Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Con người hiện sinh trong tác phẩm Tuần trăng mật màu xanh của Nguyễn Thị Hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.95 KB, 13 trang )

CON NGƯỜI HIỆN SINH TRONG TÁC PHẨM
TUẦN TRĂNG MẬT MÀU XANH CỦA NGUYỄN THỊ HOÀNG
Nguyễn Thị Diễm Quyên1
1. Lớp CH20VH02. Email liên hệ:
TÓM TẮT
Văn học hiện sinh để lại dấu ấn trong tiếng nói tha thiết về thân phận cũng như nỗ lực,
khát vọng của con người trong thời đại khủng hoảng. Nhà văn theo chủ nghĩa hiện sinh thấy
rằng những trăn trở khám phá về thân phận và đời sống con người dường như chưa bao giờ
ngừng nhức nhối. Chủ nghĩa hiện sinh đến với văn học Việt Nam những năm 50, 60 như một
cơ duyên từ chính trị, xã hội, mà nơi khởi nguồn là nền văn học đơ thị miền Nam. Nó đem lại
cho văn học miền Nam một diện mạo mới. Những phạm trù hiện sinh truyền thống đến từ châu
Âu dần được đón nhận, thâm nhập vào mọi ngóc ngách, thay đổi quan niệm nghệ thuật về con
người cô đơn trong một thế giới phi lý. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh dẫn đến những phản
ứng “nổi loạn” (rebel) tận hưởng cuộc sống nhưng gợi lên những những suy tư, trăn trở về
thân phận con người, ý thức trách nhiệm nhập cuộc vì tha nhân. Họ thay nhau cất lên những
tiếng thở dài chán ngán, họ né tránh, hay nói cách khác là “sống qua ngày” ất ơ. Tuần trăng
mật màu xanh của Nguyễn Thị Hoàng là tiếng thở dài của các nhân vật, họ hiện lên sự chán
chường, cô đơn với những bước đi xiêu vẹo, vô định và ám ảnh về cái chết với một nỗi bất an
thường trực. Để vượt qua được những bi kịch tinh thần này, con người chỉ có thể sống và chấp
thuận nhận lấy thái độ phản kháng. Trong bối cảnh xã hội tàn khốc, tất cả mọi thứ đều có thể
được định sẵn, từ số phận đến tâm hồn con người. Chính trong q trình phản kháng, những
phẩm tính hiện sinh được thể hiện rõ, cũng tức là danh dự và giá trị làm người.
Từ khóa: con người hiện sinh, chủ nghĩa hiện sinh, văn học hiện sinh, Tuần trăng mật
màu xanh, Nguyễn Thị Hoàng
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trực tiếp từ trào lưu tiêu biểu của triết học nhân sinh là hiện
tượng học của Edmund Husserl. Sau đó, chủ nghĩa hiện sinh trở thành trào lưu văn hóa lớn của
phương Tây và nhân loại thế kỷ XX, nó có tác động đến nhiều lĩnh vực ở nhiều quốc gia. Chủ
nghĩa này xuất hiện trong bối cảnh khủng hoảng và đổ vỡ, những quan điểm có ý nghĩa nhân văn
của chủ nghĩa hiện sinh gây chấn động. Đối tượng chung của nó về thân phận con người đã dẫn
trào lưu triết học này xâm nhập vào nền văn học, hình thành nên văn học hiện sinh ở châu Âu


(trước hết là ở Pháp). Những năm 50, 60 của thế kỷ XX chủ nghĩa hiện sinh bắt đầu xuất hiện ở
miền Nam Việt Nam, khơng rầm rộ nhưng đã nhanh chóng để lại những “dư chấn” trong xã hội
đương thời. Nhiều nhà văn đã tìm đến chủ nghĩa này tạo nên một nền văn học hiện sinh tập trung
vào những phạm trù cơ bản của triết học hiện sinh như vong thân, tha hóa, buồn nơn, phi lý, dấn
thân, nổi loạn, cơ đơn, hư vơ. Trong số những nhà văn đó, phải nhắc đến Nguyễn Thị Hoàng với
465


những tiểu thuyết vượt bật. Các tác phẩm của bà nói về số phận con người lao đao, cơ đơn và lạc
lõng giữa nền văn hóa xã hội những năm 50, 60. Ở đó các nhân vật tự tự tìm đến tự do của mình,
một tự do nghịch lối với các chuẩn mực xã hội.
Những tác phẩm của bà trong thời kỳ văn học miền Nam 1954 – 1975 bị lên án và chịu
cái nhìn gay gắt từ giới phê bình. Những năm gần đây, với lĩnh vực nghiên cứu – phê bình, sự
trở lại của văn học đơ thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 cũng thoi thúc độc giả tìm lại những
áng văn của Nguyễn Thị Hồng. Có thể thấy độ lùi thời gian đã khiến những rào cản tâm thế
và những cách ngăn của quá khứ với hiện tại dần được dỡ bỏ. Do đó, nghiên cứu về các tác
phẩm của nữ nhà văn vẫn còn rất ít. Trong các tiểu thuyết được xuất bản, Tuần trăng mật màu
xanh đưa độc giả đến với những cảm xúc đau đáu, chênh vênh với số phận con người trong thời
kỳ chiến tranh loạn lạc. Tình yêu, tình dục là cách để họ tìm đến nhau, thốt khỏi sự trơ trội,
chòng chành của những biến thiên xã hội. Họ tìm đến nhau và cùng trốn chạy, đây cũng là cách
phản kháng rất cá nhân, rất “hiện sinh” trong giai đoạn đương thời.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Trong qua trình triển khai, nghiên cứu tôi sử dụng phương
pháp cấu trúc – hệ thống nhằm làm rõ vai trò trong việc mơ hình hóa và hệ thống hóa các quan
điểm về hiện sinh. Bên cạnh đó, bài viết đặt tiểu thuyết như một chỉnh thể thống nhất trong diện
mạo chung của văn học Việt Nam thời kì 1954 - 1975. Đồng thời, khi tiếp cận từng tiểu thuyết cụ
thể, người viết cũng quan tâm đến tính chỉnh thể trong cấu trúc của nó. Phương pháp này cũng hỗ
trợ trong việc triển khai các bình diện nghiên cứu của luận án một cách logic và chặt chẽ. Bên cạnh
đó, văn học là bức tranh sinh động nhất về đời sống xã hội, bài viết sử dụng phương pháp lịch sử
- xã hội để có cái nhìn sâu sát hơn về sự ảnh hưởng của thời đại (chiến tranh) lên con người.
3. NỘI DUNG

