Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Một số bộ chỉ số đô thị xanh trên thế giới và thực tiễn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.27 KB, 16 trang )

RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

MỘT SỐ BỘ CHỈ SỐ ĐÔ THỊ XANH TRÊN THẾ GIỚI
VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Lê Thị Thu Hiền*

Tóm tắt: Từ cách tiếp cận phát triển bền vững, trên cơ sở nguồn tài liệu trong và ngồi nước
được thu thập, phân tích một cách hệ thống; bài viết góp phần làm rõ khái niệm đơ thị xanh gắn
với phát triển đô thị bền vững. Đồng thời, giới thiệu một số bộ chỉ số đô thị xanh trên thế giới và
ở Việt Nam, từ đó đưa ra những gợi ý trong việc sử dụng bộ chỉ số đô thị xanh như là một công cụ
trong quá trình hoạch định, thực thi, giám sát các chiến lược, kế hoạch phát triển đô thị bền vững
trong tương lai.
Từ khóa: Bộ chỉ số đơ thị xanh; Đơ thị xanh, Đô thị bền vững; Phát triển đô thị.
1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, q trình đơ thị hố ở nước ta đã và đang được diễn
ra với tốc độ nhanh chóng với những hệ luỵ đối với quá trình phát triển chung. Vào thời điểm năm
1999, nước ta có 629 đơ thị và đến tháng 12 năm 2020 có 862 đơ thị (năm 2015 là 787 đô thị) bao
gồm 2 đô thị đặc biệt, 23 đô thị loại I, 31 đô thị loại II, 48 đô thị loại III và 90 đô thị loại IV (Vũ
Trọng Lâm và Nguyễn Thị Diễm Hằng, 2021). Khu vực đô thị đã thực sự trở thành động lực, đầu
tàu phát triển kinh tế - xã hội của các vùng và cả nước, đóng góp khoảng 70% GDP cả nước, chiếm
tỷ trọng chi phối trong thu ngân sách, xuất khẩu, sản xuất công nghiệp. Tỷ lệ đô thị hóa cả nước
tăng từ 30,5% năm 2010 lên 38,4% năm 2019 và ước đạt khoảng 40% vào cuối năm 20201.
Sự phát triển nhanh chóng của các đơ thị trong q trình đơ thị hố đã mang lại những cơ hội
to lớn cho phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho một bộ phận người dân.
Bên cạnh đó, các đơ thị ở nước ta cũng đang đối mặt với một loạt những thách thức không nhỏ
trong việc tổ chức quản lý đô thị, giải quyết các vấn đề về giao thông đô thị, nước sạch, vệ sinh,
nhà ở, các vấn đề môi trường, cảnh quan cũng như các vấn đề xã hội mới phát sinh từ đặc thù của
cuộc sống, cách thức quản lý đô thị, tổ chức và quy hoạch không gian, liên kết. Vấn đề phát triển
đô thị bền vững, đô thị xanh trong thời gian gần đây đã được đặt ra một cách nghiêm túc trong bối
cảnh phát triển mới của nước ta nói riêng và bối cảnh phát triển chung, đặc biệt dưới tác động của


*

1

Tiến sĩ, Nghiên cứu viên, Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng, email:
/>
411


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

biến đổi khí hậu, gia tăng dân số, đơ thị hố trên quy mơ tồn cầu (Trương Văn Quảng, 2013; Lưu
Đức Hải, 2016). Các tổ chức quốc tế như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization of
Economic and Cooperation Development, OECD), Ngân hàng Phát triển châu Á (Asian
Development Bank, ADB), Liên hợp quốc (United Nations, UN) và Cộng đồng châu Âu (European
Union, EU) đã đưa ra các chương trình, nghiên cứu về phát triển đơ thị xanh với mục đích nâng
cao nhận thức, xây dựng các chương trình hành động phát triển đơ thị theo hướng bền vững, thân
thiện với môi trường (OECD, 2011; EIU, 2014; ADB, 2012). Các nghiên cứu về xây dựng và thử
nghiệm bộ chỉ số đô thị xanh của các tổ chức như ADB (2012, 2015), Siemens (2013) đã khẳng
định khả năng hiện thực hố khái niệm đơ thị xanh và sử dụng nó như là cơng cụ trong việc thúc
đấy phát triển đô thị theo hướng bền vững.
Những năm gần đây, trong bối cảnh phát triển chung của thế giới và trước những thách thức
mang tính tồn cầu của biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế, an ninh lương thực, vấn đề phát
triển bền vững, tăng trưởng xanh đã và đang được quan tâm và có những bước chuyển to lớn cả
trong nhận thức cũng như hành động. Các nhà nghiên cứu đã đạt được nhiều kết quả mới trong
việc nhận thức đầy đủ hơn vai trò của phát triển bền vững, tiến tới cách hiểu chung về phát triển
bền vững, làm cơ sở cho các chiến lược, chương trình hành động, điều phối nhằm hướng tới một
sự phát triển mang tính bền vững hơn trên phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu. Các khái niệm
“phát triển bền vững”, “tăng trưởng xanh” đã dần được phát triển từ những ý tưởng mang tính bao
quát, khát vọng ban đầu thành những khái niệm cụ thể, được chia sẻ bởi đông đảo các cộng đồng

dân cư, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các tổ chức xã hội và dần được hiện thực hóa
và lồng ghép vào trong các chương trình hành động, các kế hoạch phát triển ở các cấp.
Các nghiên cứu về đô thị bền vững, đô thị xanh được coi như là sự tiếp nối tự nhiên các nghiên
cứu về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh cho đối tượng là các đô thị. Lĩnh vực nghiên cứu này
càng trở nên quan trọng do sự tăng trưởng nhanh chóng của đơ thị và q trình đơ thị hoá trên
phạm vi của từng quốc gia, khu vực cũng như tồn cầu. Các nghiên cứu đó chỉ ra vai trị ngày càng
tăng của đơ thị trong sản trong sản xuất, tiêu dùng, vai trò làm động lực phát triển, thúc đẩy nhu
cầu, sản xuất, công nghệ. Bên cạnh đó các nghiên cứu cũng chỉ ra đơ thị cũng là nơi tập trung các
nguồn gây ô nhiễm (chiếm tới 80% lượng ô nhiễm trên thế giới), các nguồn phát thải khí nhà kính
tồn cầu (OECD, 2011; EIU, 2013; ADB, 2015). Do đó, đơ thị trở thành một vấn đề thực sự cho
phát triển bền vững. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng với năng lực của mình, đơ thị
khơng chỉ là vấn đề mà hồn tồn có thể giải pháp cho phát triển bền vững. Điều đó tuỳ thuộc và
hành động của con người nhận thức được vấn đề, ý thức được năng lực và đưa ra các giảp pháp
phù hợp thông qua xây dựng thể chế để giải quyết các vấn đề (OECD, 2013; ADB, 2015). Trong
q trình xây dựng, thực thi các giải pháp đó, bộ chỉ số mức độ phát triển bền vững, tăng trưởng
xanh của đơ thị hồn tồn có thể trở thành một cơng cụ hữu hiệu có thể góp phần giải quyết tốt các
thách thức phát triển bền vững đặt ra cho q trình phát triển đơ thị. Để làm được điều đó cần tổ
chức lại cơng tác tổ chức hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, đánh giá năng lực, tổ chức thực hiện
hướng tới xây dựng đô thị xanh.
412


