luận cũng như
thực tiễn, khó có thể bảo vệ mơi trường một cách có hiệu quả, nếu
khơng có nguồn tài chính bảo đảm. Bên cạnh cơng cụ pháp luật
và chính sách có tính chất mệnh lệnh mà Nhà nước đã và đang

áp dụng trong việc quản lý và bảo vệ môi trường ở nước ta hiện
nay thì cịn có một cơng cụ khơng kém phần hữu hiệu mà chúng
ta đang sử dụng là công cụ kinh tế. Nguồn tài chính cho hoạt
động bảo vệ mơi trường góp phần khuyến khích sự phát triển
khoa học - kỹ thuật và đổi mới cho sự phát triển của nền công
nghệ quốc gia. Việc tổ chức thực hiện thu thuế tài ngun, thuế
bảo vệ mơi trường, phí bảo vệ môi trường một mặt tạo nguồn
thu đáng kể cho ngân sách nhà nước để đầu tư, khắc phục, cải
thiện mơi trường; mặt khác, nhằm mục đích khuyến khích các
nhà sản xuất, kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi
hành vi ơ nhiễm theo hướng tích cực, có lợi cho môi trường. Tuy
nhiên, việc quản lý và sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động
bảo vệ mơi trường ở nước ta hiện nay cịn có nhiều điểm bất cập.
Do đó, để nhiệm vụ phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ngày
càng bền vững, việc phát huy tốt cơng cụ tài chính cho hoạt động
bảo vệ mơi trường là một trong những nhiệm vụ không chỉ của
các cơ quan quản lý nhà nước mà còn đối với tất cả những chủ
thể có hoạt động bảo vệ mơi trường và cả cộng đồng. Đặc biệt,


212

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM

phải tăng tính hiệu quả của việc áp dụng công cụ pháp luật
kết hợp với cơng cụ tài chính cho hoạt động bảo vệ mơi trường;
phát huy vai trò chủ động và ý thức bảo vệ môi trường của các
doanh nghiệp, các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, trong tương
lai nguồn tài chính của tổ chức, cá nhân phải được xem là nguồn
tài chính hàng đầu cho công tác bảo vệ môi trường.

Hai là, xây dựng và áp dụng các biện pháp đồng bộ nhằm
bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thi hành pháp luật về mơi trường.
Như đã đề cập, có nhiều biện pháp bảo vệ mơi trường. Trong
đó, pháp luật được xem như biện pháp bảo đảm hữu hiệu. Nếu
không áp dụng tốt pháp luật, biện pháp chính trị chỉ dừng lại
ở các “tuyên ngôn giấy” về môi trường. Khi việc tuyên truyền
không làm thay đổi nhận thức của mọi người, cần phải áp dụng
chế tài để mang tính răn đe. Nếu khơng áp dụng tốt pháp luật,
thì khơng khuyến khích được các chủ thể đầu tư công nghệ
hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm ít gây ra ơ nhiễm mơi
trường. Thực tiễn cho thấy rằng, cơ sở pháp lý cho hoạt động
bảo vệ môi trường đầy đủ và vững chắc đến mấy mà khơng
có các biện pháp đồng bộ để bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thi
hành pháp luật môi trường Việt Nam nhằm bảo đảm thực hiện
nguyên tắc người gây ơ nhiễm phải trả tiền, thì cơ sở pháp lý
này khơng phát huy được vai trị của mình. Các biện pháp đồng
bộ ở đây được hiểu không chỉ các biện pháp như xử lý dân sự,
xử lý hành chính, xử lý hình sự mà cả các biện pháp tổ chức,
cán bộ, các biện pháp kinh tế, tài chính, tín dụng... khơng chỉ
gồm các biện pháp hồn thiện pháp luật mà cả các biện pháp
tổ chức thi hành pháp luật, bảo vệ pháp luật.


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...

213

Ba là, tuân thủ các quy định mang tính ngun tắc của
luật mơi trường. Nói đến bất kỳ một lĩnh vực pháp luật nào,
cũng thường đề cập những vấn đề mang tính nguyên tắc. Luật