3.1. Chủ nghĩa hiện sinh và những vấn đề lý luận
3.1.1. Chủ nghĩa hiện sinh - lịch sử ra đời và những phạm trù cơ bản
“Hiện sinh” khơng cịn lạ lẫm với các nhà nghiên cứu, nhà khoa học. Từ khi J.P. Sartre
phát biểu trong bài thuyết trình của mình vào ngày 29 tháng 11 năm 1945 tại Paris, cho đến
nay, “hiện sinh” đã đến gần với nhân loại. Khi nhắc đến hiện sinh là nhắc đến sự đắm mình
trong một trạng thái nồng nhiệt, đầy sự sáng tạo, “một cái gì co thắt, ràng buộc để rồi tự giải
hóa, phân tích cho chính nó, một tự do thực sự - mãi mãi tự do”.
3.1.2. Lịch sử ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism - còn gọi là Thuyết Sinh tồn, Thuyết Hiện sinh, Triết
Hiện sinh, phong trào hiện sinh) là một trào lưu triết học phi duy lý phát triển với nhịp điệu chóng
mặt ở châu Âu. Nó nhanh chóng được lan tỏa và trở thành “thị hiếu” sau chiến tranh thế giới thứ
hai. Chủ nghĩa hiện sinh là một trong những trào lưu chủ yếu của triết học phương Tây hiện đại.
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời phần nào có ảnh hưởng từ khói lửa bom đạn của chiến tranh, bởi hai
cuộc tranh thế giới đi từ sự bất lực của khoa học và sự bế tắc của các tư tưởng của phương Tây
thế kỷ XIX. Những bước đi chập chững ban đầu của trào lưu hiện sinh từ những kinh nghiệm
sống mãnh liệt của Châu Âu cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Nhìn lại chặng đường lịch sử,
đó là khoảng thời gian hoàng kim của một châu Âu phát triển không ngừng về mọi mặt nhưng
466


đồng thời cũng chứa đựng những nỗi bất an và hiểm họa. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng
bổ tại Đức – một cường quốc về kinh kế, kỹ thuật ở châu Âu. Đức đi qua cuộc chiến tranh với
những vết thương về thể xác và tinh thần, họ đã tìm đến chủ nghĩa hiện sinh như tìm đến loại
thuốc an thần nhằm thích ứng với những bi kịch tinh thần mà họ đang gánh chịu. Như vậy, chủ
nghĩa hiện sinh đã hình thành chính thức ở Đức sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Sau đó khơng lâu, bùng nổ khắp thế giới chiến tranh thế giới lần thứ hai, một lần nữa
những nỗi đau và mất mát hiện hữu khắp toàn cầu. Điều này dẫn đến một làn sóng thứ hai của
chủ nghĩa hiện sinh được bùng nổ tại Pháp. Con người phải chấp vá những vết thương, đồng
thời họ cố gắng phản kháng để bảo tồn những giá trị cốt lõi của con người. Họ như rơi vào một
khoảng không không xác định, những nỗi âu lo choáng ngợp, chứng kiến sự điêu tàn và ngã rụi,

quá khứ bị phá hủy, hiện tại đau thương và tàn khốc, tương lai bất định, trống rỗng. Những điều
đó, tạo nên một lối sống tuyệt vọng, bất lực, không thể cứu vớt được những giá trị hiện hữu,
đây cũng là một loại tâm lý chung bao phủ khắp châu Âu thế kỷ XX, làm chấn động con người
và vũ trụ. Con người đã đi từ hoang mang, suy sụp lịng tin đến chán nản, buồn nơn, phi lý…Cho
nên, chủ nghĩa hiện sinh thực sự là triết học của sự khủng hoảng, nảy sinh trong thời kỳ của
những chấn động và tai biến xã hội - những cuộc khủng hoảng diễn ra không phải chỉ trên lĩnh
vực kinh tế, chính trị mà trên cả lĩnh vực tinh thần.
Yếu tố quyết định gần như tuyệt đối, đưa đến nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
phải kể đến những dư chấn tinh thần mà chủ nghĩa duy lý đã tạo ra trong lòng xã hội phương
Tây hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đánh dấu bằng thuyết tương đối của Einstein,
bộ mặt cũ kỹ suốt hàng mấy thế kỷ qua của phương Tây đã hoàn toàn thay đổi. Khoa học được
xem như ánh sáng, tái tạo lại một thế giới huy hoàng, phát triển tiến bộ. Trái ngược điều đó,
nơi nào phát triển nơi đó có đấu tranh, những cuộc đụng độ khơng khoan nhượng, những tranh
chấp nóng lạnh giữa các quốc gia hoặc các giai cấp xã hội hay sự suy đồi tinh thần là những
minh chứng cho thấy một nền văn minh vật chất gai góc, một nền khoa học không trọn vẹn như
lý tưởng ban đầu. Điều này dẫn đến một xã hội đầy bất cơng và bóc lột. Chính trong hồn cảnh
này, con người tìm đến phi duy lý như tìm đến một đối trọng của tinh thần duy lý thực nghiệm.
Họ gạt bỏ những vùng sáng của khoa học, họ gạt bỏ lý trí, thay vào đó là những trực giác, tâm
linh là điểm tựa. Chủ nghĩa hiện sinh - với tư cách là một khuynh hướng phi duy lý tiêu biểu là sự phản ứng của con người trước hoàn cảnh tàn khốc, bi ai của cuộc chiến tranh; là sự cứu
rỗi về tâm linh đối với thân phận con người bị bỏ quên trong một xã hội đầy duy lý; là sự phản
ứng lại tính tuyệt đối của khoa học kỹ thuật”. Nói theo một cách khác, “chủ nghĩa hiện sinh ra
đời nhằm phản ứng lại sự duy lý đã đạt tới đỉnh điểm, khi các cá nhân trở thành mảnh vỡ giống
nhau trong một ống kính vạn hoa quay tít bằng ánh sáng của các thành tựu khoa học và lối
sống sùng bái sức mạnh vật chất bộc lộ mặt trái của nó [9; tr.69]. Vì lẽ đó mà J. P. Sartre (19051980) một cây đại thụ của chủ nghĩa hiện sinh đã xem sự ra đời của triết thuyết hiện sinh là sự
chiêu tuyết cho con người về mặt triết học. Và cũng chính vì lẽ đó, J. P. Sartre đã quả quyết:
Hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản (Existentialism is Humanism) và Sartre đặt con người vào
tâm điểm chú ý cao nhất trên thang giá trị của nó [3; tr. 91]
Chính vì vậy, học thuyết này đã nhanh chóng trở thành dịng tư tưởng năng động nhất
trong việc biểu hiện đời sống tinh thần của người phương Tây “bội thực” về cơng nghệ, đồng
thời nhanh chóng lan tỏa trên khắp thế giới với một nhịp điệu mãnh liệt.

