Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Đánh giá sự hài lòng của người dân về chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp đô thị tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.72 KB, 11 trang )

ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI DÂN VỀ CHỦ TRƯƠNG
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ĐÔTHỊ TẠI THÀNH PHỐ
CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
Nguyễn Thị Văn Chương1
1. Email:

TÓM TẮT
Thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đã tiến hành phát triển nông nghiệp theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, tập trung phát triển các loại hình nơng nghiệp và dịch
vụ nông nghiệp đô thị. Đồng thời tiến hành tập huấn cho các hộ nông dân về chủ trương phát
triển nông nghiệp đô thị của thành phố. Nghiên cứu này đánh giá sự hài lòng của người dân
Thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp về chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp đô thị. Từ
những nghiên cứu trước và qua ý kiến các chuyên gia thì xác định được 10 nhân tố tham gia.
Kết quả nghiên cứu phản ánh chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị tại thành phố Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp đáp ứng được nguyện vọng từ một bộ phận người dân tham gia khảo sát.
Từ khóa: nơng nghiệp đơ thị, đo lường sự hài lịng, phát triển sản xuất nơng nghiệp
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thành phố Cao Lãnh (gọi tắt là Thành phố) là một trong bốn đô thị quan trọng vùng trung
tâm Đồng bằng sông Cửu Long và là đô thị trung tâm của tỉnh Đồng Tháp. Thành phố có vai
trị đầu tàu kinh tế là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật của tỉnh. Về lĩnh vực nông
nghiệp, Thành phố xác định phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả
sản xuất, tập trung phát triển các loại hình nơng nghiệp và dịch vụ nơng nghiệp đơ thị, đổi mới
và phát triển các loại hình sản xuất và dịch vụ tại khu vực nông thôn. Sản xuất nông nghiệp trên
địa bàn ngày càng tăng về chất lượng sản phẩm, giá trị sản xuất năm 2019 đạt 1.267 tỷ đồng,
tăng 394 tỷ so với cuối năm 2015 (873 tỷ đồng), tương đương 45,13%.
Bước vào thời kỳ công nghiệp 4.0, các thành tựu khoa học phát triển cùng áp dụng công
nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp vừa là cơ hội cũng là một thách thức lớn. Trước thực tế áp
lực đô thị hóa đang diễn ra dẫn đến các vùng sản xuất nông nghiệp manh mún, diện tích bị thu
hẹp dần, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nơng nghiệp. Để cụ thể hóa mục tiêu nói trên và góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đồng thời sắp xếp, cấu trúc lại không gian các vùng sản xuất
nông nghiệp tập trung, Thành phố đã có chủ trương lập đề án phát triển sản xuất nông nghiệp


theo hướng nông nghiệp đô thị, tăng cường ứng dụng khoa học – kỹ thuật để tạo nhiều sản
phẩm nơng nghiệp độc đáo, an tồn, có giá trị gia tăng cao phục vụ nhu cầu của Thành phố và
xuất khẩu, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang làm kinh tê nơng nghiệp. Do vậy việc đánh giá
sự hài lịng về chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp đô thị thành phố Cao Lãnh là cần
thiết và cấp bách.
65


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Sự hài lòng của người dân (khách hàng) lần đầu tiên được biết đến từ thập niên 70 của
Day và Hunt (1979). Đây là vấn đề cơ bản trong nhiều nghiên cứu khác nhau để khái quát hóa
vấn đề này như của Oliver (1980, 1981, 1999) cho rằng mơ hình kỳ vọng – cảm nhận là một
trong những cách tiếp cận thông dụng để hiều về sự hài lòng. Đây là trạng thái tâm lý mà khách
hàng cảm nhận khi những kỳ vọng của họ được thỏa mãn hoặc vượt sự mong đợi về sản phẩm
hay dịch vụ được cung cấp. Theo Brown (1992), sự hài lòng của khách hàng là một trạng thái
trong đó những gì khách hàng cần, muốn và mong đợi ở sản phẩm và gói dịch vụ được thỏa
mãn hay vượt quá sự thỏa mãn, kết quả là có sự mua hàng lập lại, lòng trung thành của khách
hàng với nhà cung cấp dịch vụ. Theo Kotlor (2011), sự thỏa mãn hay hài lòng của khách hàng
là mức độ của trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ
việc tiêu dùng sản phẩm/dịch vụ với những kỳ vọng của khách hàng. Mức độ hài lòng phụ thuộc
vào sự khác biệt kết quả thu được từ sản phẩm với những kỳ vọng.
Theo Quyết định 217-QĐTW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy
chế giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt nam và các tổ chức chính trị - xã hội. UBMTTQ
Việt Nam cùng các đồn thể chính trị - xã hội cần thực hiện đánh giá các chủ trương, chính
sách, dự án trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Qua đó kiến nghị,
đề xuất các giải pháp phù hợp, thiết thực để nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả
các chủ trương, chính sách khi được ban hành, đảm bảo sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp
nhân dân. Thơng qua hoạt động giám sát của Mặt trận TQVN và các đồn thể chính trị - xã hội
giúp cho Chính phủ, chính quyền và ngành chức năng các cấp điều chỉnh các nội dung và chính
sách trong xây dựng nơng thơn, hỗ trợ nông dân phù hợp hơn và được nhân dân đồng tình ủng