mơi trường cũng khơng nằm ngồi hướng tiếp cận này. Hồn
thiện pháp luật Việt Nam về mơi trường phải tn thủ các quy
định mang tính ngun tắc của luật mơi trường. Nguyên tắc
nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong
một môi trường trong lành đặt ra u cầu hồn thiện các quy
định pháp luật mơi trường gắn liền với bảo đảm quyền được
sống trong môi trường khơng bị ơ nhiễm. Ngun tắc phịng
ngừa đặt ra yêu cầu chủ động trong việc dự liệu rủi ro. Ngun
tắc mơi trường là một thể thống nhất địi hỏi có sự phân cơng,
phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường một
cách đồng bộ. Nguyên tắc phát triển bền vững là sự kết hợp các
mục tiêu kinh tế - môi trường và bảo đảm tiến bộ xã hội.
Bốn là, kế thừa quy định mang tính ưu việt đã có của Việt
Nam cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế về xây dựng, phát
triển pháp luật mơi trường. Hồn thiện các quy định pháp luật
Việt Nam về môi trường không thể không kế thừa những điểm
tiến bộ của các quy định pháp luật môi trường hiện hành của Việt
Nam, đồng thời tham khảo những kinh nghiệm quốc tế. Chúng ta
đã có hơn 20 năm xây dựng và từng bước hồn thiện pháp luật về
mơi trường, đó là những tiền đề đầu tiên và quan trọng để tiếp tục
sửa đổi, bổ sung các quy định này. Trong khi đó, cộng đồng quốc tế
đã có nhiều kinh nghiệm trong việc áp dụng nguyên tắc người gây
ô nhiễm phải trả tiền. Việt Nam hồn tồn có khả năng và điều
kiện áp dụng các kinh nghiệm đó vào việc xây dựng và hoàn thiện


214

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM


pháp luật về mơi trường. So với các lĩnh vực khác, khả năng tham
khảo các kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền có phần thuận lợi hơn vì đây khơng phải
là vấn đề q nhạy cảm về chính trị. Hơn nữa, cách tiếp cận của
các nước trên thế giới cũng được đút kết từ kinh nghiệm lập pháp
và hành pháp của nhiều quốc gia. Chính vì vậy, trong lĩnh vực
mơi trường, chúng ta có thể hài hịa ở mức độ cao pháp luật quốc
gia với luật quốc tế và pháp luật các nước.
Năm là, sử dụng có hiệu quả sự can thiệp của thể chế bảo
vệ môi trường. Mặc dù Việt Nam đang có những cố gắng rất lớn
trong việc xây dựng chính sách và pháp luật môi trường hướng
tới sự phát triển bền vững, song môi trường vẫn chưa được bảo
vệ một cách hiệu quả và thể chế mơi trường chưa phù hợp chính
là một trong những nguyên nhân cơ bản. Thể chế không chỉ bao
gồm pháp luật. Thể chế cần được hiểu rộng hơn, toàn diện hơn,
là toàn bộ tất những ràng buộc mà con người tạo ra nhằm định
hình các quan hệ tương tác về chính trị, kinh tế, xã hội. Những
ràng buộc này bao gồm những ràng buộc phi chính thức (ràng
buộc mang tính xã hội, tơn giáo, phong tục, truyền thống) và
những ràng buộc chính thức như hiến pháp, luật1... Pháp luật
và chính sách khơng phải là điều cơ bản nhất. Quy trình phát
triển cơ chế thực thi mới là con đường dài phải đi. Pháp luật,
chính sách có thể tốt nhưng vẫn không đủ để tạo sự phát triển.
Điều này đúng trong trường hợp của Việt Nam, ít nhất là đối với
1. Theo cách hiểu của Douglass Cecil North (1920), một nhà kinh
tế người Mỹ nổi tiếng với các cơng trình về lịch sử kinh tế. Ông là người
cùng nhận giải Nobel kinh tế năm 1993 với Robert William Fogel.


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM...


215

lĩnh vực mơi trường. Một ví dụ đủ để minh chứng điều này là chỉ
không lâu sau khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 ban hành
với nhiều kỳ vọng sẽ giúp hạn chế, kiểm sốt được tình trạng ơ
nhiễm thì sự kiện Formosa xảy ra. Tiếp đó là hàng loạt các dự án
lớn gây ô nhiễm nghiêm trọng bị phát hiện, tạo nên một cơn địa
chấn trong lĩnh vực môi trường. Các dự án này đều có đánh giá
tác động mơi trường, được cơ quan có thẩm quyền thẩm định,
phê duyệt. Tuy nhiên, chỉ một phần thể chể chế được tham gia
cuộc chơi “chọn giữa dự án và môi trường”, cụ thể là nhà nước,
doanh nghiệp. Cộng đồng và người dân còn chưa tham gia vào
cuộc chơi này. Sự bất cập về thể chế môi trường cho thấy Nhà
nước đang thượng tôn pháp luật nhưng chưa thượng tơn được
vai trị của pháp luật. Điều này có nghĩa là pháp luật chỉ để sử
dụng khi có vi phạm, khi cần xử lý. Giá trị kiến tạo cuộc chơi
sòng phẳng bằng các ràng buộc còn rất hạn chế1.
II. GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG
VIỆT NAM NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HIỆU QUẢ
NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN
1. Sửa đổi các quy định pháp luật về thuế bảo vệ
môi trường
Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 đã quy định được
nhiều vấn đề, điều chỉnh cơ bản những hoạt động có tác động
tới môi trường như: đối tượng chịu thuế, mức thuế suất,
1. Lê Hồng Hạnh: “Vấn đề bảo vệ môi trường trong Hiệp định tiến bộ
tồn diện xun Thái Bình Dương CPTPP”, tài liệu Hội thảo cấp khoa của
Khoa Pháp luật kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội “Bảo vệ mơi trường
để phát triển kinh tế và vai trị của pháp luật”, Hà Nội, 2018, tr. 43.