467


3.1.3. Văn học hiện sinh
Không thể đồng nhất giữa triết học hiện sinh và văn học hiện sinh, nhưng giữa chúng tồn
tại những điểm chung là cùng hướng đến con người. Chính điểm gặp gỡ này là cội nguồn sản
sinh ra văn học hiện sinh để biểu hiện triết học hiện sinh. Nói một cách khác, văn học hiện sinh
là công cụ để chủ nghĩa hiện sinh thâm nhập và chuyển hóa trong thực tiễn đời sống. Những
tác phẩm khốc áo hiện sinh xuất hiện, sử dụng những phạm trù hiện sinh như buồn nôn, lo âu,
cái chết, cô đơn, lựa chọn, dự phóng, trách nhiệm, hư vơ, v.v. làm cơng cụ mơ tả những bình
diện tâm lý của con người.
Trào lưu văn học hiện sinh được thể hiện qua văn học về cái phi lý và văn học hành động.
Văn học về cái phi lý thực chất không phải đến các nhà văn hiện sinh quan niệm này mới xuất
hiện, nhưng công lao của họ là đã đưa cái phi lí từ triết học vào văn học. Phi lí trong văn học
hiện sinh vừa là đối tượng vừa là phương tiện khám phá. Quan niệm về tính phi lí của đời sống
và thân phận con người đã trở thành đề tài chủ yếu của văn học hiện sinh. Nó miêu tả tình trạng
hiện tồn của con người trong xã hội hiện đại. Trong thế giới phi lí đời sống tinh tthần con người
trở nên biến dạng, méo mó do những mối xung khắc, đứt đoạn trong quan hệ giữa con người
với thế giới. Cảm thức về tính chất phi lí được thể hiện trong văn học hiện sinh ở cái nhìn về
đời sống tầm thường, ù lì, tẻ nhạt và quan niệm về con người xa lạ. Con người trong văn học
hiện sinh về cái phi lý là thực thể khơng chỉ ngẫu nhiên, thừa thải mà cịn nhỏ bé, lệ thuộc vào
những sức mạnh nằm ngoài mọi sự giải thích. Khát vọng hiểu biết về đời sống và số phận trở
nên huyền hoặc. Con người nằm trong một hoàn cảnh bế tắc, khốn cùng, sự tuyệt giao giữa con
người và cuộc đời là không thể cứu vãn. Các nhà văn hiện sinh xem phi lý là định mệnh, con
người trở nên cô độc, dửng dưng với tất cả, cam chịu hoặc chống trả yếu ớt, hời hợt. Với văn
học hiện sinh về hành động, các nhà văn quan niệm về đời sống bi đát, phi lí song con người là
chủ thể tự do, độc đáo. Do đó, các nhân vật hiện sinh không ngừng dấn thân, nổi loạn nhằm đối
diện với thực tại. Đây là quan điểm tích cực của văn học hiện sinh về vị thế và trách nhiệm của
con người đối với hiện hữu. Sống trong bầu không khí bưng bít ngột ngạt song nhân vật khơng
ngừng vận động đi tìm sự thật. Đối diện với thế giới câm lặng, mọi nỗ lực của con người trở

nên phù phiếm và đến chết.
Nhìn chung, văn học hiện sinh để lại dấu ấn trong tiếng nói tha thiết về thân phận cũng
như nỗ lực, khát vọng của con người trong thời đại khủng hoảng. Trong nhiều áng văn chương,
nhà văn theo chủ nghĩa hiện sinh thấy rằng những trăn trở khám phá về thân phận và đời sống
con người dường như chưa bao giờ ngừng nhức nhối.
3.1.4. Quan niệm hiện sinh về con người và thân phận con người
Triết lý của chủ nghĩa hiện sinh xoay quanh chủ đề con người, trọng tâm là bản tính, thân
phận, thế giới nội tâm, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh sống. Đầu tiên là mối quan hệ giữa
tồn tại và bản chất của con người. Với chủ nghĩa hiện sinh, tồn tại của con người có trước bản
chất của nó. Paul Sartre cho rằng con người trước hết phải hiện hữu, gặp gỡ nhau, xuất hiện ra
trong thế giới đã, rồi theo đó tự định nghĩa mình. Con người, nếu khơng thể định nghĩa được,
chính là vì trước hết nó là hư vơ. Nó chỉ tồn tại sau đó, và sẽ là tồn tại như những gì nó sẽ tự
tạo nên... Con người khơng chỉ tồn tại như nó được quan niệm, mà còn tồn tại như nó muốn thể
hiện... Con người khơng là gì khác ngồi những gì mà nó tự tạo nên. Đó là nguyên tắc đầu tiên
của thuyết hiện sinh. Đó cũng là điều mà người ta gọi là tính chủ thể... con người có một phẩm
468


giá cao hơn hòn đá hay cái bàn... con người trước hết là một dự phóng (project) đang sống về
mặt chủ thể, thay vì là một thứ rêu, một thứ nấm mốc hay một búp súp lơ... con người trước hết
sẽ là những gì mà nó dự định tồn tại [10; tr.34]. Như vậy, con người là tồn tại tối cao, vượt lên
trên mọi tồn tại khác của vũ trụ. Tồn tại người có trước, sau đó mới hình thành bản chất người.
Bản chất người hiện diện trong mọi cá thể riêng biệt, thể hiện qua hành động và tính cách của
nó, khơng có bản chất người chung chung, trừu tượng.
Bên cạnh đó, trong chủ nghĩa hiện sinh cịn thể hiện con người là một cá thể chịu trách nhiệm
trước cộng đồng. Con người phải dấn thân vào cuộc sống, phải suy nghĩ, hành động để bộc bày
những thái độ sống của mình. Con người là một thực thể tự do và khơng có gì khác ngồi đời sống
của chính mình. Con người cũng là một tồn tại, nhưng tồn tại khác với cách tồn tại của sự vật. Con
người có lý trí, nên ít bị chi phối bởi quy luật tất yếu mà có tự do - tự do lựa chọn, tự do hành động.
Paul Sartre khẳng định: Không có thuyết tất định, con người là tự do, con người được tự do... và

