Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Trách nhiệm về quyền con người của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.46 KB, 7 trang )

TRÁCH NHIỆM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA DOANH NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Huỳnh Thị Lệ Kha1
1. Khoa Khoa học Quản lý. Email:

TĨM TẮT
Bài viết nhằm mục đích tìm hiểu pháp luật Việt Nam quy định doanh nghiệp có trách
nhiệm đối với quyền con người như thế nào, việc vi phạm trách nhiệm về quyền con người của
doanh nghiệp sẽ bị xử lý như thế nào. Từ đó xem xét sự phù hợp với chuẩn mực quốc tế về
doanh nghiệp và quyền con người của những quy định này, đánh giá những trở ngại của những
quy định pháp luật trong việc thực hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với quyền con người
để đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai trò của doanh nghiệp đối với quyền con
người tại Việt Nam.
Từ khóa: Kinh doanh và quyền con người, Trách nhiệm của doanh nghiệp, Quyền con người
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm.
Quyền con người thường xuyên được thảo luận trên các chính trường. Ví dụ: Các chính
trị gia bàn luận cách cân bằng trong bảo vệ an ninh quốc gia với quyền riêng tư, hoặc làm cách
nào để cân bằng quyền lợi về sức khỏe và quyền làm việc như chúng ta đã thấy các Chính phủ
đã làm trong đại dịch Covid 19…Đó là lý do tại sao chúng ta thường hay nghĩ đến khía cạnh
Chính trị khi nghe đến thuật ngữ quyền con người.
Nhưng khi đề cập đến vấn đề quyền con người trong bối cảnh các hoạt động kinh doanh,
thì lại có ý nghĩa khác. Thay vào đó vấn đề này đề cập đến trách nhiệm của doanh nghiệp trong
việc tôn trọng quyền của những người bị ảnh hưởng dưới sự tác động của doanh nghiệp – cụ
thể là trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp,
khái quát lịch sử, phân tích logic quy phạm để đánh giá sơ bộ khung pháp lý của Việt Nam đối
với trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp trong lĩnh vực quyền con người, nhằm trả lời cho


câu hỏi nghiên cứu là quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
quyền con người có những hạn chế và thách thức gì trong giai đoạn hiện nay.
315


3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Chuẩn mực quốc tế về doanh nghiệp và quyền con người
Doanh nghiệp và quyền con người là một chủ đề khá mới trong các tổ chức, diễn đàn quốc
tế cũng như với các doanh nghiệp. Trong pháp luật quốc tế về quyền con người, trách nhiệm quyền
con người của doanh nghiệp vẫn là một nội dung đang trong quá trình xây dựng chuẩn mực.
Cũng như nhiều chủ để nhân quyền khác, Liên hợp quốc đóng vai trị chủ đạo trong việc nghiên
cứu, xây dựng các chuẩn mực về trách nhiệm của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, tổ chức
này đã có một số sáng kiến nhằm xây dựng chuẩn mực quốc tế về doanh nghiệp và quyền con người.
Ngoài các quy định và cơ chế bảo vệ quyền con người nói chung, Liên hợp quốc đã xây dựng, thông
qua được một số văn kiện và cơ chế liên quan đến vấn đề nhân quyền và doanh nghiệp sau:
Thỏa ước toàn cầu (2000) (Global Compact)
Thỏa ước toàn cầu là một thỏa thuận quốc tế được thông qua năm 2000 theo sáng kiến của
Tổng thư ký Liên hợp quốc nhằm mục đích kêu gọi lãnh đạo các công ty, các cơ quan Liên hợp
quốc, tổ chức xã hội dân sự cùng ủng hộ 10 nguyên tác cơ bản về 3 lĩnh vực là: quyền con người,
lao động và bảo vệ môi trường nhằm hỗ trợ việc thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Hai nguyên tắc đầu tiên trong Thỏa ước này đề cập trực tiếp về quyền con người:
- Doanh nghiệp cần hỗ trợ và tôn trọng các quyền con người đã được quốc tế ghi nhận;
- Doanh nghiệp cần đảm bảo không gây ra vi phạm quyền con người.
Các nguyên tắc hướng dẫn về doanh nghiệp và quyền con người.
Nguyên tắc này do Đại diện đặc biệt về vấn đề quyền con người, tập đoàn xuyên quốc gia
và các doanh nghiệp khác soạn thảo, sau đó được Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông
qua theo nghị quyết 17/4 ngày 16/6/2011.
Các Nguyên tắc hướng dẫn gồm 3 chương với 31 nguyên tắc xác định vai trò, trách nhiệm
của Nhà nước, doanh nghiệp trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh
hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo để các cá nhân, nhóm bị ảnh hưởng có thể tiếp