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

2. Quan niệm về đô thị xanh
Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm đô thị xanh. Lewis (2015) cho rằng khái
niệm đô thị xanh là sự mở rộng của khái niệm phát triển xanh cho bối cảnh phát triển đô thị theo
hướng xanh và bền vững. Theo các nhà sinh thái học, mức độ “xanh” của một đô thị lại phụ thuộc
phần lớn vào quy mô dấu chân sinh thái (ecological footprint) mà đơ thị đó tạo ra cho mơi trường
(Kann, 2006). Nói cách khác, đặc tính “xanh” của một đơ thị phụ thuộc vào lượng năng lượng được

tiêu thụ, lượng khí CO2 phát thải ra mơi trường như một sản phẩm phụ của sản xuất và tiêu dùng....
Từ góc độ sức khỏe cộng đồng, những ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân khi phải tiếp xúc với
khơng khí ơ nhiễm, nước bẩn, môi trường dễ phát sinh bệnh tật được coi là những tiêu chí chính
đánh giá đơ thị xanh. Theo cách tiếp cận này, một đô thị chỉ được coi là “xanh” nếu số ca nhiễm
bệnh liên quan trực tiếp đến môi trường đạt ở ngưỡng thấp, (Basiri và cộng sự, 2014). Một số nhà
kinh tế lại cho rằng môi trường đô thị liên quan rất lớn tới mức chênh lệch giá bất động sản giữa các
đô thị theo thời gian và không gian, bởi lẽ giá nhà đất liên quan chặt chẽ với chất lượng môi trường
của các đơ thị (Kann, 2006). Có thể nói mỗi cách tiếp cận như trên về đơ thị xanh đều có ưu, nhược
điểm riêng nhưng đều góp phần tạo nên một cách nhìn tồn diện hơn về đơ thị xanh.
Cơng trình nghiên cứu của Lewis (2015), Lindfield và Steinberg (2012) cũng cho rằng mặc
dù chưa có định nghĩa thống nhất về đô thị xanh, nhưng trong khá nhiều nghiên cứu, đô thị xanh
được hiểu là một đô thị mang những đặc điểm: sử dụng hiệu quả năng lượng; giảm thiểu sự phụ
thuộc vào nguồn năng lượng khơng thể tái tạo; có hệ thống giao thông với lượng carbon thấp; hệ
thống cơ sở hạ tầng xanh và thân thiện môi trường; rác thải được xử lý và giảm thiểu; diện tích
cây xanh được quy hoạch thống nhất và gia tăng. Các chuyên gia này cũng chỉ ra rằng các đô thị
sẽ đạt những mức độ “xanh” khác nhau và sự phát triển này là khơng đồng đều và vì vậy chiến
lược hướng tới đô thị xanh cũng phải theo các giai đoạn khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát
triển của mỗi quốc gia (Lewis, 2015).
Trong nghiên cứu của IASS (2016), nhóm tác giả đã tổng hợp một loạt các định nghĩa về khái
niệm “thành phố xanh”. Những thuật ngữ như “eco-city” hay “sustainable city” đều được dùng để
ám chỉ “green city”. Trong những khái niệm được nhắc đến ở nghiên cứu này, khái niệm được đưa
ra sớm nhất là của Roseland (1997). Roseland (1997) cho rằng các thành phố sinh thái (eco-city),
hay các cộng đồng bền vững, đại diện cho ý mục đích, hướng phát triển chung cho tồn cộng đồng.
Khái niệm về “thành phố sinh thái” khơng đứng một mình mà nằm trong một loạt các biến liên
quan đến nhau như phát triển bền vững, phát triển đô thị bền vững, các cộng đồng bền vững, các
thành phố bền vững, tính đa dạng sinh học, phát triển kinh tế cộng đồng, phát triển cơng nghệ thích
hợp, sinh thái xã hội…
Theo hướng dẫn của ADB (2015), khái niệm “đô thị xanh” hay “phát triển xanh” không phải
là mới mà trước đây khái niệm này đã được đề cập tới trong thuật ngữ “phát triển bền vững”. Khái
niệm này lồng ghép các mối quan tâm về môi trường, xã hội, kinh tế trong q trình phát triển.

Một “đơ thị xanh” hay một “Sự phát triển xanh” là một khái niệm mở rộng của “Phát triển bền
413


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

vững”, nhưng được hiểu trong khuôn khổ hành động của thành phố và cách thức làm thế nào để
những hành động này đóng góp cho sự tiến bộ xanh và bền vững. Sự “Phát triển xanh” xem xét
làm thế nào để cải thiện và quản lý tốt chất lượng cuộc sống bao hàm những khía cạnh như chất
lượng nước, khơng khí, và quỹ đất ở đơ thị. Bên cạnh đó, khái niệm này còn nghiên cứu sự tương
tác giữa những phạm trù nêu trên với những lĩnh vực tương ứng của vùng sâu, vùng xa hoặc các
hệ thống rộng hơn, đồng thời những lời ích thu được dành cho mơi trường và người dân. Nghiên
cứu này cũng cho rằng các đô thị ngày nay đang ngày càng trở nên năng động và phức tạp. Định
nghĩa thành phố/đô thị xanh mang rất nhiều nghĩa khác nhau cho những đối tượng khác nhau và
sẽ khơng có một giải pháp tồn cầu chung nào có thể mang ra để áp dụng cho từng thành phố của
mỗi quốc gia.
Ở nước ta, khái niệm “đô thị xanh” còn được hiểu theo nhiều cách khác nhau, phần lớn theo
nghĩa hẹp chỉ trong phạm vi không gian, cảnh quan xanh, chưa thực sự gắn với quan điểm phát
triển bền vững và tăng trưởng xanh (Lê Thị Bích Thuận, 2016; Trương Văn Quảng, 2013). Theo
Lê Thị Bích Thuận (2016), khái niệm về đô thị xanh ở Việt Nam cịn khá mới, nhiều người vẫn
hiểu đơ thị xanh là đơ thị có nhiều cơng viên, cây xanh, mặt nước, có sử dụng năng lượng bằng
pin mặt trời cho các tòa nhà và trồng cây xanh trên mái. Những vấn đề đó là điều kiện cần nhưng
chưa đủ để đơ thị có thể được gọi là đơ thị xanh. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển khi
xây dựng đô thị xanh là trong quy hoạch đều tích hợp quy hoạch xây dựng với sử dụng tài nguyên
hiệu quả; phát triển đô thị trên cơ sở mật độ xây dựng thấp, hệ số sử dụng đất cao, bảo tồn văn hóa
bản địa và di sản lịch sử, tiếp tục khai thác có hiệu quả tài ngun, tạo khơng gian mở cho đô thị,
nâng cao chất lượng và mức độ phổ biến của giao thông công cộng, giảm thiểu giao thông cá nhân
đồng thời tích hợp với việc sử dụng đất có hiệu quả.
Theo Phạm Ngọc Đăng (2012), đơ thị xanh là đô thị được thiết kế và xây dựng trong điều
kiện xem xét các tác động môi trường ở vị trí hàng đầu, khơng những chú ý đến sự thịnh vượng

cuộc sống của dân cư, giảm thiểu nhu cầu tài nguyên đầu vào của đô thị, nhu cầu đối với nguồn
nước, năng lượng vật liệu và thực phẩm mà còn phải đảm bảo thành phố sản sinh ra chất thải ô
nhiễm môi trường ít nhất, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm khơng khí sạch, nước sạch, đất sạch
và điều kiện sống tốt nhất cho dân cư.
Tại Hội thảo Dự án hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam do Bộ Xây dựng và
Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tổ chức tại Hà Nội, ngày 28/3/2018 đưa ra khái niệm
Đô thị xanh là đô thị sử dụng tài nguyên bền vững, hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính và
có đủ khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.
Khái niệm “đô thị xanh” cũng được thảo luận nhiều trong các tài liệu chính sách và khoa học
ở nước ta. Tuy nhiên, định nghĩa đô thị xanh phụ thuộc vào cách tiếp cận và mục đích của từng
nghiên cứu chứ chưa có sự đồng nhất. Nghiên cứu này cho rằng đơ thị xanh là đô thị phát triển
bền vững về mặt mơi trường. Nói cách khác, đặc tính “xanh” của một đơ thị chính là mức độ bền
vững về mơi trường trong phát triển của đơ thị đó.
414