hộ. Đồng thời, tạo thêm kênh thơng tin tiếp nhận các phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân
liên quan đến tinh thần trách nhiệm, thái độ giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức
trong q trình giải quyết cơng việc cho tổ chức, cá nhân. Sự đổi mới về phương pháp, phong
cách; phát huy vai trò lãnh đạo với những nhiệm vụ trọng tâm, các mục tiêu, giải pháp phù hợp
bảo đảm phân công rõ thời gian, rõ việc, rõ trách nhiệm trong phối hợp giải quyết những vấn
đề dân sinh, chăm lo đời sống nhân dân. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả
những bức xúc chính đáng, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Những kết quả đó đã góp phần củng
cố lòng tin của nhân dân; phát huy tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo trong nhân dân đối với
sự phát triển của các địa phương trong thời kỳ mới.
Lý thuyết phát triển nông nghiệp đô thị: Nông nghiệp đô thị được hiểu là sự kết hợp giữa
nông nghiệp đô thị và nông nghiệp. Nông nghiệp đô thị là nền nông nghiệp sản xuất các nông
sản hàng hóa dựa vào các vùng đất và mặt nước nằm xen kẽ, rải rác trong các khu đô thị và
trong các vùng ngoại ô của đô thị. Nông nghiệp sinh thái là nền nông nghiệp dựa trên phương
thức sản xuất giảm sử dụng các hóa chất, tăng ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch và công
nghệ sinh học để nâng cao năng suất, độ an toàn của sản phẩm và sự bền vững về môi trường
sinh thái. Nông nghiệp đô thị là nền nơng nghiệp kết hợp hài hịa giữa nền nông nghiệp đô thị
và nền nông nghiệp sinh thái. J.H.Von Thunen (1826) trong “The Isolated State with Respect
to Agriculture and Political Economy” (Nông nghiệp và kinh tế chính trị trong nhà nước cô
lập); tác giả Nugent (2000) với “The Impact of Urban Agriculture on the Household and Local
Economies” (Ảnh hưởng của nông nghiệp đô thị đối với các hộ gia đình và các nền kinh tế địa
66


phương); FAO (2007) trong nghiên cứu “Profitability and sustainability of urban and peri-urban
agriculture” (Lợi nhuận và tính bền vững của nông nghiệp đô thị và ven đô); tác giả Nguyễn
Đăng Nghĩa và Mai Thành Phụng (2011) trong “Nông nghiệp đô thị và ven đô thị”; tác giả Hồ
Cao Việt (2013) trong “Cơ sở khoa học của các hình thái phát triển nông nghiệp đô thị và vận
dụng cho Đồng bằng sông Cửu Long” (Bùi Thanh Tuấn, 2018).
Lý thuyết phát triển nông nghiệp bền vững: Giữa phát triển nông nghiệp với môi trường

tự nhiên, sự nghèo đói và môi trường nhân văn ở nông thôn, nhất là nông thôn ngoại thành của
các thành phố có mối quan hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau. Nguyên nhân của mất cân
bằng sinh thái không phải do phát triển nông nghiệp mà là do phương thức thực hiện của còn
người gây ra. Cả phương thức quảng canh và phương thức thâm canh thiếu khoa học đều dẫn
đến suy thái môi trường và giảm sản lượng nông nghiệp trong dài hạn, trong khi dân số liên tục
tăng, hệ quả là thất nghiệp và nghèo đói trong nông thôn xuất hiện. Nghiên cứu vấn đề này có
các tác giả: J.H.Von Thunen (1826); các tác giả như Sinclair (1967), Boal (1970), Bryant (1973)
trong những nghiên cứu của mình đã cho thấy, một điểm chung của nông nghiệp ngoại thành
(hay nông nghiệp đô thị) thường phát triển thành các vành đai xanh bao quanh các thành phố.
Tác giả Hồ Cao Việt (2013; tác giả Trần Quốc Việt (2014) trong “Các hình thức tổ chức lãnh
thổ nơng nghiệp đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh - Phân tích từ góc độ địa lí kinh tế và sinh
thái” cũng đã xác định, cơ sở để hình thành vành đai nông nghiệp của các thành phố, trong đó
có Thành phố Hồ Chí Minh. (Bùi Thanh Tuấn, 2018).
Từ các lý thuyết về phát triển nông nghiệp đô thị bền vững đồng thời phải đánh giá được
sự hài lòng của người dân về các chủ trương phát triển trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp phải
căn cứ vào (1) bối cảnh cụ thể của địa phương; (2) sự đồng tình của các các cấp quản lý, các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức cộng đồng, các cá thể kinh doanh, các đơn vị tài trợ; (3) công
tác quản trị như sách lược có phù hợp với địa phương, chính sách đề ra có phù hợp với chính
sách đất đai; (4) tính đa ngành đó là các chính sách đề ra có thúc đẩy thủ cơng nghiệp, cơng
nghiệp gia đình, dịch vụ du lịch của địa phương; (5) cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất có được thúc
đẩy đâu tư, có tiếp cận thúc đẩy công nghệ thông tin; (6) các chính sách có thúc đẩy việc liên
kết giữa đô thị với nông thôn, có khai thác tốt vấn đề di dân trong và ngoài tỉnh, có sự phân chia
rõ ràng và hợp lý giữa nông nghiệp đô thị và nông nghiệp nông thôn; (7) chính sách có cung
cấp hoạt động giáo dục cho chương trình phát triển nơng nghiệp đô thị, đảm bảo điều kiện chăm
sóc sức khỏe cơ bản đối với người tham gia trong chương trình phát triển nông nghiệp đô thị,
có xây dựng vốn xã hội để phát triển nông nghiệp đô thị, có thúc đẩy phát triển cộng đồng thông
qua phát triển nông nghiệp đô thị; (8) Các chính sách đề ra đưa vấn đề về giới vào chương trình
phát triển nơng nghiệp đơ thị tại địa phương hay không; (9) Các chính sách đề ra giải quyết vấn
đề về gia tăng dân số thơng qua chương trình phát triển nơng nghiệp đơ thị; (10) đảm bảo tính
bền vững môi trường thông qua chương trình phát triển nơng nghiệp đơ thị và khả năng phục