cận được với các biện pháp khác phục hậu quả dựa trên khuôn khổ “bảo vệ, tôn trọng và khắc
phục” của Liên hợp quốc.
Các nguyên tắc hướng dẫn này là văn bản mang tính chuẩn mực quốc tế đầu tiên đưa ra
các hướng dẫn cụ thể để quốc gia và doanh nghiệp có thể xây dựng chính sách, pháp luật, thủ
tục, quy trình nhằm ngăn ngừa à giải quyết những rủi ro, tác động về quyền con người khi các
tập đoàn, doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh. Có thể coi các Nguyên tắc này là một
cương lĩnh hành động dựa trên chuẩn mực quốc tế cho quốc gia và doanh nghiệp thực hiện tốt
trách nhiệm và nghĩa vụ của mình về quyền con người.
Nguyên tắc nêu rõ trách nhiệm của doanh nghiệp là phải “tôn trọng” quyền con người.
Trách nhiệm tôn trọng quyền con người được hiểu là trách nhiệm kiềm chế và kiểm soát các
hoạt động của mình để khơng gây ra hoặc góp phần gây ra vi phạm quyền con người và trong
trường hợp có vi phạm xảy ra, cần có biện pháp khắc phục tác động tiêu cực đến nhân quyền
do mình gây ra. Tiếp đó, doanh nghiệp cần chủ động để ngăn ngừa, giảm thiểu các tác động
tiêu cực đến nhân quyền có liên quan đến hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ, các mối quan hệ
kinh doanh của doanh nghiệp, kể cả khi doanh nghiệp không trực tiếp gây nên các tác động đó.
316


Trách nhiệm tôn trọng quyền con người là một chuẩn mực tồn cầu, địi hỏi mọi loại hình
doanh nghiệp phải tuân thủ, bất kể địa bàn hoạt động nào. Trách nhiệm này tồn tại độc lập với
khả năng và sự sẵn sàng của nhà nước nhằm thực hiện nghĩa vụ của quốc gia về quyền con
người và không làm ảnh hưởng hay giảm nhẹ nghĩa vụ của Nhà nước.
Ngay sau khi ra đời, bản Hướng dẫn này đã nhận được sự ủng hộ tích cực của các tổ
chức quốc tế, chính phủ, tổ chức phi chính phủ và cả các doanh nghiệp. Tổ chức hợp tác
kinh tế và phát triển (OECD) đã sửa hướng dẫn OECD về doanh nghiệp đa quốc gia để bổ
sung thêm một chương về nhân quyền trên cơ sở tuân thủ theo nội dung của Nguyên tắc
hướng dẫn 2011 của Liên hợp quốc. Ngoài ra, nhiều quốc gia cũng đã chủ động cam kết
thúc đẩy và thực hiện các Nguyên tắc hướng dẫn bằng việc thông qua Kế hoạch hoặc
Chương trình hành động quốc gia về doanh nghiệp và nhân quyền
Như vậy, có thể thấy là hiện nay Liên hợp quốc vẫn chưa có một điều ước quốc tế nào có