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

3. Một số bộ chỉ số đô thị xanh trên thế giới
3.1. Bộ chỉ số đô thị xanh ở châu Âu
Bộ chỉ số đô thị xanh châu Âu (EIU, 2009)
Bộ chỉ số đô thị xanh châu Âu đo lường tình trạng mơi trường tại các thành phố lớn ở châu
Âu cũng như sự cam kết của những đô thị này trong việc giảm thiểu tác động tới môi trường trong
tương lai bởi những hoạt động và mục tiêu cụ thể. Bộ chỉ số cho điểm các thành phố tại châu Âu
thơng qua 8 nhóm tiêu chí: Lượng khí thải CO2, tiêu dùng năng lượng, tịa nhà, giao thông, nước,
rác thải và sử dụng đất, chất lượng khơng khí và quản trị mơi trường - cùng với 30 biến quan sát
cụ thể. 16/30 biến quan sát này được lấy từ dữ liệu định lượng nhằm mục đích đo lường tình trạng
mơi trường hiện tại của các đơ thị, cụ thể như, mức độ khí thải CO2, lượng năng lượng tiêu dùng,
lượng rác thải, mức độ ô nhiễm khơng khí. 14 biến quan sát cịn lại là những đánh giá định tính
phản ánh kỳ vọng của mỗi thành phố, cụ thể như sự cam kết của họ sẽ tiêu dùng năng lượng tái

tạo nhiều hơn, tăng cường tiết kiệm năng lượng trong các tòa nhà, giảm thiểu ùn tắc giao thông
hay tái chế và tái sử dụng rác thải. Nguồn dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu này chủ yếu từ các cơ
quan thống kê quốc gia, chính quyền thành phố, ủy ban mơi trường quốc gia.
Để có thể so sánh số liệu giữa các quốc gia cũng như cho điểm mỗi thành phố, nghiên cứu đã
sử dụng phương pháp chuẩn hóa các biến quan sát định lượng về thang điểm từ 0 đến 10, trong đó
10 điểm là cao nhất khi một đô thị đạt hoặc vượt mức tiêu chuẩn môi trường. Các đô thị được cho
điểm dựa vào việc đạt trên chuẩn hoặc dưới chuẩn theo quy định của Ủy ban châu Âu. Chẳng hạn,
với quy định đặt ra về lượng rác thải mỗi đô thị nên tái chế phải trên mức chuẩn 50%, nếu đô thị
nào đạt hoặc vượt ngưỡng chuẩn này sẽ được 10 điểm, những đơ thị cịn lại sẽ được cho điểm từ
0 -10, tùy theo khoảng cách với ngưỡng chuẩn. Với các biến quan sát khác thì áp dụng quy tắc
dưới chuẩn, ví dụ như biến quan sát về lượng chất gây ô nhiễm lớn nhất một thành phố được phép
thải ra mơi trường mỗi ngày. Khi đó, bất kỳ thành phố nào bằng hoặc vượt chuẩn sẽ nhận 0 điểm,
còn những thành phố dưới chuẩn nhiều nhất sẽ đạt 10 điểm.
Với những biến định tính, các thành phố được cho điểm dựa trên những hành động thực tế,
chiến lược và những mục tiêu được đặt ra và đã thực hiện được của mình. Các biến quan sát định
tính được cho điểm trên thang 0 - 10, 10 điểm được dành cho những thành phố đạt hoặc vượt
những mục trong danh sách tiêu chuẩn này. Chẳng hạn với biến quan sát “chiến lược giảm thiểu
khí CO2”, các đơ thị được cho điểm dựa trên việc họ có chủ động và thường xun theo dõi lượng
khí thải này hay khơng, những mục tiêu nào đã được đưa ra và họ quyết tâm như thế nào để đạt
được những mục tiêu đó trong một khoảng thời gian nhất định.
Các kết quả chính:
Nghiên cứu về chỉ số đô thị xanh cho một số thành phố châu Âu đã chỉ ra rằng các thành phố
Bắc Âu chiếm vị trí đầu bảng về chỉ số mơi trường đơ thị, trong đó thứ nhất là Copenhagen, theo
ngay sau đó Stockholm, và đứng thứ ba là Oslo, thủ đô Nauy. Các thành phố Vienna, Amsterdam,
và Zurich lần lượt xếp thứ 4, 5 và 6.
415


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG


Nghiên cứu cũng tìm ra mối tương quan chặt chẽ giữa sự giàu có của các đơ thị và thứ hạng
cao của chúng trên bảng xếp hạng. 9 trong tốp 10 thành phố đứng đầu bảng xếp hạng có chỉ số
GDP bình quân đầu người đạt trên mức 31000 euro. Tuy nhiên, vẫn có những thành phố có GDP
bình qn đầu người khá thấp nhưng vẫn đứng đầu về chất lượng khơng khí như thành phố Vilnius
của Litva. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, về cơ bản quy mô đô thị hầu như khơng tương quan nhiều
tới tình trạng mơi trường ở đơ thị đó. Tuy nhiên, những đơ thị dẫn đầu bảng ở Đơng và Tây Âu
đều có xu hướng là những đô thị khá nhỏ, với dân số ít hơn 1 triệu người. Các đơ thị có người dân
tích cực tham gia bảo vệ mơi trường sẽ có thứ hạng cao trên bảng xếp hạng.
Hệ thống sinh thái đô thị châu Âu (Berrini, M., & Bono, 2007)
Báo cáo về hệ thống sinh thái đô thị châu Âu năm 2007 đã đưa ra một bơ tiêu chí tổng hợp
đánh giá mức độ bền vững của các thành phố châu Âu. Có 6 chỉ số thành phần được đưa ra bao
gồm:
1. Hành động địa phương vì sức khỏe và các nguồn tài nguyên chung (Local Action for
Health and Natural common goods). Tiêu chí này có 5 chỉ báo thành phần về chất lượng khơng
khí, tình trạng tiếng ồn, chất thải sinh hoạt, xử lý nước thái.
2. Tiêu dùng có trách nhiệm và lối sống lành mạnh (Responsible consumption and lifestyle
choices). Tiêu chí này có 4 chỉ báo phản ánh các vấn đề về tiêu thụ điện, chất thải rắn, đấu thầu
công cộng xanh.
3. Thiết kế, quy hoạch giao thông và không gian công cộng (Planning, design and Better
mobility, less traffic). Tiêu chí này có 5 chỉ báo liên quan đến các vấn đề giao thông công cộng,
phương tiện giao thông cá nhân, các tuyến đường dành cho xe đạp, không gian xanh công cộng.
4. Tiêu thụ năng lượng và biến đổi khí hậu (Local to global: Energy and Climate change):
bao gồm 4 chỉ báo về các mục tiêu giảm thiểu khí các bon, phát triển năng lượng mặt trời, hệ thống
sưởi trung tâm, chính sách tiết kiệm năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu.
5. Xây dựng kinh tế địa phương sống động, bền vững, đảm bảo gắn kết, công bằng xã hội
(Vibrant, Sustainable Local Economy and Social equity, justice and coesion). Tiêu chí này có 3
chỉ bảo, phản ánh các nội dung về nhân khẩu học, việc làm, giáo dục đại học và đào tạo tay nghề.
6. Quản trị địa phương vì mục tiêu bền vững (Local Management towards sustainability and
Governance). Tiêu chí này gồm 4 chỉ báo về các vấn đê thực hiện Chương trình Nghị sự 21, thực
hiện các tiêu chuẩn môi trường ISO 14001, sự tham gia của phụ nữ vào các cơ quan cơng quyền.