216

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM

phương pháp tính thuế... Tuy nhiên, đối chiếu với mục tiêu,
yêu cầu đặt ra thì vẫn cịn nhiều nội dung cần phải được tiếp
tục hồn thiện, bổ sung và thay đổi.
Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế. Các quy định về đối tượng
chịu thuế bảo vệ mơi trường cần bao hàm mọi sản phẩm, hàng
hóa gây tác động tiêu cực đến môi trường nhằm bảo đảm mục
đích tạo sự cơng bằng cho tất cả những chủ thể gây ô nhiễm
phải trả tiền. Điều này Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010
chưa làm được. Đến thời điểm hiện nay, khi áp dụng Luật Thuế
bảo vệ mơi trường năm 2010 được một thời gian, có thể xem
xét, lựa chọn những đối tượng phù hợp với trình độ phát triển,
khả năng chịu đựng của nền kinh tế. Việc đưa vào diện chịu
thuế một loại sản phẩm còn cân nhắc đến khả năng thực hiện
được của nhà sản xuất, của cơ quan quản lý và tính khả thi của
luật. Hơn nữa, việc đánh thuế cịn phải tính đến khả năng chịu
đựng của người sản xuất và tiêu dùng, tính đến lợi ích trong
lựa chọn giữa bảo vệ mơi trường và phát triển kinh tế. Khơng
thể có sự phát triển kinh tế cao cùng với bảo vệ môi trường tốt
khi điều kiện có hạn.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, chỉ nên lựa chọn những
sản phẩm có ảnh hưởng tới môi trường trên diện rộng và xác
định mức thuế hợp lý, bảo đảm khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế, cũng như khả năng tiêu dùng của người dân. Trên thực
tế có rất nhiều sản phẩm khi sử dụng, thải bỏ đều gây ô nhiễm

môi trường, nhưng mức độ gây ô nhiễm ở mức khác nhau. Tuy
vậy, để bảo đảm tính thuyết phục của luật, cần phải lý giải
cụ thể về căn cứ xác định đối tượng chịu thuế, đối tượng chưa


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...

217

thuộc diện chịu thuế trong khi có rất nhiều sản phẩm cùng gây
ơ nhiễm mơi trường. Và để bảo đảm tính bao qt, cơng bằng
của quy định về đối tượng chịu thuế, cần phải rà sốt lại danh
mục hàng hóa, khảo sát thêm thực tiễn, bổ sung các đối tượng
chịu thuế dựa trên nguyên tắc đã là sản phẩm gây tác động
tiêu cực đến mơi trường thì phải thuộc diện chịu thuế. Đối với
những sản phẩm, hàng hóa có mức độ tác động khơng lớn hoặc
hàng hóa có gây ơ nhiễm song tại thời điểm hiện nay cần hỗ
trợ để bảo đảm tính cạnh tranh thì trước mắt có thể áp dụng
thuế suất thấp hoặc quy định mức thuế suất 0% để xử lý linh
hoạt trong một số trường hợp cần thiết, tránh tình trạng phải
sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tính ổn định của Luật Thuế bảo vệ
mơi trường.
Về tính cụ thể trong quy định về đối tượng chịu thuế: Luật
Thuế bảo vệ mơi trường năm 2010 cho phép Chính phủ quy
định chi tiết về đối tượng chịu thuế bằng văn bản dưới luật.
Ta thấy việc xác định đối tượng chịu thuế là một trong những
vấn đề cốt lõi, cơ bản của một đạo luật về thuế, liên quan trực
tiếp đến quyền, nghĩa vụ của nhiều tổ chức, cá nhân. Do đó, nội
dung này phải được xác định cụ thể ngay trong Luật Thuế bảo
vệ mơi trường nhằm bảo đảm tính minh bạch, thuận tiện trong

áp dụng chính sách. Vì vậy, cần phải rà soát, bổ sung các quy
định chi tiết nhằm làm rõ đối tượng chịu thuế. Ngoài ra, một
trong những mục tiêu đặt ra đối với việc ban hành Luật Thuế
bảo vệ môi trường là bằng việc thu thuế bảo vệ môi trường sẽ
khai thác nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo nguồn lực
đầu tư cho việc khắc phục hậu quả, cải thiện môi trường.