tính ràng buộc liên quan đến chủ đề này, mặc dù đang có những nỗ lực hướng đến xây dựng
một Công ước;
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO), OECD, Tổ chức tài chính quốc tế, và các tổ chức của
doanh nghiệp cũng đã có một số văn kiện đề cập đến các vấn đề liên quan đến trách nhiệm
quyền con người của doanh nghiệp. Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến quan hệ
lao động được quy định trong các tiêu chuẩn lao động quốc tế, pháp luật quốc tế về quyền con
người, và các hiệp định thương mại mà Việt Nam vừa ký kết như CPTPP và EVFTA. Các
chương về lao động của cả hai hiệp định này đều bao gồm 8 tiêu chuẩn lao động cơ bản nằm
trong Tuyên bố của ILO về các Nguyên tác về quyền cơ bản trong lao động (FPRW) năm 1998.
3.2. Trách nhiệm về quyền con người của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật
Việt Nam
Các quy định pháp lý về nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ các quyền con người của doanh nghiệp
Là tổ chức được thành lập theo pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp có nghĩa vụ tơn
trọng Hiếp pháp và pháp luật Việt Nam, cũng như các điều ước quốc tế về lao động và quyền
con người mà Việt Nam là thành viên, bao gồm các nguyên tắc chung và các quy định cụ thể
liên quan đến các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Theo Hiến pháp và các luật định hiện hành, trong hoạt động của doanh nghiệp, các quyền
con người gắn kết không tách rời với quyền, nghĩa vụ công dân và liên quan đến cả chủ doanh
nghiệp, cũng như người lao động. Mọi cơng dân bình đẳng trước pháp luật, khơng ai bị phân biệt
đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; có quyền tự do kinh doanh trong
những ngành nghề mà pháp luật không cấm, có quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh
ghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất,
kinh doanh được pháp luật bảo hộ và khơng bị quốc hữu hóa; được bồi thường theo giá thị trường
khi bị trưng mua hoặc trưng dụng vì lý do quốc phịng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng
khẩn cấp, phịng chống thiên tai. Mọi người dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc
làm và nơi làm việc; quyền được bảo đảm an sinh xã hội, được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình
đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế; có quyền và nghĩa vụ học tập, quyền nghiên cứu khoa
học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó. Người
317



làm công ăn lương được hưởng phúc lợi xã hội và các chế độ bảo hiểm, bảo đảm các điều kiện
làm việc cơng bằng, an tồn, được hưởng lương và chế độ nghỉ ngơi. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động, tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao
động tiến bộ, hài hòa và ổn định. Các doanh nghiệp hoạt động, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng
theo pháp luật, có trách nhiệm bảo vệ mơi trường, khắc phục, bồi thường thiệt hại hành vi gây ô
nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học; nghiêm
cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu,
xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi
phạm quyền trẻ em. Các doanh nghiệp và người lao động có nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã
hội, nộp thuế theo luật định, tôn trọng quyền của người khác.
Từ khá sớm, khi bắt đầu hình thành nên ngành luật kinh tế, pháp luật Việt Nam đã quy định
một số nghĩa vụ của doanh nghiệp về các quyền căn bản. Chẳng hạn như trong Luật công ty (1990)
và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) có những quy định về việc đảm bảo quyền lợi của người lao
động, tơn trọng quyền của tổ chức cơng đồn, tn thủ các quy định về bảo vệ môi trường, bảo vệ di
tích lịch sử, văn hóa…Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt Nam (1987) cũng có các quy định về việc
doanh nghiệp phải bảo đảm bảo hiểm xã hội cho công nhân (Điều 31), Bảo vệ môi trường (Điều 34).
Luật Doanh nghiệp năm 2020 mặc dù chưa đề cập một cách đầy đủ, nhưng cũng đã tiến
bộ hơn, nêu lên một số nghĩa vụ chính của doanh nghiệp đối với một số quyền con người. Cụ
thể tại Khoản 5 Điều 8, về nghĩa vụ của doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp yêu cầu doanh nghiệp
phải: “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động theo quy định của pháp
luật; không phân biệt đối xử, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao động trong doanh
nghiệp; không ngược đãi lao động, cưỡng bức lao động hoặc sử dụng lao động chưa thành niên
trái pháp luật; hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia đào tạo nâng cao
trình độ, kỹ năng nghề; thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật”.
Ở các lĩnh vực cụ thể, nhiều luật chuyên ngành đã chi tiết hóa các nghĩa vụ trên, cũng như
bổ sung nhiều nghĩa vụ khác mà doanh nghiệp phải thực thi (như về lao động, môi trường, tài
nguyên, thu hồi đất, bảo vệ quyền của người tiêu dùng…). Chẳng hạn các quyền căn bản về lao