Có 32 thành phố trên tồn châu Âu được đưa vào đánh giá trong báo cáo này. Các thông tin
được lấy từ các nguồn thống kê chính thức hoặc qua khảo sát chuyên đề.
Giải thưởng Đô thị xanh châu Âu (European Green Leaf Award)
Giải thưởng Đô thị xanh châu Âu được khởi xướng từ năm 2008 và thực sự triển khai từ năm
2010. Giải thưởng này được giành cho thành phố có thành tích trong việc đảm bảo các tiêu chuẩn
416


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

về môi trường, cam kết cải thiện mơi trường vì mục tiêu phát triển bền vững và có thể làm gương
cho các thành phố khác noi theo. Giải thưởng này đưa ra 56 chỉ báo dựa trên 12 tiêu chí cơ bản về
các lĩnh vực như đóng góp để giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu; quản lý giao thơng;
khơng gian xanh và quản lý đất đai; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; chất lượng khơng
khí, tiếng ồn, quản lý chất thải, nước sinh hoạt, xử lý nước thải; tạo việc làm bền vững và đổi mới
sáng tạo thân thiện với mơi trường; tiêu thụ năng lượng; chính sách quản lý môi trường tổng hợp
(Ẻuropean Green Capital, 2016).
3.2. Bộ chỉ số đô thị xanh ở châu Á
Bộ chỉ số do EIU đề xuất (EIU, 2011a)
22 thành phố ở châu Á được nghiên cứu để so sánh tình trạng và chính sách mơi trường hiện
nay dựa trên bộ chỉ số của châu Âu và châu Mỹ Latinh. Số liệu được thu thập từ các nguồn chính
thống có sẵn chủ yếu là từ năm 2008 và 2009. Theo đó, đơ thị xanh được đánh giá dựa trên 8 nhóm
tiêu chí và 29 chỉ số sau đây:
(1) Năng lượng và khí phát thải CO2: Lượng khí thải carbon trên mỗi người - Lượng tiêu
thụ năng lượng trên mỗi đơn vị GDP - Chính sách năng lượng sạch - Kế hoạch hành động chống
biến đổi khí hậu
(2) Việc sử dụng đất và các tịa nhà: Khơng gian xanh trên mỗi người - Mật độ dân số Chính sách sử dụng đất - Chính sách kiến trúc sinh thái.
(3) Giao thông: Chiều dài của hệ thống giao thông công cộng (tàu điện ngầm, BRT) - Chính
sách giao thơng cơng cộng trong đơ thị - Chính sách giảm thiểu ùn tắc giao thơng
(4) Rác thải: Phần trăm rác thải được xử lý phù hợp - Lượng rác thải trung bình của mỗi cá

nhân - Thu gom rác thải và chính sách xử lý rác - Chính sách tái chế - tái sử dụng rác
(5) Nước sinh hoạt: Khối lương tiêu dùng nước trên đầu người - Rò rỉ hệ thống nước - Chất
lượng nguồn nước - Sử dụng nước bền vững
(6) Vệ sinh đô thị: Phần trăm dân số được tiếp cận với nước hợp vệ sinh- Phần trăm nước
thải được xử lý - Chính sách vệ sinh mơi trường
(7) Chất lượng khơng khí: Nồng độ nitrogen dioxide hàng ngày - Nồng độ sulphur dioxide
hàng ngày - Nồng độ chất phóng xạ tồn dư trong khơng khí hàng ngày - Chính sách khơng khí
sạch
(8) Quản lý môi trường: Quản lý giám sát môi trường; sự tham gia của cộng đồng
Kết quả nghiên cứu 22 đô thị ở châu Á cho thấy Singapore là đô thị duy nhất có chỉ số tổng
quát đạt mức rất tốt, đặc biệt tốt nhất ở chỉ số rác thải và nguồn nước. Trong khi đó, tất cả 3 đơ thị
lớn của Nhật Bản có chỉ số tổng quát đạt mức tốt, riêng chỉ số về sử dụng năng lượng và CO2 tốt
nhất ở Tokyo, chỉ số giao thông tốt nhất ở Osaka và Yokohama là đơ thị có lượng rị rỉ nước thấp
nhất. Đứng sau Nhật Bản và Singapore ở chỉ số tổng quát là Trung Quốc, có thể thấy các đô thị
417


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Trung Quốc rất mạnh tay trong các chính sách mơi trường để cải thiện chất lượng khơng khí, giao
thơng; tuy nhiên, 3 trong số 5 đô thị tại Trung Quốc vẫn dẫn đầu về lượng khí thải CO2 trên đầu
người và cả 5 đô thị: Bắc Kinh, Quảng Châu, Nam Ninh, Thượng Hải, Vũ Hán đều có lượng tiêu
thụ năng lượng trên GDP lớn nhất.
Kết quả nghiên cứu trong từng lĩnh vực cũng cho thấy lượng khí thải carbon trung bình tại
các đơ thị châu Á là 4.6 tấn/ người; các đơ thị ở châu Á có mật độ dân số đông hơn châu Âu hay
châu Mỹ Latin (6500 người/ km2, trong khi châu Âu là 4000 người/km2, châu Mỹ Latin là 4500
người/km2); các đơ thị châu Á có lượng rác thải trên đầu người hàng năm là 380 kg, ít hơn châu
Âu (511kg) và châu Mỹ Latin (465kg). Những đơ thị giàu có nhất của châu Á đều có tỷ lệ thất
thốt nước thấp, do đó tỉ lệ thất thốt nước trung bình của châu Á là 22%; so với châu Âu (23%)
và châu Mỹ Latin (35%). Trong khi đó ơ nhiễm khơng khí là một thử thách lớn đối với tất cả các