hồi mơi trường thơng qua chương trình phát triển nơng nghiệp đô thị.
3. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Phát triển sản xuất nông nghiệp thành phố Cao Lãnh theo hướng nông nghiệp đơ thị với trọng
tâm bố trí sản xuất các sản phẩm nơng nghiệp chủ lực, có thế mạnh và lợi thế phát triển của từng
tiểu vùng sinh thái nông nghiệp; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung có khả năng
ứng dụng cơng nghệ cao, cơng nghệ sinh học để kêu gọi đầu tư, tiến tới trở thành là trung tâm sản
67


xuất sản phẩm nông nghiệp đô thị, giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất, chất lượng, giá trị
gia tăng cao, an tồn, bảo vệ mơi trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường; đồng thời gắn với
phát triển du lịch sinh thái mang đặc trưng thành phố. Đưa Cao Lãnh trở thành Thành phố có nền
nơng nghiệp đơ thị hiện đại, an tồn là điểm đến lý tưởng cho mọi người. Chủ trương này nhằm
thực hiện 27 văn bản của các cơ quan Trung ương; 43 văn bản của tỉnh Đồng Tháp đã ban hành và
đang có hiệu lực thi hành về lĩnh vực nghiên cứu (Hồng Mạnh Dũng và nnk., 2020).
Theo Tổ chức Nơng lương Liên Hợp Quốc, hơn ba tỷ người trên thế giới hiện đang sinh sống
ở các vùng nông thôn tại các nước đang phát triển, chiếm phần lớn người nghèo của thế giới. Cuộc
sống của họ gặp rất nhiều khó khăn do thiếu việc làm, chất lượng giáo dục và cơ sở hạ tầng yếu kém,
cơ hội tiếp cận thị trường và các dịch vụ bị hạn chế. Nông thôn ở các khu vực kém phát triển trên thế
giới ngày nay đối mặt với những thách thức và cơ hội mới mà trước đây các nước phát triển chưa
từng gặp phải. Những thách thức mới gồm môi trường quốc tế đầy phức tạp và mang tính cạnh tranh
cao, dân số nơng thôn phát triển nhanh, áp lực trước những thách thức do ảnh hưởng của nguồn tài
nguyên môi trường đang cạn kiệt và tác động xấu của biến đổi khí hậu. Vì thế, chiến lược phát triển
nơng thơn hiệu quả là hết sức cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững cũng như
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tồn diện và bền vững. (Cục Thơng tin KH&CN quốc gia, 2016).

Hình 1: Mơ hình phát triển nơng nghiệp mới cho các nước phát triển
(Cục Thông tin KH&CN quốc gia, 2016)
68