động đã được pháp luật quốc gia quy định trong Bộ Luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật
an toàn, vệ sinh lao động…, cũng như được xác định trong một số hiệp định thương mại song
phương và đa phương mà Việt Nam đã gia nhập như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam
– EU (EVFTA). Trong lĩnh vực bảo vệ quyền của người tiêu dùng, doanh nghiệp phải tuân thủ
các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Cạnh tranh, Luật Tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, Luật vệ sinh an toàn thực phẩm, Luật Quảng
cáo… Có thể liệt kê một vài nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với quyền con người cụ thể như:
Đối với quyền lao động được ghi nhận là nghĩa vụ của doanh nghiệp tại Điều 8 Luật
doanh nghiệp 2020 và được cụ thể hóa ở chương VII (về thời giờ làm việc), chương VI (về tiền
lương), Điều 137, 139 (về thai sản)… trong Bộ luật Lao động 2020 (Về thời gian làm việc);
Về đất đai thì theo quy định của Điều 27 Luật Đất đai 2013 doanh nghiệp phải tuân thủ
Luật Đất đai 2013 và các công cụ pháp lý liên quan khác khi doanh nghiệp sử dụng đất, trên cơ
sở đảm bảo tơn trọng quyền và lợi ích của cộng đồng và chủ thể sử dụng đất khác.
318


Về trách nhiệm môi trường của doanh nghiệp, một yếu tố quan trọng của khung pháp lý
quốc gia về bảo vệ môi trường là các quy định yêu cầu thực hiện đánh giá tác động môi trường.
Đây là điều kiện trước tiên cho các dự án đầu tư. Khung đánh giá tác động môi trường được
thực hiện theo Luật Bảo vệ môi trường 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
Đối với bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng thì văn bản pháp lý cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về vấn đề này là Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010. Luật này quy định về trách
nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng. Cơng nhận
người tiêu dùng có quyền được đảm bảo an tồn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền được cung
cấp thơng tin chính xác, quyền được lựa chọn hàng hóa, dịch vụ,…14
Hậu quả pháp lý khi doanh nghiệp Việt Nam vi phạm quyền con người
Cả nhà nước và doanh nghiệp đều có trách nhiệm thực hiện các biện pháp tư pháp hoặc
ngoài tư pháp, nhằm bảo đảm cho nạn nhân của các vi phạm có thể tiếp cận sự bồi thường và
khắc phục các vi phạm một cách thỏa đáng.

Pháp luật Việt Nam quy định ba loại trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm là:
Trách nhiệm bồi thường dân sự (theo quy định của Bộ luật Dân sự); trách niệm hành chính
(theo Luật xử phạt vi phạm hành chính) và trách nhiệm hình sự (theo quy định của Bộ Luật
Hình sự). Đối với trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được ghi nhận từ Bộ luật
Hình sự 2015 và chỉ giới hạn trách nhiệm về các tội trong số 31 tội danh thuộc hai nhóm tội
phạm về Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và về môi trường15.
Cạnh đó, trong một số lĩnh vực cụ thể một số ngun tắc về bồi thường được chi tiết hóa.
Ví dụ: “Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền” được cụ thể hóa trong Luật Bảo vệ mơi
trường năm 202016. Ngun tắc này có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng
trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường.
3.3. Những hạn chế, thách thức đối với việc thực thi trách nhiệm của doanh nghiệp về
quyền con người ở Việt Nam
Lĩnh vực doanh nghiệp và quyền con người tại Việt Nam hiện nay đang phải đối diện với
nhiều rào cản, thách thức, trong số đó nổi bật là:
- Nhận thức xã hội, các cơ quan nhà nước và giới kinh doanh về quyền con người và
nghĩa vụ của các chủ thể (bao gồm doanh nghiệp) về quyền con người còn tương đối hạn chế;
- Chưa có cơ quan nhân quyền quốc gia, trong khi nhà nước vẫn chưa xác định cơ quan
cụ thể nào là đầu mối chịu trách nhiệm về lĩnh vực doanh nghiệp và quyền con người;
- Chế tài đối với các vi phạm chưa đủ nghiêm khắc. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với pháp nhân thương mại chỉ giới hạn trong một số tội danh nhất định, nhưng chủ yếu liên
quan đến lĩnh vực kinh tế và môi trường; một số lĩnh vực pháp luật cịn có kẽ hở, bất cập chẳng
hạn như quy định về thủ tục đánh giá tác động môi trường vẫn được giao cho chủ đầu tư thực
hiện hoặc chủ đầu tư thuê đơn vị tư vấn, điều này khơng đảm bảo tính khách quan, cũng như
khơng thể hiện được vai trị giám sát của cơ quan bảo vệ môi trường;
Điều 1, Điều 8 Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010.
Điều 76 Bộ Luật Hình sự 2015
16
Nguyên tắc này được ghi nhận lần đầu tiên trong văn kiện của OECD năm 1972.
14
15