218

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM

Do đó, nếu đối tượng chịu thuế được quy định trong Luật Thuế
bảo vệ môi trường q hẹp thì khó có thể đáp ứng được mục
tiêu này.
Thứ hai, về căn cứ tính thuế bảo vệ mơi trường là số lượng
hàng hóa tính thuế và mức thuế tuyệt đối. Căn cứ này có ưu
điểm là dễ áp dụng trong việc xác định mức thuế nhưng lại
không phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền, đó là số tiền phải trả cho hành vi gây ơ nhiễm
phải tương xứng với tính chất và mức độ gây tác động xấu đến
môi trường. Yếu tố “ngang giá” cần được ưu tiên trong việc buộc
chủ thể gây ô nhiễm phải trả. Cần xác định rõ mục tiêu chính
của việc áp dụng thuế này, đó là tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước, hay như là công cụ kinh tế tác động vào hành vi
gây biến đổi môi trường. Nếu quan niệm đây là nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, cần quy định cụ thể về phương pháp xác
định số lượng hàng hóa tính thuế. Nếu quan niệm đây là công
cụ kinh tế tác động vào hành vi gây biến đổi môi trường, trong
điều kiện hiện nay, cùng với kinh nghiệm của việc áp dụng loại

thuế này, tác giả nghĩ có thể chuyển sang mức thuế tương đối.
Thứ ba, về căn cứ xác định khung thuế suất. Việc xác định
thuế suất thuế bảo vệ môi trường là vấn đề cốt lõi và phức tạp,
phải được dựa trên những luận cứ khoa học chặt chẽ, căn cứ
thực tiễn xác đáng. Các tiêu chí để xây dựng khung thuế suất
đối với một số đối tượng chịu thuế như trong Luật Thuế bảo
vệ môi trường năm 2010 là chưa đủ căn cứ thực tiễn nên tính
thuyết phục chưa cao. Việc xác định khung thuế suất đối với
một số mặt hàng như xăng, dầu, than... dựa trên mức phí


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM...

219

bảo vệ mơi trường là chưa hợp lý vì tính chất điều tiết của hai
cơng cụ là khác nhau. Mặt khác, phí bảo vệ môi trường xác
định mức thu cụ thể, nhưng thuế bảo vệ mơi trường lại quy
định khung thuế suất. Vì vậy, để các quy định của Luật Thuế
bảo vệ môi trường mang tính thuyết phục, cần lý giải rõ căn
cứ tính thuế, tác động về kinh tế - xã hội, mức độ gây ô nhiễm
môi trường đối với từng mặt hàng dựa trên những luận cứ khoa
học, có số liệu minh chứng cụ thể, tránh tình trạng áp dụng
thuế suất chủ quan, khơng bảo đảm cơng bằng trong áp dụng
chính sách. Cần áp dụng mức thuế suất cao đối với sản phẩm
gây ơ nhiễm mơi trường mà có sản phẩm khác thay thế nhằm
khuyến khích sử dụng các sản phẩm thân thiện với mơi trường,
góp phần thay đổi hành vi tiêu dùng, thói quen sử dụng. Tuy
nhiên, đối với sản phẩm khơng có sản phẩm khác thay thế thì
cần cân nhắc áp dụng thuế suất không cao, tránh làm tăng giá

sản phẩm, gây bất lợi cho người tiêu dùng.
Thứ tư, về thẩm quyền xác định thuế suất trong khung
thuế suất. Quốc hội quy định khung thuế suất, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội sẽ quy định các mức thuế suất cụ thể. Việc giao
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định các mức thuế suất cụ
thể là hợp lý, bảo đảm tính linh hoạt trong điều hành, phù hợp
với biến động trong điều kiện kinh tế chưa ổn định. Tuy nhiên,
Luật Thuế bảo vệ môi trường không nên quy định khung thuế
suất mà cần phải quy định mức thuế suất cụ thể ngay trong
Luật nhằm bảo đảm nguyên tắc thuế suất do Quốc hội quyết
định để áp dụng ổn định. Riêng đối với trường hợp đặc thù như
xăng dầu, than, để bảo đảm lộ trình thực hiện phù hợp với


220

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM

tình hình biến động giá cả và đáp ứng việc thực hiện cam kết
quốc tế, có thể quy định khung thuế suất và giao Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quyết định mức thuế suất trong từng thời kỳ.
Thứ năm, về biên độ khung thuế suất. Biên độ khung thuế
suất quy định là quá rộng đối với hầu hết các nhóm hàng, mặt
hàng. Để khắc phục điều này, cần chia nhỏ các nhóm hàng ra,
có khung thuế suất riêng đối với từng mặt hàng. Đối với hàng
hóa chịu sự biến động lớn về giá, có thể quy định biên độ rộng,
còn đối với những mặt hàng khác cần thu hẹp biên độ lại.
Thứ sáu, ban hành các quy định về bán hạn ngạch ô
nhiễm. Như đã đề cập, Việt Nam chưa triển khai trong khi đây
là giải pháp hay mà các nước phát triển đang áp dụng. Do đó,