khơng có một bản tính con người nào khác để tơi có thể đặt nền tảng trên đó [2; tr.56]
Con người cũng là một sinh vật tồn tại trong những giới hạn nhất định, muốn vượt qua
những giới hạn đó thì cần phải dấn thân. Thân phận con người bị giam hãm trong những hoàn
cảnh cố định... như chết, đau khổ, chiến đấu, lệ thuộc những cảnh ngộ bất ngờ, luẩn quẩn trong
những xiềng xích của tội lỗi,... tức là những hoàn cảnh bất khả vượt và bất khả di dịch. Một
người tự dấn thân vào cuộc sống, vẽ nên gương mặt của mình, và khơng có gì ngồi gương mặt
ấy cả... một con người khơng có gì khác ngồi một loạt những cơng việc mà họ đảm nhiệm.
Con người là tổng số, tổ chức toàn bộ các quan hệ cấu thành những công việc ấy [2; tr.60]
Ở con người còn tồn tại quan hệ giữa con người và người khác là nguyên nhân của tha hóa
và tâm lý lo âu. Con người là một thực thể tự do con người quá đỗi con người Nietzsche gọi là
“các tinh thần tự do” [3; tr.91], nhưng con người ln bị trói buộc vào hồn cảnh sống, bị lệ
thuộc vào xã hội quy định từ thuở xưa và những người lân cận gọi là “người khác” hay tha nhân.
Tha nhân là niềm vui đồng thời là nỗi buồn của mỗi cá thể, là người tranh chấp, dẫm chân lên địa
vị của ta. Để có sự hiểu biết đúng thật về mình, tơi cần phải thơng qua người khác. Người khác
là cần thiết cho sự hiện hữu của tôi về chính mình. Trong những điều kiện ấy, tự cõi lịng, khi tơi
phát hiện ra chính mình thì đồng thời tôi phát hiện ra người khác, như là một hữu thể tự do được
đặt đối diện tôi, suy nghĩ về tôi và chỉ muốn ủng hộ hoặc chống đối tôi [2; tr.67].
3.2. Chủ nghĩa hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam Việt Nam giai đoạn 19541975
Chủ nghĩa hiện sinh được tiếp nhận, truyền bá, vận dụng cũng là “cơ duyên” của lịch sử.
Nó đã đến trong cái bối cảnh bi đát của xã hội miền Nam [5]. Triết học hiện sinh được biết đến
và du nhập vào Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh, để lại dấu ấn đặc biệt sâu sắc đối
với văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn từ 1954 đến 1975. Giới văn chương “rất nhanh
chóng đón lấy những tư tưởng cốt lõi của hiện sinh: nỗi lo sợ, sự buồn chán, sự lạc lõng trong
xã hội, sự phi lý, tự do, cam kết và hư vô, v.v”. Hiển nhiên, không ai phủ nhận dòng suy tư hiện
sinh đã gây ra nhiều tranh cãi trong giới phê bình học thuật đương thời, thậm chí, trong một
thời gian dài, nó cịn bị đánh đồng với những gì suy đồi, thiếu đạo đức.
Văn học đơ thị miền Nam tại thời điểm đó khơng biết đến chủ nghĩa hiện sinh đầu tiên,
mặc dù đây là lúc chủ nghĩa hiện sinh đang hình thành một trào lưu sơi nổi ở Tây Âu. Khi chính
quyền Ngơ Đình Diệm “tiếp thu” miền Nam từ tay thực dân Pháp, lý thuyết triết học phương
469



Tây mà người Sài Gịn nghe nói đến đầu tiên là chủ nghĩa nhân vị (Personnalisme) của
Emmanuel Mounier. Tiếp nhận của cơng chúng lúc đó, chủ nghĩa này quả thực là một cái gì
mơ hồ. Một mặt, những cán bộ tuyên truyền của “phong trào Cách mạng quốc gia” do Ngơ
Đình Nhu lập ra đã giới thiệu lý thuyết của E. Mounier một cách phiến diện: một lý thuyết đi
tìm con đường thứ ba khơng thiếu thiện chí nhưng cũng đầy ảo tưởng đã bị bẻ quặt một cách
cố ý sang con đường thứ nhất để thành một lý thuyết chống Cộng sơ lược và thiển cận. Mặt
khác, những người trí thức hiểu biết nhất, tuy khơng thể khơng hưởng ứng chủ trương của một
chế độ mà lúc đó họ chưa nhận ra đầy đủ những nanh vuốt tinh thần của nó, hẳn cũng thấy
ngượng ngùng khi lên tiếng quảng bá chủ nghĩa này bên cạnh những cán bộ tuyên truyền hạng
hai [5]. Chính vì điều đó, chủ nghĩa nhân vị được tiếp nhận một cách thờ ơ và càng về sau bị lu
mờ. Sau cuộc đảo chính vào tháng 11/1963 chủ nghĩa hiện sinh đến văn học miền Nam sau hơn
hai thế kỷ phát triển ở phương Tây. Ngược lại với chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa hiện sinh được
đón nhận một cách nồng nhiệt, càng ngày càng thu hút giới trí thức. Vì vậy, trong giai đoạn 50,
60 những bài viết giới thiệu về chủ nghĩa hiện sinh của các giáo sư triết học giảng dạy tại trường
Đại học Văn khoa Sài Gòn như Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị, Nguyễn Văn
Trung… hay trên các tờ tạp chí Sáng tạo, Bách Khoa… về trào lưu này gắn với những nhà sáng
lập và nuôi dưỡng ra nó như Jean-Paul Sartre, Albert Camus… là nhịp cầu dẫn chủ nghĩa này
đến với giới trí thức và văn nghệ sĩ sáng tác tại miền Nam đương thời.
Chủ nghĩa hiện sinh đã đem lại cho văn học miền Nam một làn gió mới. Nó có những
thay đổi đáng kể. Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong một thế giới phi lý, với ngôn
ngữ và kỹ thuật mô tả hiện tượng luận. Đây có thể là ảnh hưởng tự phát, nhưng cũng có thể là
ảnh hưởng tự giác ở những nhà văn trực tiếp đọc lý thuyết và sáng tác văn học hiện sinh Tây
Âu. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh cũng hết sức phức tạp. Một mặt, nó dẫn đến những
phản ứng “nổi loạn”, những khái niệm tận hưởng cuộc sống của một bộ phận thanh niên, những
con người khơng tìm thấy “lối đi” trong chiến tranh. Bên cạnh đó, nó như một khoảng lặng, gợi
lên những những suy tư, trăn trở về thân phận con người, ý thức trách nhiệm trước tình cảnh
đất nước và chọn lựa thái độ ứng xử cũng như hành động nhập cuộc vì tha nhân. Chủ nghĩa này
đã đáp ứng những mối ưu tư, những khát khao, khẳng định khuôn mặt tinh thần cống hiến của