đô thị châu Á.
Bộ chỉ số của Trung Quốc (ADB, 2014)
Trung Quốc đưa ra bộ chỉ số tổng hợp về phát triển đô thị bền vững trong đó có các chỉ số đơ
thị bền vững về môi trường, đô thị xanh bao gồm:
(1) Môi trường nước (hàm lượng COD, hàm lượng nước thải (công nghiệp và trong nước),
hàm lượng kim loại nặng, tỷ lệ các mục theo dõi nguồn nước mặt quốc gia dưới Cấp độ V. Chất
lượng nước đạt lên đến tỷ lệ tiêu chuẩn của các khu vực tập trung nguồn nước uống, tỷ lệ nước
thải bao phủ, khả năng loại bỏ COD (công nghiệp và trong nước), tỷ lệ xử lý trên cấp II của nước
thải đơ thị.
(2) Mơi trường khơng khí: hàm lượng SO2, Nox, cường độ phát thải khói bụi trong khơng
khí, mức độ tiêu thụ năng lượng, nồng độ PM10 trung bình hàng năm, nồng độ SO2 trung bình
hàng năm, nồng độ NO2 trung bình hàng năm, khả năng loại bỏ SO2 công nghiệp, khả năng loại
bỏ NOx công nghiệp, tỷ lệ loại bỏ bụi khói cơng nghiệp.
(3) Chất thải rắn: cường độ phát sinh chất thải của thành phố, cường độ phát sinh chất thải
nguy hại, cường độ phát sinh chất thải rắn công nghiệp, tỷ lệ xử lý chất thải sinh hoạt đô thị, tỷ lệ
xử lý an toàn chất thải nguy hại, tỷ lệ sử dụng chất thải rắn công nghiệp.
(4) Tiếng ồn: cấp độ tiếng ồn trong khu vực.
(5) Môi trường sinh thái: tỷ lệ mật độ dân số khai thác nước ngầm, tỷ lệ khu vực thay đổi đất
nơng nghiệp.
(6) Nước sạch và khơng khí: Tỷ lệ cấp nước bao phủ, tỷ lệ mạng lưới cung cp khí đốt bao
phủ, khơng gian xanh bình qn đầu người, bình quân đầu người sử dụng nước hàng ngày.
(7) Quản lý môi trường: tỷ lệ hoạt động thường xuyên của các cơ sở xử lý nước thải đô thị,
số nhân lực làm công tác bảo vệ môi trường trên một vạn dân. Tỷ trọng xử lý vốn đầu tư trong
GDP, tỷ lệ giải quyết đơn thư về ô nhiễm môi trường và các đợt thanh tra.
418


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Những chỉ số về môi trường cấu thành chỉ số tổng hợp về tính bền vững đô thị của Trung

Quốc năm 2011 bao gồm:
 Chất lượng khơng khí. Bao gồm các chỉ báo thành phần (1) Ơ nhiễm khơng khí (chỉ số: tập
trung SOx, NOx, PM (mg/m3); (2) Ơ nhiễm cơng nghiệp (chỉ số: Phát thải SO2 công nghiệp/1 đơn
vị GDP (tấn/nhân dân tệ)).
 Xử lý chất thải. Bao gồm các chỉ báo thành phần (1) Xử lý chất thải công nghiệp (chỉ số:
% tỷ lệ chất thải công nghiệp được xử lý); Hợp phần (2) Xử lý chất thải (chỉ số: % tỷ lệ nước
thải được xử lý); Hợp phần (3) Quản lý chất thải sinh hoạt (chỉ số: % tỷ lệ chất thải sinh hoạt
được xử lý).
 Môi trường xây dựng. Bao gồm các chỉ báo thành phần: (1) Mật độ dân số đơ thị (chỉ số:
số người/km2 diện tích đất đơ thị; (2) Sử dụng phương tiện giao thông công cộng (chỉ số: số người
sử dụng phương tiện giao thông công cộng (m2/người)); (3) Khơng gian xanh cơng cộng (chỉ số:
diện tích không gian xanh).
3.3. Bộ chỉ số đô thị xanh ở châu Phi (EIU, 2011b)
Bộ chỉ số đô thị xanh châu Phi đo lường tình trạng mơi trường của 15 đơ thị lớn ở châu Phi
và mức độ cam kết của họ trong việc giảm thiểu tác động môi trường.
Phương pháp nghiên cứu được phát triển dựa trên những bộ chỉ số đơ thị xanh trước đó (châu
Âu, châu Á, châu Mỹ Latin…). Tuy nhiên, Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế (EIU) đã có một vài thay
đổi về phương pháp đo lường để phù hợp với chất lượng, sự sẵn có của số liệu và những đặc điểm
về môi trường tại châu Phi. Bộ chỉ số đô thị xanh châu Phi cho điểm các đơ thị dựa trên 8 nhóm
tiêu chí - năng lượng và CO2, sử dụng đất, giao thông, rác thải, nước, vệ sinh, chất lượng khơng
khí và quản trị môi trường - và bao gồm 25 biến quan sát. 12 trong số 25 biến quan sát này là biến
định lượng - đo lường hàm lượng khí thải CO2 từ việc tiêu dùng điện năng, phần trăm dân số sống
tạm bợ, mức độ rác thải và vệ sinh. 13 biến quan sát cịn lại là định tính nhằm đánh giá về chính
sách, quy định và kỳ vọng của mỗi thành phố - chẳng hạn sự cam kết của họ trong việc giảm thiểu
tác động môi trường của tiêu dùng năng lượng, xây dựng và phát triển những không gian xanh
trong thành phố, cơng tác bảo tồn di tích, giảm ùn tắc giao thông, và tái chế rác thải.
Thu thập số liệu: Số liệu được thu thập từ giữa tháng 4/2010 đến tháng 5/2011 từ các nguồn
chính thức từ tổng cục thống kê quốc gia và địa phương, chính quyền thành phố, các công ty phúc
lợi, ủy ban môi trường.
Cách tính điểm tương tự bộ chỉ số đơ thị xanh châu Âu. Thêm vào đó, nghiên cứu cũng đưa

ra cách xếp hạng thành 5 nhóm:
(1) Trên hẳn mức trung bình: Các đô thị đạt điểm cao hơn 1,5 lần độ lệch chuẩn trên trung bình
(2) Trên trung bình: Các đơ thị đạt điểm từ 0,5 đến 1,5 lần độ lệch chuẩn trên trung bình
(3) Trung bình: Các đơ thị đạt điểm từ 0.5 lần độ lệch chuẩn dưới trung bình đến 0.5 lần độ
lệch chuẩn trên trung bình
419


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

(4) Dưới trung bình: Các đơ thị đạt điểm từ 0.5 đến 1.5 lần độ lệch chuẩn dưới trung bình
(5) Dưới xa mức trung bình: Các đơ thị đạt điểm lớn hơn 1.5 lần độ lệch chuẩn dưới trung
bình
Kết quả chính:
Khơng có một đơ thị nào ở châu Phi xếp hạng ở mức “Trên xa mức trung bình”. Chỉ có 6
thành phố đạt mức trên trung bình, hầu hết là các thành phố thuộc khu vực Nam Phi và Bắc Phi.
Các thành phố ở miền Nam châu Phi nổi trội hơn về chính sách mơi trường trong khi đó, các thành
phố Bắc Phi khơng mạnh về chính sách nhưng nổi bật về khả năng cung cấp năng lượng và nước
sạch cho người dân.
Bảng 1. Tổng hợp các bộ chỉ số đô thị xanh ở trên thế giới
Thời
điểm
công
bố

Hệ thống
sinh thái
đô thị
châu Âu


Chi số đô
thị xanh
châu Âu

Giải
thưởng
các đô thị
xanh châu
Âu

420

(2006)
2007

2009

Từ
năm
2010

Tác giả

Ambiente
Italia

Economist
Intelligenc
e Unit


Ủy ban
Môi trường
châu Âu
European
Commissio
n (DG
Environme
nt)