319


- Sự thiếu hụt, tính độc lập, hiệu quả của các cơ chế bảo vệ quyền của người lao động
(như hệ thống thanh tra lao động) và quyền con người nói chung, cũng như luật tố tụng cịn có
những rào cản (như chưa cho phép khởi kiện tập thể ra trước tòa án…) chống lại các vi phạm
của doanh nghiệp; văn hóa đối thoại giữa các bên chưa hình thành, các cơ chế hòa giải, đối
thoại xã hội chưa được phổ biến;
- Bản thân một số công chức, cơ quan nhà nước chưa thực sự quan tâm, bảo vệ quyền lợi
của người dân trong một số trường hợp, chưa trở thành tấm gương cho các doanh nghiệp; môi
trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều rào cản, doanh nghiệp vẫn còn gặp khơng ít khó khăn,
vướng mắc trong các thủ tục hành chính phiền hà, tốn thời gian, chi phí, làm giảm niềm tin vào
cơ quan công quyền;
- Sự thiếu minh bạch thông tin, thiếu cơ chế giám sát hiệu quả và tình trạng tham nhũng
dẫn đến sự câu kết vì tư lợi giữa một số công chức và doanh nhân gây tổn hại cho cộng đồng
và quyền của người dân;
- Thiếu hụt các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức nghiên cứu, giáo dục hoạt
động trong lĩnh vực quyền con người nói chung, quyền con người và doanh nghiệp, quyền lao
động, quyền của người tiêu dùng, quyền về mơi trường…nói riêng; trong một số trường hợp,
việc thực thi các quyền ngôn luận, hội họp, lập hội để lên tiếng bảo vệ quyền của người dân còn
gặp khó khăn.
3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao trách nhiệm về quyền con người của doanh
nghiệp theo pháp luật Việt Nam
Theo Nguyên tắc hướng dẫn kinh doanh và quyền con người của Liên hợp quốc (UNGP),
“Cơ chế tư pháp hiệu quả là vấn đề cốt lõi nhằm đảm bảo cho việc tiếp cận các biện pháp khắc
phục. Năng lực xử lý các hành vi lạm dụng quyền con người liên quan đến kinh doanh phụ thuộc
vào tính khách quan, liêm chính và khả năng đảm bảo thực hiện quy trình xét xử cơng bằng” 17.
UNGP kêu gọi các quốc gia cần “tiến hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo tính hiệu quả của
cơ chế tư pháp trong nước khi giải quyết các hành vi lạm dụng quyền con người liên quan đến

kinh doanh, bao gồm cả việc xem xét giảm thiểu các rào cản pháp lý, rào cản thực tiễn và các rào
cản liên quan khác có thể gây trở ngại cho việc áp dụng các biện pháp khắc phục”18.
UNGP quy định thêm rằng: “Các quốc gia cần bảo đảm không tạo nên những rào cản ngăn
chặn việc khởi kiện hợp pháp tại tòa án khi việc xét xử là cần thiết để tiếp cận các biện pháp khắc
phục, hoặc khi khơng cịn cách khắc phục nào thay thế hiệu quả hơn. Các quốc gia cũng phải đảm
bảo cơng lý sẽ khơng bị bóp méo do tham nhũng xảy ra trong q trình xét xử, và tịa án sẽ độc
lập, không bị áp lực về kinh tế, chính trị từ các cơ quan nhà nước và các chủ thể kinh doanh khác”.
Từ những cam kết quốc tế và thực tế nêu trên, việc giải quyết trách nhiệm pháp lý của doanh
nghiệp ở Việt Nam đối với vi phạm về quyền con người cần giải quyết những vướng mắc như sau:
Thứ nhất, cần sớm thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia (NHRI) tuân thủ nguyên tắc
Paris , phù hợp với các khuyến nghị tương ứng của CESCR20;
19