Mơ hình phát triển nơng nghiệp mới đối với các nước đang phát triển trong thế kỷ 21 nhấn
mạnh sự cần thiết của chiến lược trong bối cảnh cụ thể và nhằm mục đích tối đa hóa sửa đổi và bổ
sung chính sách. Chiến lược phải mang tính đa ngành, tập trung khơng chỉ vào ngành nơng nghiệp
mà cịn ngành công nghiệp nông thôn và dịch vụ, không chỉ khu vực nông thôn mà cả mối liên kết
nông thôn - thành thị. Chiến lược phải mang tính đa tác nhân và đa cấp, liên quan đến quy mô không
chỉ trong quốc gia mà cịn tại chính quyền địa phương và khu vực cũng như tư nhân, các nhà tài trợ
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các cộng đồng nơng thơn. Những chiến lược này giải thích
cho những thách thức về nhân khẩu học, mang đến cho phụ nữ quyền và vai trò quan trọng hơn
trong các quyết định kinh tế và trở nên toàn diện và bền vững. Sau cùng, việc tăng cường năng lực
quản trị là rất cần thiết cho việc phát triển và thực hiện chiến lược. Bài viết chọn mơ hình phát triển
nơng nghiệp mới cho các nước phát triển của FAO để đo lường sự hài lòng về chủ trương phát triển
sản xuất nông nghiệp đô thị tại thành phố Cao Lãnh trước khi bắt tay vào triển khai thực hiện.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp nghiên cứu định tính:
Bài viết thu thập tài liệu chính thức, các báo cáo khoa học, luận án tiến sĩ, thông tin trên
các phương tiện thông tin đại chúng có liên quan đến chủ điểm nghiên cứu. Nghiên cứu định
tính xác lập mơ hình nghiên cứu đề xuất làm cơ sở cho tổ chức nghiên cứu và báo cáo kết quả.
Sau q trình tổng hợp thơng tin thứ cấp, bài viết chọn thang đo về mô hình phát triển nơng
thơn mới cho các nước phát triển của FAO sử dụng nhằm đo lường sự hài lòng về chủ trương
phát triển nông nghiệp đô thị tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. - Phương pháp kế thừa
các nghiên cứu đã có nhằm chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã có; các tài liệu thứ cấp có giá
trị về mặt khoa học và thực tiễn có liên quan đến phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn
trên địa bàn thành phố Cao Lãnh.
4.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Tập trung thu thập dữ liệu sơ cấp và giải quyết quan hệ trong lý thuyết cũng như nghiên cứu
theo quan điểm diễn dịch. Do nghiên cứu đề cập đến các tiêu chí phát triển nơng thơn mới nên
người tham gia khảo sát phải am hiểu về lĩnh vực này là tại địa điểm nghiên cứu. Từ đó, mức độ
chính xác và mức độ tin cậy mới hàm chứa giá trị khoa học. Ngồi ra, bài viết cịn sử dụng phương
pháp cắt ngang và phương pháp đối chuẩn để bàn luận về chủ đề nghiên cứu. Phương pháp đánh

giá nơng thơn có sự tham gia của cộng đồng với dữ liệu sơ cấp được tổng hợp bằng phần mềm
Excel 2010.Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu phi xác suất theo đánh giá chủ
quan kết hợp sự thuận tiện trong điều tra. Phương pháp định lượng thông qua khảo sát điều tra
thực hiện vào tháng 6 đến tháng 9/2020. Cỡ mẫu khảo sát là 60 phiếu với phân bổ mẫu khảo sát
gồm 30 phiếu cho 8 phường:1, 2, 3, 4, 6, 11, Mỹ Phú, Hòa Thuận thuộc khu vực nội thành; 30
phiếu 7 xã: Hòa An, Mỹ Ngãi, Mỹ Tân, Mỹ Trà, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tịnh Thới
thuộc khu vực ngoại thành. Thành phần vấn viên là những hộ nông dân đã được tập huấn về chủ
trương phát triển nông nghiệp đô thị tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Kết quả phiếu thu
về và đủ điều kiện để phân tích dữ liệu là 50 phiếu (Hoàng Mạnh Dũng và nnk., 2020).
4.3 Xử lý và phân tích dữ liệu
Trên cơ sở thu thập thông tin từ phiếu khảo sát, số phiếu hợp lệ được tiến hành mã hóa
và làm sạch. Sau đó nhập vào phần mềm SPSS 20.0 để xử lý thống kê, tính tốn các yếu tố và
69


chỉ số thành phần. Phân tích các dữ liệu thống kê về tính giá trị trung bình, min, max, độ xiên,
độ nhọn bằng phần mềm SPSS 20.0. Ngoài ra, nghiên cứu tiến hành tính giá trị trung bình theo
LAT […] như sau:

Trong đó: xi là mức thành quả thực tế được đánh giá tại tổ chức.
a là giá trị tốt nhất; b là giá trị xấu nhất. (Fatma Pakdil and Karen Moustafa Leonard, 2014).
5. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nhìn chung, kết quả về sự hài lòng đối với chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị tại
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đạt được sự đồng thuận rất cao là 85,43%. Đây là điểm
nhấn quan trọng làm nền tảng cho hướng đi đúng đắn của chính quyến các cấp tại Thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Đạt được sự đồng thuận của người dân về chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị tại
thành phố Cao Lãnh là yếu tố thuận lợi vô cùng quan trọng. Tuy nhiên để biến chủ trương thành
hiện thực cần tổ chức triển khai thực hiện các hàm ý chính sách như sau:
Về bối cảnh: Hiện nay, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một ngành sản xuất vật chất quan