người trí thức trẻ. Mặc dù, chủ nghĩa hiện sinh ở văn học miền Nam đã được tiếp cận từ nhiều
cách nhìn khác nhau, những nó khơng thể thốt khỏi sự tác động của xã hội, chính trị của người
viết. Nhưng khơng vì thế mà các tác phẩm có sự rập khn, nó thể hiện tinh thần độc lập và tự
trọng của người trí thức, nói theo những suy nghĩ riêng chính mình.
Tóm lại, hiện nay chủ nghĩa hiện sinh vẫn tiếp tục đang và sẽ làm dậy sóng trong giới lý
luận phê bình. Huỳnh Như Phương trong bài Chiến tranh, xã hội tiêu thụ và thị trường văn học
miền Nam 1954 - 1975” đã viết: Miền Nam là hợp thể của những đối cực về văn hóa mà những
giá trị thực sự muốn giành vị trí để được thừa nhận rộng rãi phải trải qua thời gian dài tranh cãi,
thuyết phục. Cho đến nay một cơng trình tổng kết đầy đủ hành trình văn hóa, văn học của vùng
đất này vẫn là dự án còn ở phía trước [5; tr.103]. Chủ nghĩa hiện sinh bắt nguồn với tâm lí của
con người cô độc, bơ vơ vì bị bỏ rơi, là những mảnh vỡ - cá - nhân khơng có cơ hội gắn kết, tái
tạo. Nhưng khơng phải vì thế mà nó chỉ mang một sắc màu lo âu tuyệt vọng hay bi quan chán nản.
3.3. Biểu hiện con người hiện sinh trong tiểu thuyết Tuần trăng mật màu xanh
Những người trẻ chơi vơi trong thời cuộc chiến tranh. Nó thiếu đi những sự lạc quan và
470


mục đích sống của họ. Nhưng bởi một sự tình cờ hãy hữu ý, những còn người lạc lõng lại tìm
tới nhau, những con người bơ vơ lại sưởi ấm tâm hồn tìm lại khát vọng sống, tìm lại được tình
yêu của mình trong hỏa ngục. Ba nhân vật gặp nhau đều trong tâm trạng hoang mang về điều
mình đã và đang có. Chiến tranh chưa chắc đem lại cho họ một kết thúc màu xanh như mong
muốn. Không gian truyện mang đậm chất bi thương của chiến tranh, nhân vật Đông, Nhung và
Ý Lan, cái thứ mà chúng ta và họ gọi là tình yêu hay đam mê, chung quy cũng chỉ là mong mỏi
được thoát ra khỏi cuộc sống cùng quẫn, lặp đi lặp lại, mang đầy màu trầm buồn dính đầy những
vết tích của chiến tranh mang lại. Họ đâu có đi tìm tuần trăng mật u đương lứa đơi đơn thuần,
điều họ tìm là tự do, đổi mới, tươi sáng. Các nhân vật không già, nhưng cũng chẳng cịn q trẻ
như độ mười tám đơi mươi, ấy vậy mà họ đã nếm trải đủ thứ mùi đời, giữa có được và mất đi,
chỉ bởi hai chữ “chiến tranh”. Bối cảnh tác phẩm diễn ra ở Huế càng tơ thêm màu sắc cổ kính,
trầm buồn cho câu chuyện. Nó mang nét buồn và mang màu sắc kiểu suy tư, những cơn mưa
cứ xuất hiện lại càng nhấn mạnh bối cảnh đó, những nữa sau khi có sự chuyển biến thì ta có thể

thấy rõ sự khác nhau giữa hai mảng màu của câu chuyện, dẫu đầu truyện và cuối truyện đều có
hình ảnh của cơn mưa nhưng ý nghĩa của nó lại khác nhau hồn tồn. Cơn mưa ở đầu là tiếng
lịng của những người cơ đơn, ở giữa là sự gọt rữa thanh tẩy tìm lại niềm vui sống, cuối cùng
là tiếng kêu cuộc sống của hạnh phúc.
Tên câu chuyện cũng là một cái tên rất có ý nghĩa và liên quan mật thiết tới các nhân vật,
“tuần trăng mật” này diễn ra ở Huế và chính nơi đây như một vùng trời để họ tìm thấy nhau và tìm
thấy lại chính bản thân mình. Màu xanh như một màu của hy vọng của khát vọng hịa bình và cũng
có thể hiểu là một chốn trời riêng của hạnh phúc lứa đôi. Không đám cưới, không hoa, không kịp
đính ước, nhưng những ngày trải qua cùng nhau là liều thuốc cứu rỗi họ giữa cuộc chiến đầy tăm
tối bi thảm “em đi với anh một vòng ra phố không, ta ăn sáng, hưởng một cuộc liều với anh”.
3.3.1. Con người cô đơn, lạc lõng
Byron từng cho rằng, giữa thiên nhiên, trong rừng cây, trên cánh đồng cỏ, ông không
bao giờ cảm thấy cô đơn, chỉ trong thành phố, giữa những con người. Nghĩa là, với tư cách là
thực thể sống, chỉ con người nhận biết sự cô đơn và chỉ giữa cộng đồng mà thôi. Bất cứ nơi
đâu có cơ đơn, ở đó ln có mối quan hệ bị tách rời khỏi cộng đồng và sự cịn lại một mình.
Trong đa số các trường hợp, mối quan hệ bị đánh mất luôn luôn tiêu cực và đau đớn. Đó là lí
do vì sao con người thường nhận biết và trải nghiệm nỗi cô đơn trong ý hướng mong ước được
đứng vào cộng đồng lần nữa.
Dưới cái nhìn của hiện sinh, motip cái đẹp bị ruồng bỏ, bị cô đơn lạc lõng được tái hiện
qua nhân vật Nhung. Cô mang vẻ đẹp, sự sang trọng và đằm thắm của người con gái xứ Huế
truyền thống mặt trời non phả phấn hồng mơn man lên những sợi lông măng trắng mịn trên má
Nhung, đằm thắm. hai con mắt trong vắt, dịu dàng và trắc ẩn [8; tr.104], nhưng trớ trêu là chính
vẻ đẹp ấy đã tách họ ra khỏi số đông, biến Nhung thành số ít cô đơn và lạc lồi. Chỉ muốn chìm
lắng, chơi vơi, mơng lung, có có khơng khơng, hư hư thực thực [8; tr. 83]; Nhung bơ vơ giữa
những ám ảnh lạ lùng, mới mẻ [8; tr.94].
Nhung cơ đơn trong chính đất Sài Gịn - nơi cô sống, cô đơn khi tiếp xúc với người chồng
sắp cưới của mình, cơ đơn trong những mối quan hệ xung quanh. Người con gái này, chưa một
lần thấy hạnh phúc, thấy vui vẻ và thoải mái (trước khi gặp lại Đơng). Có thể nói Nhung đẹp
tới mức lạc lõng giữa những người xung quanh. Cô cho rằng họ “tật nguyền” về cách sống và
471