song song với việc áp dụng thuế bảo vệ môi trường, chúng ta cần
nghiên cứu và sớm ban hành các quy định về hình thức này. Việc
bán hạn ngạch ô nhiễm áp dụng đối với các doanh nghiệp thải các
chất thải độc hại vừa tạo nguồn thu ngân sách, vừa hạn chế và
kiểm sốt ơ nhiễm, vừa có kinh phí để tài trợ lại cho các đối tượng
bị thiệt hại. Đây là thị trường rất tiềm năng, đem lại lợi ích kinh
tế lớn, trong điều kiện Việt Nam là quốc gia khơng bị ràng buộc về
lượng khí thải của Cơng ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi
khí hậu năm 1992 và Nghị định thư Kyoto năm 19971.
1. Nghị định thư Kyoto năm 1997 chỉ ràng buộc nghĩa vụ cắt
giảm khí nhà kính của các quốc gia thuộc Phụ lục B (bao gồm 36
quốc gia công nghiệp phát triển). Việt Nam là quốc gia nằm ngoài
Phụ lục B, khơng bị ràng buộc nghĩa vụ cắt giảm khí nhà kính nên
có thể tham gia vào thị trường mua bán hạn ngạch phát thải khí nhà
kính và sử dụng số tiền này đề đầu tư cắt giảm khí nhà kính bằng
cách trồng rừng, nâng cao tiêu chuẩn khí thải, áp dụng cơ chế phát
triển sạch...


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...

221

Việc ban hành và áp dụng Luật Thuế bảo vệ môi trường
phải tạo ra được công cụ quản lý vĩ mô hữu hiệu nhằm xác định
và bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
gây tác động tiêu cực đến môi trường; nâng cao nhận thức của
người dân trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường;
hạn chế tối đa ảnh hưởng của sản xuất, kinh doanh đến môi
trường. Các quy định của Luật Thuế bảo vệ môi trường phải

phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam, một
mặt động viên hợp lý nguồn thu cho khắc phục hậu quả môi
trường nhưng mặt khác vẫn phải bảo đảm sức cạnh tranh của
môi trường đầu tư, ổn định thị trường, giá cả, kiềm chế lạm
phát, không xáo trộn sản xuất, kinh doanh trong nước; đặc
biệt không làm tăng gánh nặng tài chính từ chính sách đối
với người tiêu dùng, bảo đảm hài hịa lợi ích giữa Nhà nước
với Nhân dân. Điều này phải được đặt trong mối quan hệ tổng
thể với các quy định của pháp luật có liên quan, bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ của tồn hệ thống, phù hợp với thơng lệ
quốc tế và bảo đảm việc thực hiện cam kết quốc tế1.
2. Sửa đổi các quy định pháp luật về thuế tài nguyên
Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế. Cần rà soát lại các văn
bản hướng dẫn thi hành và có quy định chi tiết hơn về các đối
tượng chịu thuế nhằm bảo đảm tính cụ thể, minh bạch, giúp
cho việc áp dụng được ổn định. Về các loại tài nguyên khác,
khoản 9 Điều 2 của Luật Thuế tài nguyên năm 2010 quy định
1. Võ Trung Tín, Nguyễn Lâm Trâm Anh: “Thuế bảo vệ mơi
trường - hình thức thực hiện ngun tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền trong pháp luật môi trường Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 16 (272), 2014, tr. 46.


222

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM

đối tượng chịu thuế là: “Tài nguyên khác do Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định” nhằm điều chỉnh và mang tính dự báo
những đối tượng có thể phát sinh trong tương lai và cũng là

để tạo sự ổn định cho Luật Thuế tài nguyên. Tuy nhiên, việc
quy định trong Luật Thuế tài nguyên năm 2010 những đối
tượng chưa được xác định cụ thể là khơng bảo đảm tính chặt
chẽ trong áp dụng pháp luật. Về nguyên tắc, trong trường hợp
Luật Thuế tài nguyên năm 2010 khơng quy định thẩm quyền
thì khơng ai có quyền quyết định đưa tài nguyên chưa được
quy định trong Luật vào đối tượng chịu thuế. Vì vậy, để bảo
đảm tính minh bạch của pháp luật, tránh vận dụng tùy tiện,
tạo ổn định cho môi trường đầu tư, cần phải xác định cụ thể đối
tượng chịu thuế vào ngay trong Luật Thuế tài nguyên.
Việc mở rộng đối tượng chịu thuế cần xem xét đến các yếu
tố vật chất nhân tạo (yếu tố do con người tạo ra thể hiện dưới
dạng vật chất) để bổ sung vào đối tượng chịu thuế vì trên thực
tế, đó cũng là một loại tài nguyên (tài nguyên xã hội, theo cách
hiểu là yếu tố vật chất nhân tạo được quy định trong Luật Bảo
vệ môi trường năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2018), đang
được khai thác một cách q mức vì nhiều lợi ích khác nhau,
dẫn đến ảnh hưởng nhất định đối với môi trường. Việc đưa các
yếu tố này vào đối tượng chịu thuế sẽ giúp khai thác có hiệu
quả, đồng thời bảo vệ mơi trường1.
1. Về vấn đề này, cịn nhiều quan điểm khác nhau. Tác giả cuốn
sách cho rằng ngoài việc quy định đối tượng chịu thuế là các nguồn tài
nguyên thiên nhiên thì việc xem xét đến các đối tượng cũng được quan
niệm là thành phần môi trường khác theo quy định của Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2018 (bao gồm các yếu tố
vật chất tạo thành mơi trường như đất, nước, khơng khí, âm thanh,
ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác) là cần thiết.