Số thành
phố/Phạm
vi khảo
sát

32 thành
phố châu
Âu

32 thành
phố châu
Âu

Các thành
phố châu
Âu có trên
200 ngàn
dân

Tổng
các

chỉ
số

Các nhóm chỉ số

Định
lượng

Định
tính

25

Chất lượng khơng khí,
tiếng ồn, Nước sạch,
Năng lượng, Chất
thải, Giao thơng,
Khơng gian xanh, Nhà
cửa, Khí thải CO2,
Sức khỏe, Bình đẳng,
Giáo dục, Sự tham gia

21

4

30

Chất lượng khơng khí,
Nước sạch, Năng

lượng, Chất thải, Giao
thơng, Khơng gian
xanh, Nhà cửa, Khí
thải CO2,

17

13

56

Biến đổi khí hậu, Giao
thơng, Khơng gian
xanh, Thiên nhiên và
Đa dạng sinh học,
Chất lượng khơng khí,
Tiếng ồn, Chất thải,
Nước sạnh, Nước thải,
Năng lượng, Quản lý
môi trường, Đổi mới
sáng tạo sinh thài

52

3


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Chi số đô

thị xanh
châu Á

Chỉ số
môi
trường đô
thị ở
Trung
Quốc

2011

2014

Economist
Intelligenc
e Unit

ADB

22 thành
phố châu
Á

33 thành
phố

29

Năng lượng, Chất

lượng không khí,
Nước sạch, Chất thải,
Giao thơng, Khơng
gian xanh, Nhà cửa,
Khí thải CO2

13

16

42

Mơi trường nước, mơi
trường khơng khí,
chất thải rắn, tiếng ồn,
mơi trường sinh thái,
nước sạch và khơng
khí, quản lý mơi
trường

35

7

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
4. Thực tiễn về bộ chỉ số đô thị xanh ở Việt Nam
Ở Việt nam trong thời gian gần đây cũng đã xuất hiện các nghiên cứu về vấn đề phát triển đô
thị xanh, đô thị bền vững. Các khái niệm đô thị xanh, đô thị sinh thái, đô thị thông minh, đô thị
thịnh vượng, dần được đưa vào Việt nam thông qua các hoạt động hỗ trợ, hợp tác nghiên cứu của
các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức như UN-Habitat, các tổ chức hỗ trợ phát triển song

phương (EU, Hàn Quốc, Nhật bản) hoặc đa phương (UN).
Mặc dù vấn đề đô thị hố và phát triển đơ thị theo hướng bền vững đã và đang được đặt ra
một cách nghiêm túc, song việc hiện thực hố khái niệm này cịn mới ở giai đoạn ban đầu. Dựa
trên những cam kết quốc tế liên quan đến những vấn đề về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh,
Chính phủ Việt Nam đã thơng qua một loạt các chiến lược, chính sách, chương trình hành động
liên quan đến việc thúc đầy phát triển đô thị xanh và bền vững (Chính phủ Việt Nam, 2012a,
2012b). Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng Xanh (2012a) đã đặt ra những chỉ tiêu chủ yếu rất cụ
thể cho việc phát triển đô thị theo hướng xanh và bền vững đến năm 2020 như 60% đô thị loại III
và 40% đơ thị loại IV, loại V có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định; tỷ
lệ chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn theo Quyết định số 2149/QĐ-TTg (Chính phủ,
2009), diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đơ thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải công cộng ở đô
thị lớn và vừa 35 - 45% và 50%, tỷ lệ đơ thị lớn và vừa đạt tiêu chí đơ thị xanh.
Chương trình phát triển đơ thị quốc gia giai đoạn 2012 - 2020 đã nhấn mạnh việc phát triển
đô thị “hướng tới nền kinh tế xanh, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế địa phương, vùng và cả nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa” đồng thời đặt ra
nhiệm vụ “nghiên cứu phát triển đô thị xanh đảm bảo đơ thị hóa nhanh, bền vững”, ban hành bộ
chỉ số cạnh tranh đơ thị (Chính phủ Việt nam, 2012). Tuy nhiên, việc thực hiện các chương trình
này cịn gặp nhiều khó khăn và việc triển khai chưa được nhiều. Khái niệm “đơ thị xanh” cịn được
421


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

hiểu theo nhiều cách khác nhau, phần lớn theo nghĩa hẹp chỉ trong phạm vi không gian, cảnh quan
xanh, chưa thực sự gắn với quan điểm phát triển bền vững và tăng trưởng xanh (Lê Thị Bích
Thuận, 2016; Trương Văn Quảng, 2013). Có ý kiến cịn cho rằng chỉ tập trung phát triển đô thị
xanh với các đô thị loại III trở xuống (Lê Thị Bích Thuận, 2016). Ngay cả Báo cáo Việt nam 2035
được công bố mới đây giữa Ngân hàng thế giới (NHTG) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Ngân hàng
thế giới, 2016), phần nói về những thách thức của đơ thị hố vẫn khá nặng về những vấn đề kỹ
thuật, liên kết hạ tầng, quản lý đất đai mà ít đề cập đến các khía cạnh phát triển bền vững của đô

thị hiện đại (Ngân hàng Thế giới, 2016). Đầu năm 2018, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư
01/2018/TT-BXD về việc quy định về chỉ tiêu xây dựng đơ thị tăng trưởng xanh trong đó, các chỉ
tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh được chia thành 4 nhóm với 24 chỉ tiêu (Bộ Xây dựng,
2018). Thông tư này được ban hành sẽ tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
Bộ chỉ số Đô thị xanh trên thực tế.
Một số nghiên cứu cũng đề xuất một số tiêu chí phát triển đơ thị theo hướng xanh hoặc bền
vững. Hồng Hải (2014) đề xuất mơ hình kiến trúc xanh trong đầu tư xây dựng đô thị phát triển
bền vững trong đó tiêu chuẩn kiến trúc xanh bao gồm các tiêu chí về i) địa điểm xây dựng bền
vững, ii) khơng gian xanh, iii) hiệu quả sử dụng nước, iv) hiệu quả năng lượng và v) cách thức sử
dụng vật liệu xây dựng theo hướng sử dụng nguồn gốc tự nhiên, tận dụng tái chế vật liệu. Hội đồng
Cơng trình xanh Việt Nam (VGBC) cũng đưa ra hệ thống đánh giá cơng trình xanh LOTUS với
những tiêu chí giảm thiểu tiêu thụ năng lượng, tiết kiệm sử dụng nước, tiết kiệm sử dụng vật liệu.
Các tiêu chí, bộ chỉ số về thành phố sinh thái cũng được nhiều tác giả đề xuất (Hoàng Văn Hưng,
2014; Hoàng Hải, 2014; Thanh Thảo, 2015). Tổ chức UN-Habitat đã hỗ trợ xây dựng tính tốn thí
điểm một số chỉ số về phát triển đơ thị, gắn với các chương trình phát triển chung. Điển hình là bộ
chỉ số ‘Mục tiêu thiên niên kỷ đô thị’ tính tốn cho thành phố Việt Trì từ năm 2009. Tổ chức này
cũng đặt mục đích hỗ trợ Hội các đô thị Việt Nam Xây dựng một bộ chỉ số đô thị để i) đánh giá sự
phát triển tổng thể của đơ thị, giúp các đơ thị có cơ sở dữ liệu trong việc điều hành quản lý đô thị,
ii) nâng cao năng lực của chính quyền đơ thị trong việc phát triển, duy trì hệ thống quan trắc các
đơ thị để giám sát và đánh giá các chỉ số đô thị ở cấp địa phương và iii) phối hợp với một số cơ
quan nhà nước để chuẩn bị một hướng dẫn cho việc lập và duy trì hệ thống quan trắc đô thị (Hiệp
hội các đô thị Việt Nam, 2010).
Ngày 05/01/2018, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 01/2018/TT-BXD về việc quy định về
chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh. Thông tư này quy định các chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng
trưởng xanh và hướng dẫn lập báo cáo xây dựng đô thị tăng trưởng xanh theo các chỉ tiêu đối với
các thành phố trực thuộc Trung ương, các đô thị loại I, loại II, loại III, loại IV và loại V. Đối tượng
áp dụng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động xây dựng đô thị tăng trưởng
xanh. Theo đó, các chỉ tiêu xây dựng đơ thị tăng trưởng xanh được chia thành 4 nhóm với 24 chỉ
tiêu. Nhóm chỉ tiêu kinh tế gồm 5 chỉ tiêu nhằm đánh giá hiệu quả tăng trưởng kinh tế về sử dụng
năng lượng và tài nguyên thiên nhiên trong đầu tư xây dựng và phát triển đơ thị. Nhóm chỉ tiêu