cũng chính thế cơ khơng có sự đồng chất với xã hội. Nàng bất chợt nhận ra tất cả sự tầm thường
mòn cũ của hình ảnh đời sống xung quanh, của Sài Gòn, của Lộc với mình một ngày kia sẽ tới,
với nghề nghiệp, những thói quen, cùng tất cả những trì tiêu khiển đều đặn của tuần”; “cái vẻ
vội vàng, lúi húi đó vẽ nên tất cả nỗi nhàm chán của một đời người chỉ quẩn quanh trong cái
thói quen và cơng việc loay hoay, khơng bao giờ thốt ra nổi, khơng lý do và can đảm thốt ra
bởi không bao giờ tỉnh khỏi cơn mê quen thuộc điều đặn của một đời sống chết trong no đủ và
bình thường [8; tr. 74, 75].
Có thể nói những con người như Nhung mang những khác biệt trong tâm hồn thể hiện
qua suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng mới thực sự khiến cho cô trở cô đơn tuyệt đối. Điều như
giống như Hamvas Bela viết: Có một dạng cơ đơn mà đặc điểm của nó là con người sống trong
sự cơ đơn ấy tự chứng minh mình đứng ngồi xã hội…Cái cô đơn này bắt đầu từ những nhu
cầu cao hơn hẳn, từ sự phản đối cái tinh thần thấp kém trong cộng đồng, từ chối sự thống trị
của cái hời hợt, nông cạn, những thị hiếu tầm thường [6, tr.136]. Vì cơ đơn trong suy nghĩ,
Nhung nhìn Lộc, nhìn xã hội “Mười năm. Hai mươi năm. Cho đến lúc thấy mình già. Rồi là
hết. Phần đơng người ta đã chìm lỉm như thế. Không ai nhận ra thảm trạng ngấm ngầm của
mỗi đời người đó cả” [8 ; tr.136].
Nhung cơ gái sống ở Sài Gịn, nhưng q hương cơ ở xứ Huế. Với Nhung, Huế lúc này xa
lạ, lạnh lẽo. Rất lâu, khi bà con không ai còn ở Huế [8; tr.13], Nhung phải đến đây để xử lý ngôi
nhà của cô. Trong tâm lý của người con gái được tác giả miêu tả nhẹ nhàng, nhưng đầy sự lạc
lõng, tuyệt vọng và cô đơn Nhung như người lạ trở về một nơi khơng còn là của mình, đối diện
với người lạ, nếm thử chút đời đã mất hút xa xăm trong ấu thơ lu mờ [8; tr.92]; “mọi người đã đi,
đã chết hay vẫn cịn đây nhưng khơng bao giờ mình nhận ra, khơng ai nhận ra mình” [8; tr.13].
Theo quan điểm của Martin Heidegger thì bản chất con người là lo âu, tâm trạng chủ yếu
của con người là sự sợ hãi. Sartre và Nietzsche cho rằng bất cứ ý nghĩa nào có trong thế giới
này cũng đều do cá nhân sáng tạo ra trong sự cô đọc hay trong mối quan hệ với người khác,
Albert Camus coi đây là nguồn suối của sự lo âu [3; tr.91]. Trước cuộc sống hiện đại đầy rẫy
những bất công, phi lý, ngổn ngang những “buồn nôn”, bất an trở thành tâm lý chung của con
người trong cuộc sống xã hội. Nỗi cô đơn của nhân vật Đông được tác giả khắc họa qua tính

cách, tâm lý nhân vật. Nhà văn xây dựng hình ảnh người lính mang trong mình nỗi ám ảnh cái
chết từ chiến tranh. Anh tạm trốn khỏi quân doanh trong một kỳ nghỉ phép nhưng vẫn ngửi thấy
mùi thuốc súng, mùi của cái chết, tiếng bom đạn và luật lệ trong quân đội căng thẳng đến mức
nghẹt thở. Những ám ảnh của chiến tranh, máu, cái chết được xen kẻ trong những hành động,
dòng ý thức của Đơng. Những câu nói bỏ nửa chừng anh nhặt áo lên, còn mới, vải và đường
may còn nguyên vẹn, mới toanh…, nhưng bất ngờ lật bên trong thấy … từng đám máu khô
loang lổ [9; tr.60]; chạm súng thường. Nhưng dạo này có vẻ n. Sự n lặng rình chực, chuẩn
bị ấy mà, sẽ ghê gớm lắm [8; tr. 64]. Đặc biệt, trong những lần “ngủ tạm”, những cái chết và
bom đạn đều xuất hiện trong giấc mơ của Đông tiếng súng từng loạt nổ đều bên ngoài, thật gần.
Một trái lựu đạn nổ bung ngay trên lối ra. Mùi thuốc súng xông xuống khét lẹt; những tiếng nổ
bật lên, xốy tròn bên tai, như đâm thủng qua óc anh và viên đạn ngọt lịm đã bay vụt ra ngoài,
như thân thể anh có mn nghìn lỗ trống để gạn lọc lấy sự sống dễ dàng [8 ; tr. 41, 42]. Đơng
- người lính mang trong mình nỗi ám ảnh cái chết từ chiến tranh, nhiều lần trong sự cô đơn, anh
thấy cái chết đến với chính mình cũng có thể tơi chết, một buổi sáng thật thanh bình, thản nhiên,
472


nhẹ nhõm như đi ngủ, giấc ngủ trẻ thơ, không thắc mắc và tính tốn. Cũng có nghĩa là tơi chết
đi [8 ; tr. 43]. Với những tâm lý của Đông, nhân vật hiện lên trong tác phẩm luôn là con người
cô đơn, chán chường, ruồng bỏ và trốn tránh. Đơng ln cất lên những câu nói ám chỉ về cuộc
sống hờ trong hiện tại. Cuộc sống được xem là qua ngày của anh. Đối với một người khốc trên
mình màu áo lính, những tư tưởng ấy đi ngược với xã hội, với con người. Sự bất an cô độc trên
“con đường” của Đông đang đi khi anh nhận ra theo sau bước chân của mình có một ánh nhìn,
một khẩu súng, một mệnh lệnh cứ dõi theo có cái gì, như rừng gai, như đám đơng, như bức
màn, nhu vùng tối ngập tràn giăng đầy trước mặt. Anh muốn tỉnh trí, muốn thức dậy từ cõi vọng
tưởng xa xăm, nhân lại mình, nhận lại con đường, nhận lại hướng đi [8; 214]; nhưng Tiếng còi
như thúc bách và bay vút lại gần, ngay sát sau lưng Đơng, có tiếng sột soạt đằng sau, ở khoảng
trống Đông vừa bỏ lại; tiếng kêu mơ hồ, văng vẳng, trầm ấm dịu dàng trong tâm tưởng Đông,
bay vút, sắc và lạnh như một mũi lao nhọn vào gáy Đông trơ trụi [8; tr. 216]
Ý Lan, người phụ nữ nhiều trải nghiệm, lang bạt, khi đứng trước Kinh thành Huế, bãi chợ