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...


223

Thứ hai, về căn cứ tính thuế. Luật Thuế tài nguyên cần
phải xem xét, điều chỉnh quy định về căn cứ tính thuế cho phù
hợp. Hiện nay, Nhà nước chưa ban hành định mức sử dụng
tài nguyên, trong khi sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ
là do doanh nghiệp tự kê khai, chưa có cơ chế kiểm sốt, cịn
tỷ lệ sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm ở mỗi
doanh nghiệp là khác nhau. Trong khi đó, cơ quan thuế lại
chưa đủ điều kiện về chuyên môn, kỹ thuật, nhân lực để xác
định tỷ lệ này. Vì vậy, việc xác định chính xác sản lượng tài
nguyên khai thác để tính thuế trong trường hợp này là rất
phức tạp và khó khả thi. Do đó, để quy định này của Luật
Thuế tài ngun năm 2010 mang tính khả thi, cần có quy
định về trách nhiệm ban hành định mức sử dụng tài ngun,
trường hợp chưa có định mức thì phải áp dụng biện pháp ấn
định thuế nhằm tránh tình trạng gian lận, trốn thuế, gây
thất thoát nguồn thu ngân sách.
Thứ ba, về giá tính thuế. Khi xây dựng thuế suất thuế
tài nguyên, phải tính đến tính chất, đặc điểm, điều kiện khai
thác của từng loại tài nguyên, phải dựa trên lợi thế so sánh
giữa tài nguyên khai thác và các nguồn vật liệu khác. Theo
đó, những tài nguyên có khả năng tái tạo nhanh nên đánh với
thuế suất thấp hơn so với những tài nguyên tái tạo lâu hoặc
chỉ khai thác được một lần, điều kiện khai thác càng khó khăn
thì mức thuế tài ngun càng thấp. Ngồi ra cần tính toán
đến các yếu tố khác như giá trị, khả năng ảnh hưởng đến mơi
trường, khả năng quản lý... Do đó, đi đôi với việc tự khai báo
của doanh nghiệp cần tăng cường vai trị kiểm sốt của các



224

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM

cơ quan nhà nước, phải có chế tài đủ mạnh nhằm tránh thất
thốt nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, về thuế suất. Cần phải xem xét thu hẹp biên độ
khung thuế suất của Luật Thuế tài nguyên năm 2010; đồng
thời phân loại từng mặt hàng trong cùng một nhóm hàng để
quy định cụ thể khung thuế suất riêng biệt, bảo đảm không mở
quá rộng khung thuế suất nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu
điều tiết việc khai thác tài nguyên trong từng thời kỳ. Luật
Thuế tài nguyên năm 2010 quy định trên cơ sở kế thừa có chọn
lọc chính sách miễn, giảm thuế tài nguyên trong các quy định
cũ. Tuy nhiên, cần làm rõ tình trạng tài nguyên bị tổn thất quy
định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Thuế tài nguyên năm 2010
được hiểu thế nào? Có phải là việc tài nguyên bị giảm đi hay
không, bởi lẽ nếu tài nguyên bị mất, tiêu hủy do thiên tai trước
khi nộp thuế thì đương nhiên không phải nộp nên không thể
gọi là miễn giảm, còn nếu gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất
ngờ mà tài ngun vẫn khơng bị mất đi thì vẫn phải nộp thuế
theo đúng nghĩa vụ.
Thứ năm, về bảo đảm thực hiện. Cần tiếp tục tăng cường
sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm
tra giám sát các hoạt động khai thác tài nguyên. Xây dựng lực
lượng thanh tra, kiểm tra vững mạnh, trang bị đầy đủ điều
kiện để ngăn chặn tận gốc tình trạng khai thác tài nguyên bất
hợp pháp. Do chưa có các quy định chặt chẽ về cơ chế kiểm

tra, giám sát việc khai thác tài ngun, vì thế có rất nhiều vi
phạm trong khai thác tài nguyên. Cần xây dựng một quy chế
chặt chẽ, rõ ràng đối với hoạt động khai thác tài nguyên từ


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM...