trọng của nền kinh tế, cung cấp trực tiếp lương thực, thực phẩm cho người dân; cung cấp, sử
dụng một số yếu tố đầu vào - đầu ra cho ngành công nghiệp, dịch vụ. Trong đó, nông nghiệp
đô thị được sản xuất dựa trên không gian tại nội và ngoại thành, có sự kết nối chặt chẽ với hệ
thống kinh tế - xã hội và sinh thái đô thị. Do vậy, làm sáng rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn
trong phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng bền vững là yêu cầu khách quan, thật sự cần
thiết nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội và môi trường của Thành phố phát triển trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế. Các nội dung cần nghiên cứu
bao gồm: Sự tăng trưởng của nông nghiệp đô thị; (2) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị
theo hướng bền vững; (3) Nâng cao hiệu quả sản xuất ngành nông nghiệp đô thị. Trên cơ sở đó,
xác định những định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đô thị
tại Thành phố Cao Lãnh trong thời gian tới. (Bùi Thanh Tuấn, 2018)
Về tiêu chí quản trị: Xây dựng một chiến lược dài hạn về chủ trương phát triển nông nghiệp
đô thị tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Tầm nhìn của chiến lược này cần hướng đến năm
2050. Trên cơ sở xây dựng chiến lược từng giai đoạn với hệ thống mục tiêu vừa sức để hoàn
thành một chặng đường phát nhằm phát huy đầy đủ năng lực quản trị tổng thể ở tất cả các cấp.
Chính quyền địa phương cần bố trí nguồn lực và cơ chế cho việc tổ chức lấy kiến về sự
hài lòng của người dân đối với kết quả xây dựng nông nghiệp mới. Thực tế hiện nay, ở một số
địa phương còn gặp khó khăn về kinh phí tổ chức thực hiện việc lấy ý kiến của nhân dân về xây
dựng nông nghiệp mới, mặc dù nội dung này đã được quy định rõ trong Quyết định 2540/QĐTTg ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công
nhận và công bố địa phương đạt chuẩn nông thơn mới; địa phương hồn thành nhiệm vụ xây
dựng nơng thôn mới Giai đoạn 2016 - 2020 của Thủ tướng Chính phủ, tuy nhiên chưa được quy
70


định cụ thể trong các Thông tư hướng dẫn sử dụng kinh phí về thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới hoặc các văn bản hướng dẫn để các địa phương áp dụng trong
quá trình triển khai thực hiện.
Về tiêu chí đa ngành: Nơng nghiệp luôn là ngành cơ bản ở các nước đang phát triển và
cũng cần thúc đẩy các hoạt động phi nông nghiệp và tạo việc làm trong các ngành công nghiệp
và dịch vụ. Thách thức quản trị và phát triển kinh tế - xã hội liên quan chặt chẽ tới nhau, đặc

biệt là ở các nước đang phát triển. Phát triển chỉ có thể diễn ra nếu một địa phương có các thể
chế hiệu quả. Nếu các cơ quan hành chính cấp địa phương, khu vực hoặc quốc gia khơng có
khả năng phối hợp và triển khai hiệu quả các nhiệm vụ được giao, đây sẽ là trở ngại cho tăng
trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, chống tham nhũng, cải thiện đầu ra xã hội và giải quyết tất
cả các vấn đề khác mà các nước đang phát triển phải đối mặt. Thách thức quản trị bao gồm việc
thành lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cấp chính quyền, dân chủ, kiểm soát tham nhũng,
trao quyền cho địa phương và xây dựng năng lực. Những cải tiến trong các lĩnh vực này vô
cùng quan trọng, đặc biệt đối với việc thu hẹp khoảng cách nông thôn - thành thị. Khu vực nông
thôn thường bị tụt hậu so với các vùng khác do sự bất lực của chính quyền trong kiểm soát và
quản lý các nguồn lực địa phương một cách hiệu quả. Sự phát triển của ngành công nghiệp và
dịch vụ phi nơng nghiệp ở nơng thơn có thể làm chậm lại sự di cư nông thôn-thành thị, từ đó
giảm bớt áp lực môi trường ở các thành phố lớn, đem lại thu nhập đồng đều hơn. Trên khắp các
nước đang phát triển, phần lớn các hộ gia đình nơng thơn đã dựa vào các nguồn phi nơng nghiệp,
chiếm ít nhất một phần thu nhập và thời gian của họ.

11 Sự hài lịng

10 Tính bền vững

1 Bối cảnh
0.8800
0.8700
0.8600
0.8500
0.8400
0.8300
0.8200
0.8100
0.8000
0.7900


2 Tính đa cấp và đa
tác nhân

3 Quản trị

Series1

9 Nhân khẩu học

4 Đa ngành

5 Cơ sở hạ tầng

8 Giới tính
7 Tính bao qt

6 Liên kết đơ thị và
nơng thơn

Hình 2: Kết quả về sự hài lòng đối với chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị
tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
71


Về tiêu chí cơ sở hạ tầng: Cải thiện cơ sở hạ tầng cả cứng và mềm để giảm chi phí giao
dịch và tăng cường mối liên kết nơng nghiệp đô thị là một phần quan trọng của mọi chiến lược
ở các nước đang phát triển. Điều này bao gồm những cải thiện trong kết nối xuyên suốt khu vực
nông thôn và thành phố thứ cấp, cũng như trong việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế. Các
nghiên cứu cho thấy rằng những nước phát triển tốt đã có những tiến bộ đáng kể trong thu hẹp