đầy sình, tâm lý nhân vật ngổn ngang những “buồn nôn”, bất an trở thành tâm lý chung xuyên
suốt trong nhân vật này. Chính cơ cảm thấy có điều gì đó sắp đến với chính mình. Người phụ
“trốn chạy” tất cả những người thân quen, né tránh để khơng nhìn vào sự thật tồi tệ. Ý Lan có
sự mâu thuẫn trong nội tâm chính mình, “cái đi” của cơ để trốn tránh nhưng cũng để tìm kiếm
nghe ngóng tin tức. Nghe ngóng, nhưng lại né tránh những người quen biết. Đây là một vòng
tròn luẩn quẩn của người phụ nữ này. Những lần thống trong suy nghĩ Ý Lan ln là lời nói
báo tử của người yêu.
Đó là những dự cảm bất an về sự mất an toàn trong cuộc sống, dự cảm về sự đổ vỡ trong
hạnh phúc gia đình, lo sợ những điều không hay xảy ra với người thân. Đặc biệt, quyền được
ở, nơi ở và việc làm cũng là những mối lo luôn canh cánh hiện hữu, ám ảnh trong những dự
cảm về một tương lai mơ hồ, xám xịt. Khi con người đối diện với những nỗi lo cũng là lúc họ
đối diện trực tiếp với sự cô đơn.
Cô đơn trở thành thuộc tính của con người. Con người tuyệt đối cơ đơn trên hành trình
kiếm tìm tự do, khẳng định nhân vị. Nguyễn Thị Hồng để Đơng bộc lộ sự cơ đơn của mình
như một khát vọng tận cùng và muôn thuở “vươn đến đảm nhiệm cô đơn trong cuộc kiếm tìm
tự do. Đơng là chính Đơng, anh cô độc trong suy nghĩ thời cuộc, nhưng anh được làm cái anh
muốn, được trọn vẹn với cái bản ngã chính mình. Đặt nhân vật này với các hình tượng người
lính của văn học kháng chiến là hoàn toàn trái ngược về mặt tư tưởng. Đông không phải là mẫu
người lý tưởng. Đông lười biếng, hèn nhát – nếu xét theo tiêu chuẩn nhà binh. Nhưng nếu xét
về khía cạnh cuộc sống, con người, đây là nhân vật được xây dựng qua tính cách, hành động
bộc lộ khát vọng được sống theo ý thích. Đông là một người chăm chỉ và dũng cảm. Cái liều
của Đông không thể hiện trên chiến trường, mà thể hiện trong cuộc sống cá nhân mà anh ta
muốn được thể qua những câu nói, những hành động Nhung Em đi với anh một vòng ra phố
không, ta ăn sáng, hưởng một cuộc liều với anh [8; tr. 202]. Đây cũng là nhân vật tìm mọi cách
được ra doanh trại, được nghỉ phép thường xuyên, chỉ để đi tìm cuộc sống chính mình. Anh la
cà khắp quán phố, la cà khắp kinh thành Huế để tìm kiếm vẻ đẹp cổ kính ngày trước. Anh tìm
và ăn những thứ anh cho là ngon, là “đặc sản”, dù rằng hương vị nhạt nhẽo và lạnh lẽo như thời
cuộc. Anh cũng là con người mạnh dạn chống lại doanh trại, dẫu biết rằng sẽ nhận những hậu
quả khôn lường, nhưng Đơng “vẫn đi”, đi một mình trong dịng người xi ngược. Bóng dáng
473



nhỏ nhắn và băng xen những con hẻm đi mua thứ quà được xem là hạnh phúc, là minh chứng
cho tình cảm với Nhung. Những bước đi như người mộng du còn tiếc nuối đời sống phiêu viễn
trong chiêm bao, hai chân Đông cứ đều đều đếm thời gian về phía trước [8; tr. 216]
3.3.2. Con người nổi loạn
Nhà nghiên cứu Thích Đức Nhuận cho rằng: Hiện sinh đã đặt toàn thể thân phận con
người trong một cảnh khổ tuyệt vọng, rồi đào bới tất cả những khả năng tự tạo của con người
đã có để bắt buộc đem ra thi hành. Nhưng bất cứ cuộc ứng dụng nào cũng đem tới kết luận là
thảm bại. Tâm thức con người đang bị những đường roi hiện sinh quất xuống rất mạnh, bắt
buộc tâm thức phải tự dao động. Ý thức con người không được quyền an nghỉ nữa. Phải vùng
lên để tự thăng hóa. Đó là một thực trạng của thời đại [11, tr.13]. Bên cạnh đó, khơng những
khơng được “an nghỉ”, con người luôn phải loay hoay “quy hoạch” chính cuộc đời của mình.
Các nhà hiện sinh thường dùng tác phẩm để tuyên ngôn cho một lối sống tích cực, một lối sống
theo kiểu “cháy hết mình” cho cuộc sống. Bởi cuộc sống khơng dài, khơng hào nhống như
hằng tưởng mà nó chứa đựng đầy rẫy những điều bất trắc. Thế nên, con người trong tác phẩm
của các nhà hiện sinh ln phải tìm cách bươn chải, chống chọi chỉ để sống cho ra sống theo ý
của mình. Với họ, sống khơng phải chỉ là sự hoạt động hít vào - thở ra một cách đơn thuần mà
là tranh đấu, là vẫy vùng, là tận hiến cho khát vọng, đam mê của mình.
Với kiểu con người với sắc thái tính cách này được hầu hết các nhà văn yêu thích và thể
hiện, tuy nhiên, cách thức dấn thân để lấp đầy khát vọng ở nhân vật của mỗi nhà văn lại có màu
sắc riêng. Nguyễn Thị Hồng để cho các nhân vật trỗi dậy sự nỗi loạn, phản kháng. Nhung –
người con gái truyền thống với mọi chuẩn mực đứng lên từ hôn với Lộc để đi theo tiếng gọi
trái tim. Cô chấp nhận sự bêu rếu, đồn đại của mọi người, chấp nhận một tương lai không ổn
định với Đơng, nhưng trong mắt Nhung là đó “hạnh phúc xanh”. Nhung chấp nhận bán căn nhà
ở Huế để cùng Đơng có được cuộc sống tốt đẹp. Cũng như chính cơ tìm mọi cách để lo cho
Đơng khơng phải đi lính, không phải đi vào chiến trường với những ám ảnh của cái chết.
Con người chính là sự thức nhận, trong một khoảnh khắc nào đó, cái tẻ nhạt của cuộc sống
thường nhật. Bởi có những khi, con người trở nên vô cảm với chính sự tù đọng của đời người.
Họ thực hiện nó một cách nghiêm cẩn, khơng mảy may xao động, phản kháng. Khát vọng cháy