225

trình tự thủ tục đến quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Các quy
định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về khai thác tài
nguyên, nhất là các biện pháp xử lý hành chính chưa tương
xứng với những thiệt hại do các hành vi này gây ra. Các vi
phạm chưa được xử lý kịp thời, hoặc việc xử lý còn tùy tiện,
chưa nghiêm minh, rất ít trường hợp bị truy cứu trách nhiệm
hình sự dù có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Cần nâng
mức xử lý hành chính đối với các vi phạm, tổ chức xử lý kịp
thời, nghiêm túc, quy định cụ thể các mức thiệt hại trong các
văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc xử lý hành chính và truy
cứu trách nhiệm hình sự các hành vi vi phạm về quản lý và
khai thác tài nguyên. Đồng thời, phải tăng cường công tác giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức của người dân về khai thác, bảo
vệ tài nguyên. Công tác kiểm kê nhà nước đối với các nguồn tài
nguyên, xây dựng quy hoạch, kế hoạch về quản lý, khai thác
tài nguyên cũng cần phải được cải thiện.
3. Sửa đổi các quy định pháp luật về phí bảo vệ mơi
trường đối với nước thải
Để phí bảo vệ mơi trường đối với nước thải thực sự phát
huy được hết vai trị của nó là một công cụ kinh tế quan trọng
trong quản lý và bảo vệ mơi trường, vì thế, cần phải thực hiện

đồng bộ các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần có một chính sách nhất quán, bám sát mục
tiêu đặt ra nhằm cải thiện chất lượng mơi trường. Sự nhất
qn đó phải được thể hiện không những ở hệ thống thể chế,
các quy định liên quan mà còn phải thể hiện ở các biện pháp
đối xử trong quản lý. Cần kiện toàn bộ máy thu phí ở các cấp từ


226

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM

trung ương đến địa phương. Bộ máy quản lý nhà nước về môi
trường tuy đã được tăng cường một bước, nhưng còn chưa bảo
đảm yêu cầu. Nguồn nhân lực và kinh phí dành cho việc thu
phí bảo vệ mơi trường đối với nước thải cịn thiếu. Do đó, kiện
tồn bộ máy thu phí là giải pháp khơng thể thiếu được trong
tình hình hiện nay.
Thứ hai, Bộ Tài nguyên và Môi trường nên phân cấp, ủy
quyền thu phí bảo vệ mơi trường đối với nước thải đến cấp
huyện đối với các cơ sở sản xuất nhỏ, quy mơ hộ gia đình. Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh cần sớm thông
qua các đề án và ban hành quy chế về việc thu phí trên địa bàn.
Cụ thể là đối với nước thải sinh hoạt, Hội đồng nhân dân cần
ban hành nghị quyết về mức phí áp dụng trên địa bàn. Đối với
nước thải công nghiệp, các Sở Tài nguyên và Môi trường cần
chủ động triển khai thu phí thơng qua các hoạt động kiểm tra,
đôn đốc, vận động các cơ sở công nghiệp kê khai và nộp phí.
Thực tế cho thấy, một số địa phương với quyết tâm và phương
pháp thực hiện triệt để, sáng tạo đã đạt kết quả tốt. Các Sở

Tài ngun và Mơi trường có thể vận dụng linh hoạt các cơ chế
quản lý tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của địa phương mình
để yêu cầu các doanh nghiệp phải nộp phí. Việc thu phí bảo vệ
mơi trường đối với nước thải nếu được thực hiện đồng bộ ở các
tỉnh, thành trong cả nước sẽ bảo đảm cho hoạt động thu phí
triển khai tốt.
Bộ Tài ngun và Mơi trường nên xây dựng phần mềm
quản lý việc thu nộp phí để phục vụ tốt hơn cơng tác thu phí.
Ngồi ra, nó cịn giúp cập nhật thơng tin một cách nhanh chóng,


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...

227

đầy đủ hơn. Phần mềm quản lý giúp cho Bộ Tài nguyên và Môi
trường có thể nắm bắt thơng tin về tình hình thu phí trên cả
nước trong một thời gian ngắn, biết được những tỉnh nào thực
hiện tốt, những tỉnh nào còn triển khai kém hiệu quả... Từ đó
tìm hiểu ngun nhân và trao đổi kinh nghiệm cho nhau để
thực hiện tốt công tác thu phí. Bên cạnh đó, Bộ Tài ngun và
Mơi trường cũng nên chủ trì xây dựng và cung cấp cho các Sở
Tài nguyên và Môi trường ở địa phương một phần mềm quản lý
các doanh nghiệp có phân chia theo mã ngành quy định chung
trên tồn quốc, có kết nối với phần mềm tính tốn phí sau đó
in ra thơng báo số phí cho từng cơ sở.
Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cần công bố
danh sách các tổ chức, phịng thí nghiệm có thẩm quyền phân
tích nước thải. Hiện tại, việc chưa có danh sách các tổ chức này
là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình

thu phí. Vì vậy, việc cơng bố một danh sách cụ thể những tổ
chức nào được quyền phân tích nước thải khiến cho các doanh
nghiệp thuận tiện hơn trong quá trình tự kê khai. Việc tổ chức
cấp phép cho các trung tâm, tổ chức tư vấn có đủ trình độ
chun mơn kỹ thuật, thiết bị máy móc được tiến hành quan
trắc chất lượng nước thải phục vụ việc thẩm định phí là rất
cần thiết. Việc ban hành tạm thời định mức phát thải cho từng
loại sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp với các quy mô sản
xuất khác nhau để các Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương
thuận tiện trong q trình thẩm định phí cũng cần được tiến
hành. Định mức này cần được xem xét, bổ sung hằng năm để
ngày càng sát với thực tiễn. Cũng cần thiết phải ban hành