mơi trường gồm 10 chỉ tiêu nhằm đánh giá về chất lượng môi trường và cảnh quan đô thị, mức độ
422


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

áp dụng các giải pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo, bảo vệ
môi trường và giảm thiểu ô nhiễm, xả thải, phát thải khí nhà kính trong phát triển đơ thị. Nhóm
chỉ tiêu xã hội gồm 4 chỉ tiêu nhằm đánh giá về hiệu quả nâng cao chất lượng và điều kiện sống
của người dân đô thị. Nhóm chỉ tiêu thể chế gồm 5 chỉ tiêu nhằm đánh giá về công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành của chính quyền đơ thị đối với cơng tác xây dựng đô thị tăng trưởng xanh (Bộ Xây
dựng, 2018).
Chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh là cơ sở để các đơ thị xác định mục đích cụ thể để
đề xuất các hoạt động ưu tiên thực hiện xây dựng đô thị tăng trường xanh; đánh giá thẩm định các
chương trình, kế hoạch, dự án đầu tư xây dựng có sử dụng nguồn vốn phục vụ mục tiêu xây dựng
đô thị tăng trưởng xanh. Bộ chỉ tiêu này cũng là cơ sở đề xuất việc rà soát, điều chỉnh các chi tiêu
cụ thể trong quy hoạch đô thị, chương trình phát triển đơ thị; kiểm tra, giám sát các chương trình,
kế hoạch của đơ thị triển khai thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, giảm cường độ
phát thải khí nhà kính và tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo, giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên
tại các đô thị. Thông tư cũng quy định việc lập báo cáo xây dựng đô thị tăng trưởng xanh định kỳ,
và đảm bảo kinh phí chi việc thực hiện công việc này. Việc ban hành Thông tư quy định về chỉ
tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh là một bước tiến đáng ghi nhận trong nỗ lực thể chế hóa
việc báo cáo, theo dõi và giám sát Kế hoạch quốc gia về tăng trưởng xanh nói chung và phát triển
đơ thị xanh nói riêng. Đây cũng tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng Bộ chỉ
số Đô thị xanh trên thực tế.
Trên cơ sở Bộ chi số do EIU và Siemens đề xuất (EIU và Siemens, 2013), Vũ Quốc Huy và
cộng sự (2019) đã đề xuất bộ chỉ số đô thị xanh áp dụng thử nghiệp tại Thành phố Vĩnh Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc. Bộ chỉ số này được xây dựng đảm bảo tính bao quát, nhất quán về mặt phương
pháp và đã chứng tỏ có thể triển khai và thực hiện được. Các quan sát thực tế cũng cho thấy các
kết quả và đánh giá chung rút ra từ Bộ chỉ số đã phản ánh tương đối chính sách tình hình thực tế

tại địa phương và có thể sử dụng tốt trong việc cung cấp các thông tin, bằng chứng thực tế và
phân tích khoa học cho các Báo cáo về môi trường và phát triển đô thị xanh, đô thị bền vững
trong tương lai.
Về mặt hình thức, hệ thống chỉ tiêu trong Bộ chỉ tiêu ban hành trong Thông tư số 01/2018
không trùng khớp với bộ chỉ số Đô thị xanh do nhóm Vũ Quốc Huy và cộng sự (2019) nghiên cứu
thử nghiệm. Theo một nghĩa nào đó, bộ chỉ số Đơ thị xanh chi tiết hơn, mang tính hệ thống hơn
và yêu cầu về số liệu cũng không phức tạp hơn. Vì vậy có thể đề xuất lồng ghép bộ chỉ số thử
nghiệm này trong các Bộ chỉ tiêu mà Bộ Xây dựng có thể ban hành trong thời gian tới.
Thực tế việc ban hành Bộ chỉ tiêu Đô thị tăng trưởng xanh theo Thông tư số 01/2018 của Bộ
Xây dựng với việc ban hành và thực hiện Thông tư số 19/2016 ngày 24/8/2016 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường về báo cáo công tác bảo vệ môi trường cho thấy cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn
giữa các Bộ, ngành trong việc thực hiện các chính sách phát triển chung tại địa phương, mang tính
liên ngành. Cả hai Thơng tư đều có nhiều điểm chung, đều do chính quyền cơ sở (huyện, xã) chịu
423


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

trách nhiệm thi hành. Vì vậy cần có sự thống nhất, tập trung đầu mối để thực hiện các nhiệm vụ
trên. Việc lồng ghép các nội dung của Thông tư 01/2018 và Thông tư 19/2016 thành một Bộ chỉ
số Đô thị xanh có thể là một việc cần làm. Trước mắt có thể áp dụng thử nghiệm Bộ chỉ số Đơ thị
xanh trên quy mơ rộng hơn để có thể có các đánh giá chính xác, khách quan hơn về tính hữu ích,
khả năng thực hiện của Bộ chỉ số này trên thực tế.
5. Kết luận
Đơ thị hố và phát triển đô thị theo hướng bền vững đã và đang là một vấn đề nhận được sự
quan tâm lớn trong các thảo luận chính sách ở nước ta. Chính phủ đã thơng qua một loạt các
chiến lược, chính sách, chương trình hành động liên quan đến việc thúc đầy phát triển đô thị
xanh và bền vững với những chỉ tiêu chủ yếu rất cụ thể cho việc phát triển đô thị theo hướng
xanh và bền vững cho giai đoạn phát triển mới ở nước ta. Đã có nhiều nỗ lực trong việc tổ chức
thực hiện, xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát đánh giá hiện trạng và quá trinh thực hiện chính