khoảng cách nông thôn-đô thị về cơ sở hạ tầng cứng và mềm. Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm các
dịch vụ công cơ bản như nước, vệ sinh môi trường, năng lượng, điện, giao thông (đường bộ,
đường sắt, cầu cống, sân bay, bến cảng,...) và công nghệ thông tin truyền thông. Cơ sở hạ tầng
mềm gồm các tổ chức con người để duy trì các tiêu chuẩn xã hội và kinh tế cốt lõi trong một
quốc gia, chẳng hạn như y tế, giáo dục, vốn xã hội, và các hệ thống tài chính, quy định, luật
pháp và chính trị. Cơ sở hạ tầng cứng và mềm cùng nhau tạo thành nền tảng cho sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Cơ sở hạ tầng bền vững và phân phối đồng đều làm tăng năng suất bằng
cách giúp các hộ gia đình tiết kiệm thời gian và năng lượng vào việc sở hữu các dịch vụ thiết
yếu cơ bản và cải thiện nguồn nhân lực thông qua y tế và giáo dục. Việc cung cấp các dịch vụ
cơ bản thường có lợi cho phụ nữ, giúp họ giảm bớt các công việc như kiếm nước hay nhiên liệu,
thay vào đó họ sẽ có thể theo đuổi các hoạt động tạo ra thu nhập. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng
tạo ra các việc làm phi nông nghiệp cho người dân nông thôn, tạo ra nhu cầu cho đầu vào và
sản phẩm trung gian, thúc đẩy nhu cầu về lao động trong các lĩnh vực này, và thúc đẩy tăng
trưởng theo vơ số cách (ví dụ, tạo điều kiện cho việc tiếp thị và bán các mặt hàng nông nghiệp,
cho phép các nhà máy mở rộng sản xuất với nguồn cung năng lượng đáng tin cậy).
Về tiêu chí liên kết đơ thị-nông thôn. Sinh kế nông nghiệp phụ thuộc vào hoạt động của
các trung tâm đô thị tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ và cơng nghệ mới; tiếp xúc với những ý
tưởng mới; và việc làm tạm thời hoặc thậm chí cơng việc lâu dài. Các chiến lược phát triển
nơng nghiệp thành công không đối xử với khu vực nông thôn như là các thực thể cô lập, mà là
một phần của một hệ thống gồm cả các khu vực nông thôn và thành thị. Việc tồn tại “sự chênh
lệch nông thôn” giữa các nước phát triển và đang phát triển khơng thể coi như một lời giải thích
cho trình độ phát triển kinh tế khác nhau ở hai vùng: nơng thơn khơng đồng nghĩa với lạc hậu.
Nhiều nước có thu nhập cao có những vùng nơng thơn rộng lớn, chẳng hạn như Đan Mạch, tuy
nhiên vai trò của những vùng nơng thơn này lại rất khác với vai trị tiêu chuẩn của vùng nông
thôn ở các nước đang phát triển. Vấn đề ở đây là loại hình hoạt động kinh tế đang được thực
hiện, cùng với mức năng suất, giá trị gia tăng tạo ra, cung cấp các dịch vụ công, cơ hội việc
làm, và khả năng phát triển kết nối nông thôn- thành thị. Ở vùng nông thôn ở các nước phát
triển, nông nghiệp có năng suất cao hơn rất nhiều và không nhất thiết là nguồn thu nhập chủ
yếu, thay vào đó, kinh tế địa phương có xu hướng hỗ trợ các hoạt động giá trị gia tăng cao hơn
và được đặc trưng hóa bởi các quá trình kinh tế - xã hội phức tạp hơn. Mặt khác, ở vùng nông

thôn ở các nước đang phát triển, các hoạt động kinh tế sơ cấp lại là nguồn tạo việc làm cơ bản,
công nghệ hiện đại hạn chế, thiếu cơ sở hạ tầng, vốn con người thấp.
Về tiêu chí tính tồn diện: Chính sách của Chính quyền địa phương cần nhắm mục tiêu
rõ ràng vào giảm nghèo và bất bình đẳng ở nhiều phương diện (y tế và dinh dưỡng, giáo dục,
cơ sở hạ tầng cứng và mềm, tạo việc làm) và tránh việc loại trừ các nhóm nhất định. Các Mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), được đưa ra bởi Liên Hợp Quốc và các tổ chức phát triển
quốc tế lớn trong năm 2050 giải quyết những vấn đề phát triển xã hội bức xúc nhất tồn tại ở các
nước đang phát triển, đồng thời huy động hỡ trợ phát triển nước ngồi từ các nước phát triển.
72