17

Nguyên tắc 26
Nt
19
OHCHR, “Các nguyên tắc liên quan đến vị thế của các Thiết chế quốc gia (Các nguyên tắc paris)
20
Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của Liên hợp quốc
18

320


Thứ hai, thành lập cơ chế độc lập có nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại liên quan đến tổn
hại do hoạt động kinh doanh, phù hợp với các tiêu chí về cơ chế giải quyết khiếu nại phi tư
pháp hiệu quả của Nhà nước được nêu trong UNGP;
Thức ba, đảm bảo có các biện pháp khắc phục tư pháp hoặc biện pháp khắc phục hiệu

quả khác đối với các vi phạm về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa phù hợp với khuyến nghị của
CESCR.
Thứ tư, phát triển các chính sách và hoạt động để nâng cao nhận thức cho người dân về
các cơ chế và thủ tục hiện có về các biện pháp khắc phục, bao gồm cả các biện pháp khắc phục
liên quan đến hành vi lạm dụng quyền của doanh nghiệp, phù hợp với khuyến nghị của CESCR;
Thứ năm, lên án các hành vi đe dọa hoặc trả thù đối với các cá nhân phản ánh quyền của
họ bị vi phạm và có các biện pháp thích hợp đối với những người chịu trách nhiệm về các hành
động đó, phù hợp với khuyến nghị của CESCR;
Thứ sáu, cân nhắc trở thành quốc gia tuân thủ Hướng dẫn của OECD dành cho các doanh
nghiệp đa quốc gia và thành lập NCP để thực hiện Hướng dẫn này;
Thứ bảy, Thúc đẩy thành lập các cơ chế giải quyết khiếu nại tại doanh nghiệp đáp ứng các
tiêu chí về tính hiệu quả được nêu tại Nguyên tắc 31 của UNGP. Dựa trên kinh nghiệm thí điểm
nguyên tắc về cơ chế giải quyết khiếu nại hiệu quả của doanh nghiệp/các bên liên quan của đại
diện đặc biệt của Tổng thư ký Liên hợp quốc về kinh doanh và quyền con người, trong đó tập trung
vào bình đẳng giới và các biện pháp khắc phục các vi phạm hoặc lạm dụng quyền của phụ nữ.
4. KẾT LUẬN
Khu vực doanh nghiệp đã có những đóng góp quan trọng về thuế, cơ hội việc làm và cải
thiện đời sống cho đông đảo người dân. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nhanh không chỉ mang
đến cơ hội mà còn kèm theo những rủi ro về xã hội và mơi trường có ảnh hưởng rộng khắp đến
người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng và tài nguyên thiên nhiên quan trọng đối với sinh
kế của người dân. Nếu các doanh nghiệp được tự do theo đuổi lợi ích kinh tế mà khơng chịu sự
điều chỉnh của quy định và pháp luật, họ có thể bỏ qua các tiêu chuẩn về xã hội và môi trường.
Do đó, chìa khóa để cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của Việt Nam
chính là thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm, mà một trong những điều kiện để làm
tốt là hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với quyền con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn phòng cao ủy nhân quyền của Liên hợp quốc (OHCHR), Nguyên tắc hướng dẫn về kinh doanh
và quyền con người, (2011);
2. Human Right translate 2.0: A Business Reference Guige. OHCHR & Castan Centre for Human
Right Law, 2016;

3. Luật Doanh ngiệp 2020;
4. Luật lao động 2020;
5. Nguyễn Thanh Hải, Lã Khánh Tùng, Đinh Hồng Hạnh, Doanh nghiệp và quyền con người – Một số
vấn đề cơ bản, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2017;
6. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Đánh giá sơ bộ Khung pháp lý của Việt Nam về
thực hành kinh doanh có trách nhiệm, Hà Nội, tháng 10/2020.

321



×