sách nhằm góp phần đề xuất, phê duyệt, điều chỉnh và thúc đấy thực hiện các giải pháp phát triển
đơ thị xanh. Việc hồn thiện các cơng cụ theo dõi giám sát, trong đó có việc áp dụng hệ thống
chỉ tiêu và Bộ chỉ số đô thị xanh, đơ thị phát triển bền vững có ý nghĩa quan trọng trong q
trình hỗ trợ, thúc đấy chính sách này.
Các Bộ chỉ số của các nước trên hầu hết đều triển khai xây dựng trên nguyên lý của phát triển
bền vững, đều tập trung vào các khía cạnh chủ đạo về mơi trường trong phát triển đơ thị bền vững.
Có thể nhận thấy, các bộ chỉ số này được xây dựng căn cứ trên các loại hình đơ thị và thực trạng
phát triển của các đô thị của các quốc gia đó, đồng thời, ln ln được xem xét để sửa đổi, bổ
sung, rút gọn, thay thế các tiêu chí đô thị xanh theo từng giai đoạn. Các chỉ số, chỉ tiêu được lượng
hóa cụ thể và được xây dựng trên cơ sở có sự tham vấn, khảo sát kĩ lưỡng tính khả thi và khả năng
áp dụng sau này. Rất nhiều chỉ số, chỉ tiêu đưa ra có sự tương thích, phù hợp với các vấn đề cịn
tồn tại, thiếu tính bền vững đối với các đơ thị của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Như
vậy, mặc dù các hình thái đơ thị giữa các quốc gia có thể chênh lệch nhau ở một số tiêu chí, nhưng
các nhóm chỉ số, chỉ tiêu và nhiều các chỉ số, chỉ tiêu cụ thể được tìm hiểu ở trên có thể gợi mở
cho việc vận dụng linh hoạt các bộ chỉ số này trong việc nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ số đô thị
xanh ở Việt nam.
Ở Việt Nam, vấn đề đô thị xanh được quan tâm nhiều trong thời gian gần đây, bộ chỉ tiêu về
phát triển đô thị tăng trưởng xanh đã được Bộ xây dựng ban hành thành văn bản chính sách. Tuy
nhiên, để chính sách đi vào thực tiễn thì cần tiếp tục hồn thiện khung pháp lý, tăng cường năng
lực chuyên môn cũng như huy động các nguồn tài chính để đảm bảo tốt hơn công tác theo dõi,
giám sát, đánh giá quá trình phát triển thơng qua việc xây dựng và phổ biến kết quả bộ chỉ số Đô
thị xanh. Đây là việc làm cần thiết nhằm thực thi các Chiến lược, Kế hoạch phát triển đơ thị, góp
phần vào sự phát triển bền vững chung.

424


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Tài liệu tham khảo

1. ADB (2014). Developing Indicators and Monitoring Systems for Environmentally Livable
Cities in the People’s Republic of China.
2. ADB (2015). Green City Development Toolkit. Mandaluyong City, Phillippines: Asian
Development Bank.
3. Basiri, M., Someh, M. F., Ghaderi, B., & Azim, A. Z. (2014). Review and Analysis the
Indicators of Green City with NDVI (Study Case Sheikh Tappeh Neighborhood in Urmia).
European Scientific Journal. November 2014.
4. Berrini, M., & Bono, (2007). The Urban Ecosystem Europe. Ambiente Italia Research
Institute, Report 2007.
5. Bộ Xây dựng (2018). Thông tư 01/2018/TT-BXD ngày 05/01/2018 về việc quy định về chỉ
tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh.
6. Chính phủ Việt Nam (2012a). Quyết định số1393/QĐ-TTg: Phê duyệt Chiến lược Quốc
gia về Tăng trưởng Xanh. Hà nội ngày 25 tháng 9 năm 2012
7. Chính phủ Việt Nam (2012b). Quyết định số1659/QĐ-TTg: Phê duyệt Chương trình phát
triển đơ thị quốc gia giai đoạn 2012 - 2020. Hà nội ngày 07 tháng 11 năm 2012
8. Economist Intelligence Unit & Siemens, A. G. (2009). European Cities Green Index,
Siemens AG. London. 2009
9. Economist Intelligence Unit & Siemens, A. G. (2011a). African Green City Index. Munich:
Siemens AG, 99.
10. Economist Intelligence Unit & Siemens, A. G. (2011b). Asian Green City Index.
Assessing the environmental performance of Asia’s major cities. Munich. 2011
11. Economist Intelligence Unit & Siemens, A. G. (2013). European Cities Green Index,
Siemens AG. London. 2013
12. Economist Intelligence Unit & Siemens, A. G. (2014). European Cities Green Index,
Siemens AG. London. 204
13. European Green Capital (2016). European Green Capital Award 2019: Guidance Note;
April 2016. Available at />14. Hiệp hội các đô thị Việt Nam (2010). Bộ chỉ số đô thị với công tác quản lý đô thị ở Việt
Nam. Hội thảo tham vấn quốc gia về “Xây dựng bộ chỉ số đô thị và Công tác quản lý đô thị ở Việt
Nam”. Ninh bình
15. Hồng Hải (2014). Đề xuất một số mơ hình kiến trúc xanh trong đầu tư xây dựng đơ thị

phát triển bền vững. Tạp chí Xây dựng và Đơ thị (37).
425


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

16. Hoàng Văn Hưng (2014). Phát triển thành phố sinh thái: tiềm năng và thách thức. Tạp chí
Xây dựng và Đô thị (37).
17. Institute for Advanced Sustainability Studies (IASS) (2016). How green is a “Green City”?
A review of existing indicators and approaches. IASS Working Paper. Potsdam, December 2016.
18. Kahn, M. E. (2006). Green cities: urban growth and the environment (p. 160).
Washington, DC: Brookings Institution Press.
19. Lê Thị Bích Thuận (2016). Phát triển “Đô thị xanh tại Việt Nam”. Truy cập ngày
13/3/2016. />20. Lewis (2015).
Green City Development Tool Kit.Asian Development Bank.
/>21. Lindfield, Michael and Florian Steinberg (2012). Green cities. Mandaluyong City,
Philippines: Asian Development Bank, 2012
22. Lưu Đức Hải (2016). Sự khởi sắc của diện mạo đô thị Việt Nam Xây Dựng. Truy cập ngày
13/3/2016. />23. Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2016). Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh
vượng sáng tạo, công bằng và dân chủ. Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
24. OECD (2011). Hammer, S., L. Kamal-Chaoui, A. Robert and M. Plouin, Cities and Green
Growth: A Conceptual Framework, OECD Regional Development Working Papers 2011/08,
OECD, Paris.
25. OECD (2013). Green Growth in Cities, OECD Green Growth Studies, OECD Publishing.
/>26. Phạm Ngọc Đăng (2012). “Bàn về xây dựng phát triển đô thị Xanh ở Việt Nam”, Hội Môi
trường Xây dựng Việt Nam, Nhà xuất bản Xây Dựng, Hà Nội.
27. Roseland Mark (1997). Dimensions of the eco-city. Cities. Volume 14, Issue 4, August 1997
28. Thanh Thảo (2015). Xây dựng thành phố thông minh: Xu thế thời đại và thách thức đối
với Việt Nam. Tóm lược Hội thảo “ Đơ thị thơng minh: Thực tiến và kinh nghiệm quốc tế, triển
vọng ở Việt Nam” Hà Nội tháng 8/2015. Tạp chí Xây dựng và Đô thị (43).

29. Trương Văn Quảng (2013). Quy hoạch phát triển đô thị xanh ở Việt Nam. Quy hoạch và
phát triển Đô thị Xanh - Thông minh tại Việt Nam. Hà nội.
30. Vũ Quốc Huy và cộng sự (2019). Xây dựng và áp dụng thử nghiệm bộ chỉ số đô thị xanh
ở Việt Nam. Báo cáo đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng.
31. Vũ Trọng Lâm và Nguyễn Thị Diễm Hằng (2021). Phát triển đô thị ở Việt Nam hướng
tới mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tạp chí Cộng sản, số 964 (tháng 4 năm 2021).
426



×