228

NGUYÊN TẮC NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM PHẢI TRẢ TIỀN THEO PHÁP LUẬT MƠI TRƯỜNG VIỆT NAM

một mức phí chung, tối thiểu cho các cơ sở cơng nghiệp có quy
mơ nhỏ. Ngồi ra, có thể áp dụng bổ sung giải pháp cấp giấy
phép xả nước thải để có thêm cơng cụ, phương tiện quản lý hỗ
trợ cho các hoạt động thu phí.
Thứ ba, cần xây dựng mức phí bảo vệ mơi trường đối với
nước thải phù hợp hơn. Giải pháp thu phí bảo vệ mơi trường
đối với nước thải hiện nay cịn tồn tại nhiều bất cập về mức
phí, cách thu và quyền lợi của doanh nghiệp (người trả phí).
Đến nay, tại phần lớn các tỉnh, thành phố chưa ban hành các
hướng dẫn cụ thể thực hiện giải pháp này. Các doanh nghiệp
đã đóng phí thì cho rằng họ khơng phải xử lý nước thải, trách
nhiệm này thuộc về cơ quan thu phí. Trong khi cơ quan mơi

trường lại cho rằng, phí đó q thấp, chỉ là phí quản lý, khơng
đủ đề đầu tư xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn quy định. Sự thiếu
nhất quán trong cách hiểu và thực hiện tại nhiều địa phương
đang làm giảm đáng kể hiệu quả triển khai giải pháp này. Do
đó, cần phân định rõ trách nhiệm của bên đóng phí và bên thu
phí, cách tính phí và thu phí theo lượng, thành phần chất thải.
Khơng nên đánh đồng việc phải nộp phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải công nghiệp như nhau giữa các doanh nghiệp dù
tác hại, chi phí xử lý khác xa nhau.
Thứ tư, cần phải nâng cao nhận thức của cộng đồng nói
chung và của các đối tượng nộp phí nói riêng trong việc kê
khai nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Các doanh
nghiệp trốn tránh việc kê khai, trốn tránh nghĩa vụ nộp phí,
khơng đầu tư các trang thiết bị hiện đại bảo vệ môi trường là
do chưa ý thức hết được tầm quan trọng của môi trường sống,


Chương III: NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM...

229

chưa thấy được tác hại khủng khiếp do môi trường bị ô nhiễm
gây ra. Vì vậy, vấn đề giáo dục, nâng cao nhận thức có thể được
tiến hành thơng qua các biện pháp cơ bản như tuyên truyền
thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, phổ
biến rộng rãi các tài liệu hướng dẫn bảo vệ môi trường, xử lý
nước thải, đưa nội dung về giáo dục môi trường vào các cấp
học trong hệ thống giáo dục quốc gia, củng cố, tăng cường
năng lực cho các trường, các cơ sở đào tạo chuyên gia trong
lĩnh vực quản lý môi trường.

4. Sửa đổi các quy định pháp luật về bồi thường thiệt
hại do ô nhiễm mơi trường
Một là, hồn thiện các quy định liên quan đến quyền khởi
kiện của công dân. Cơ chế ủy quyền khởi kiện cho một bên nào
đó dù họ là bên thứ ba trong một vụ kiện đòi bồi thường thiệt
hại do ô nhiễm môi trường cũng sẽ giúp giảm thiểu thời gian,
công sức, tiền bạc của các bên. Ở một số nước trên thế giới
(Malaixia, Xingapo, Nhật Bản...), khi xảy ra các dạng tranh
chấp như trên, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện riêng lẻ
như ở Việt Nam hoặc khởi kiện tập thể để tự bảo vệ mình.
Trong bối cảnh sự gia tăng của các tranh chấp bồi thường thiệt
hại mơi trường có số lượng bị đơn đơng đảo như hiện nay, tác
giả cuốn sách đề nghị nên ghi nhận quyền khởi kiện tập thể để
đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Điều này có thể mang
lại một số thuận lợi như:
- Đối với Tòa án: trong trường hợp luật cho phép áp dụng
chế định kiện tập thể thì chỉ có một cá nhân hay một cơ quan,
tổ chức đại diện thay vì phải lần lượt vất vả làm việc trực tiếp


×