MDG đã được cộng đồng phát triển quốc tế ủng hộ rộng rãi. Các mục tiêu giảm nghèo cụ thể,
bao gồm các chủ đề phát triển xã hội và tính đa chiều định hướng nỡ lực tồn cầu để đáp ứng
tám mục tiêu phát triển đến năm 2015. Ngày 25 tháng 9 năm 2015, Hội nghị thượng đỉnh LHQ
về PTBV đã thông qua văn kiện “Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030
vì sự PTBV” với 17 mục tiêu và 169 chỉ tiêu về PTBV toàn cầu (SDGs). Trong số các SDGs
đặt ra đến năm 2030, có đến 05 mục tiêu liên quan trực tiếp đến vấn đề tài nguyên, môi trường
và BĐKH: (i) Đảm bảo việc tiếp cận nước sạch và cải thiện điều kiện vệ sinh cho tất cả mọi
người (SDG 6); (ii) Đảm bảo mơ hình sản xuất và tiêu dùng bền vững (SDG 12); (iii) Ứng phó
với BĐKH và các tác động (SDG 13); (iv) Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và các
nguồn tài nguyên biển (SDG 14); (v) Quản lý tài nguyên rừng bền vững, chống sa mạc hóa,
chống xói mịn đất, mất đa dạng sinh học (SDG 15). Việt Nam cũng đã ban hành Kế hoạch
hành động quốc gia vì sự PTBV đến 2030, với 17 mục tiêu (VSDGs) đến 2030, được cụ thể
hóa băng 115 chỉ tiêu cụ thể (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2019).
Về tiêu chí giới tính: Cải thiện sinh kế nơng thơn cần tính đến vai trị quan trọng của phụ
nữ trong phát triển nông thôn, bao gồm cả quyền sở hữu của họ và khả năng kiểm soát và triển
khai các nguồn lực. Thu hẹp khoảng cách giới trong nông nghiệp đơ thị sẽ là một lợi ích quan
trọng đối với ngành nơng nghiệp. Phụ nữ có quyền tiếp cận các nguồn lực sản xuất bình đẳng
như nam giới sẽ làm tăng sản xuất nông nghiệp thêm 20-30%. Điều này có thể giúp nâng cao
sản lượng ngành nơng nghiệp ở các nước đang phát triển thêm 4%, và giảm khoảng 100-150

triệu người đói ăn (FAO, 2011). Thế nhưng khoảng cách này không chỉ tồn tại trong nông
nghiệp, với tỉ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động ở các nước đang phát triển đang thua kém
các nước phát triển. Ở các nước đang phát triển, nông thôn được coi là tình trạng mặc nhiên.
Tuy đã có sự đơ thị hóa lớn trong thập niên vừa qua, nhưng các nước đang phát triển vẫn chủ
yếu là nông nghiệp và nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở các khu vực này. Nông nghiệp sử
dụng phần lớn dân số ở độ tuổi lao động và cũng tạo ra tỉ lệ tổng giá trị gia tăng cao hơn so với
các nước phát triển. Sự trái ngược này hoàn toàn đúng của ngành dịch vụ, với các nước đang
phát triển tụt hậu so với nền kinh tế dựa trên dịch vụ và tri thức của những nước phát triển hơn.
Nhìn chung, sự tiếp cận khơng đầy đủ và thiếu bình đẳng với các dịch vụ giáo dục và y tế đang
góp phần tạo nên một vòng tròn luẩn quẩn cho cả phụ nữ và trẻ em: càng ít được tiếp cận với
giáo dục, đồng nghĩa với việc kiến thức càng hạn chế, làm cho khả năng lây truyền bệnh cao,
tỷ lệ tử vong ở trẻ cao, nguồn vốn nhân lực, năng suất lao động và thu nhập thấp đều thấp.
Về tiêu chí nhân khẩu học: Mức sinh cao và dân số già đi nhanh chóng là hai trong số những
thách thức liên quan nhất mà nông thôn ở các nước đang phát triển hiện nay đang phải đối mặt.
Mặc dù chúng có các tác động chính sách khác nhau, nhưng giải quyết những thách thức này sẽ
bao hàm sự điều phối tốt giữa các chính sách giáo dục, y tế và bảo trợ xã hội, cũng như kế hoạch
hóa gia đình. Trong những năm 1970, phát triển kinh tế khơng cịn đơn thuần là tăng trưởng kinh
tế mà còn là giải quyết đói nghèo và bất bình đẳng. Các lý thuyết phát triển đã bắt đầu tập trung
vào các tác động tiêu cực của sự can thiệp của các nước phát triển ở các nước đang phát triển,
đồng thời thúc đẩy sự tự chủ của các nước đang phát triển. Do những cách thức tiếp cận dựa trên
tăng trưởng trước đây đã thất bại trong việc xóa đói giảm nghèo, các cách tiếp cận phát triển nông
thôn tập trung trực tiếp vào việc đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân. Phương pháp tiếp cận
nhu cầu cơ bản cũng xuất hiện vào những năm 1970. Phương pháp này lần đầu tiên được Quốc
hội Mỹ giới thiệu vào năm 1973 khi cơ quan này chỉ đạo USAID xem xét nhu cầu cơ bản của
73


những người nghèo nhất ở các nước đang phát triển. Tiền đề cơ bản của phương pháp này là việc
giải quyết các nhu cầu cơ bản ở mức độ cao là khả thi ở những khu vực có mức thu nhập bình
qn đầu người tương đối thấp. Nó địi hỏi chính phủ phải can thiệp bằng cách chuyển hướng cả

sản xuất và tiêu thụ để xóa bỏ những thiếu thốn phát sinh từ việc thiếu hàng hóa và dịch vụ cơ
bản và tối đa hóa giá trị phúc lợi hiện tại, cũng như hướng đến nỗ lực của các cơ quan viện trợ
nước ngoài. Tuy nhiên, giống như cách tiếp cận phát triển nơng thơn tích hợp, mục tiêu q lớn
và vượt ra ngoài tầm với của năng lực kỹ thuật và hành chính hiện có. Việc đo đạc tính toán tác
động là một thử thách khác. Phương pháp nhu cầu cơ bản cũng không tạo ra thặng dư thực phẩm
chắc chắn và rất khó để hài hòa giữa huy động người dân địa phương và xây dựng các tổ chức có
khả năng huy động nguồn lực của địa phương để phát triển.
Về tiêu chí tính bền vững. Việc đưa tính bền vững môi trường vào các chiến lược phát
triển nông nghiệp đô thị không nên hạn chế ở sự phụ thuộc cao của người dân nông thôn vào
tài nguyên thiên nhiên cho sinh kế và tăng trưởng, mà còn tính dễ bị tổn thương của họ đối với
biến đổi khí hậu và các mối đe dọa từ khan hiếm năng lượng, lương thực và nước ngọt. Những
vấn đề môi trường và kinh tế xã hội trở nên quan trọng với sự xuất hiện của quá trình phát triển
bền vững (vào những năm 1990). Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới và Khn khổ phát triển tồn
diện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (CDF) và Văn bản Chiến lược Giảm nghèo (PRSP) thể hiện
những nỗ lực để xây dựng một lý thuyết phát triển toàn diện nhằm giải quyết tất cả các vấn đề
liên quan đến xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế. CDF và PRSP có tính chất dựa vào
quốc gia, định hướng kết quả, toàn diện và dài hạn. Chúng bao gồm một loạt các yếu tố từ kinh
tế, xã hội, con người đến môi trường và quản trị. PRSP là một tài liệu hoạt động dựa trên CDF
và được thiết kế cho mỗi quốc gia, dựa trên bối cảnh và nhu cầu cụ thể của từng quốc gia. Q
trình phát triển nơng thơn thường được gộp thành vấn đề chủ đề xuyên suốt. Cách tiếp cận Phát
triển dựa vào cộng đồng (CBD) là một phần quan trọng trong Khn khổ phát triển tồn diện,
cho phép các cộng đồng có thể kiểm sốt trực tiếp các quyết định dự án trọng điểm, bao gồm
quản lý và sử dụng quỹ. Đây là một biến thể mới của phương pháp tiếp cận CBD với mục tiêu
tăng cường tính bền vững, hiệu quả, quản trị, nhân rộng và toàn diện của những nỗ lực phát
triển trong khi bổ sung các hoạt động khu vực tư nhân và khu vực công. CBD lựa chọn các vấn
đề xã hội làm điểm mấu chốt để phát triển, tin rằng việc xây dựng nguồn lực con người và xã
hội có thể giải quyết vấn đề đói nghèo (Mansuri và Rao, 2004; Saraceno, 2014).
6. KẾT LUẬN
Đo lường sự hài lòng đối với chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị tại thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp là một trong những hình thức đóng góp vào cơ chế kiểm soát QLNN.

Qua đó tác động, định hướng các đối tượng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật. Đóng góp từ bên ngồi này khơng có tính cưỡng chế nhà nước mà kết quả được
thể hiện dưới dạng hàm ý chính sách thông qua dư luận xã hội gửi “thông điệp” đến chính quyền
địa phương hướng đến mục tiêu bảo đảm quản lý nhà nước được sử dụng đúng mục đích, đạt
hiệu quả, ngăn ngừa và hạn chế tình trạnh lạm quyền, tham nhũng QLNN. Một chủ trương đúng
đắn cần đạt được sự đồng thuận của người dân tại địa phương. Kết quả nghiên cứu phản ánh
chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đáp ứng được
nguyện vọng từ một bộ phận người dân tham gia khảo sát.
74


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fatma Pakdil and Karen Moustafa Leonard (2014). Criteria for a lean organisation: development of
a lean assessment tool. International Journal of Production Research Taylor & Francis, Vol 52. No.
15, 4587-4607
2. Bộ Chính trị (2013). Quyết định 217-QĐTW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành
Quy chế giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt nam và các tổ chức chính trị - xã hội, Hà Nội.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019). Các mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) và mục tiêu PTBV đến
2030 (SDGs). Truy xuất ngày từ />4. Bùi Thanh Tuấn (2018). Phát triển nông nghiệp ở các huyện ngoại thành tại Hà Nội (Luận án tiến
sĩ). Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hà Nội
5. Cục Thơng tin KH&CN quốc gia (2016). Mơ hình phát triển nơng thơn mới trong thế kỷ 21 - Công
cụ cho các nước đang phát triển. Truy xuất ngày 25/8/2019 từ />6. Hoàng Mạnh Dũng và Lê Thanh Huy (2020). Xác lập mô hình nơng nghiệp đơ thị tại Thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Tạp chí Công thương, số 6 - Tháng 4/2020. Hà Nội
7. Hoàng Mạnh Dũng và Lê Thanh Huy (2020). 50 phiếu khảo sát về phát triển nông nghiệp đô thị tại
Thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp
8. Thủ tướng Chính phủ (2018). Nghị quyết số 122/NQ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối
(2016-2020) của tỉnh Đồng Tháp.
9. Ủy ban nhân dân thành phố Cao lãnh (2019). Quyết định số 248/QĐ-UBND ngày 15 tháng 7 năm
2019 của Ủy ban nhân dân thành phố Cao Lãnh về phê duyệt khái toán chi phí xây dựng Đề án phát

triển sản xuất nông nghiệp đô thị thành phố Cao Lãnh đến năm 2030.

75



×