bỏng muốn thoát ra khỏi cái vùng “an tồn” nhàm chán, khơng hương sắc đó chính là động cơ
mạnh mẽ nhất cho hành trình dấn thân của mỗi con người. Khát vọng đó tượng hình trong câu
hỏi xốy mãi vào tâm can…. Nguyễn Thị Hoàng thể hiện điều này qua cách bà xây dựng hành
động nhân vật. Ý Lan, người phụ nữ có cuộc sống lang thang, đi đây đó, trải nghiệm. Nàng muốn
như thế, lao vào một cuộc phiêu lưu ngắn, để tự xem mình dai dẳng và kiên nhẫn đến mức độ nào
sau một quảng đời tưởng đã chai đá, lăn lóc mà thật tình, q dễ dàng, trơn tuột, thản nhiên so
với những tháng này mới mẻ này [8; tr. 56]. Ngay cả khi thấp thống hình bóng ngời u của
mình (Vĩnh), Ý Lan cũng thốt khỏi cái suy nghĩ ấy, cô mạnh mẽ suy nghĩ về Đông. Tác giả miêu
tả tâm lý nhân vật rất mạnh mẽ và rõ rệt thử tập đăm đuối theo cơn mê. Yêu. Một điều quen thuộc
và lạ lùng. Dửng dưng mà tàn nhẫn. Có đó mà thực ra khơng bao giờ có. Là cái gì. Khơng cắt
nghĩa. Chẳng cần cắt nghĩa. Như đêm qua. Rồi tất cả sẽ tan đi. Biến mất hay gột rửa đến tận
cùng trong tâm khảm. Không đủ thời gian cho bất cứ ột tình yêu nào kết tụ rong rêu lên đời người
và ký ức trong khoảng không gian bồng bềnh trôi nổi váng vất ấy [ 8; tr. 58]. Con người có điểm
khác lạ rõ rệt, nhìn nhận được vấn đề, lại càng “sa ngã” vào đó. Như tiềm tàng bên trong một khát
474


vọng được sống, họ phản kháng, chống lại một thân phận đã bị gán cho một cách phi lí tự hỏi tại
sao lại càng sa vào vùng mê loạn này với một người xa lạ, chìu lụy hắn một cách mù qng và
khơng mục đích [ 8; tr. 65]. Mỗi lần Ý Lan rơi vào tâm trạng u sầu, cô cố gắng nhớ lại hình ảnh
người mình u nhưng nó lại nhạt nhòa và mờ ảo. Thật ra, khi xa cách trong thời chiến, trong
những chuyến đi ngắn dài khắp tận cùng đất nước của cô, khiến cô dần quên đi hình ảnh người
yêu. Trải qua một đêm tình cùng Đông cũng khiến người phụ nữ đấu tranh mâu thuẫn nội tâm, tự
phản kháng với những dòng ý thức của mình.
Phản kháng hay nổi loạn của hiện sinh thường khơng nhắm đến làm cách mạng hay lớn lao
hơn là thay đổi một thể chế, một xã hội chính trị ; nó cũng khơng phải là kết quả của sự bùng phát
“tức nước vỡ bờ” mà là một quá trình âm ỉ kéo dài, thôi thúc mạnh mẽ kể từ khi con người thức
nhận được về cuộc hiện sinh cho đến lúc trước mắt họ là cái chết. Nói theo một cách khác, phản
kháng, hay nổi loạn của hiện sinh là kết tội xã hội đã làm mất đi nét riêng tư, cái đặc hữu chỉ có
ở riêng tơi làm cho tôi không còn là tôi nữa, bắt tôi phải như người khác.(…) Phản kháng, nổi

loạn là biết chối bỏ, nói khơng với cái đang là, biết nói vươn tới cái sẽ là và trở về cái nguyên ủy
tinh khôi dưới ánh sáng soi đường của nhân vị [9; tr. 25]. Nhung, một nhân vật nổi loạn về nhận
thức, cô thường có khuynh hướng sống nhiều, sống sâu với những suy nghĩ của mình. Độc thoại
nội tâm được sử dụng xen kẽ với những khúc đoạn miêu tả tâm lí. Và bao giờ cũng vậy, cái không
gian hiện lên trong tác phẩm là kiểu khơng gian hoặc tù túng, bó buộc, trói chặt con người hoặc
chán ngán, tẻ nhạt, đều đặn, khơng có biến động. Nhung chính là người phụ nữ mà Đơng muốn
vun đắp tình u cùng. Đơng cũng là lí do thúc đẩy Nhung dứt khoát chấm dứt một tương lai tẻ
nhạt của mình. Nếu trước đây Nhung ln thỏa hiệp “lịch sự” và dịu dàng với Lộc, sau khi gặp
Đơng, trong Nhung có sự chống đối qua hành động. Cơ khước từ mọi sự chăm sóc, quan tâm từ
Lộc, thậm chí là những cử chỉ ân cần của một cặp tình nhân bình thường. Cơ theo đuổi hạnh phúc
cuộc sống của mình với Đơng, là chuỗi những cuộc vui, họ cố gắng sống và yêu theo cách mình
muốn, gắng đến nỗi mình cảm tưởng như họ khơng để cho chút muộn phiền nào có cơ hội chen
chân vào những giây phút hai người bên nhau. Hay ở chính Đơng, nhân vật có sự đối lập rõ rệt
trong cách sống trước và sau khi gặp Nhung. Nhung chính là “thuốc” chữa trị và cứu rỗi tinh thần
anh. Nhung đã cứu vớt tâm hồn Đông, khiến anh nhận ra trong anh vẫn cịn tình u, vẫn cịn lẽ
sống. Giữa hai người nảy nở tình yêu trong trẻo và thanh khiết. Họ đến với nhau dù chưa kịp cưới
nhau, chưa từng được hưởng qua tuần trăng mật. Nhưng qua nội tâm của Đơng, tác giả cho thấy
đây là một tình u đẹp, họ với những ước mơ về một vùng trời màu xanh, thanh bình, êm đẹp,
đã cho họ được hưởng một “tuần trăng mật” ngắn ngủi, thoáng chốc trước khi bị hỏa ngục chiến
tranh kéo lại hiện thực tàn khốc.
Nổi loạn là một khái niệm từng được nhắc đến nhiều trong văn học miền Nam Việt Nam
giai đoạn 1954 - 1975. Cá tính văn hóa miền Nam thời đoạn này được xác lập qua hệ hình nhân
vị lây nhiễm tinh thần hôn phối Đông Tây. Mà ở nhánh Tây phương, hiện tượng luận hiện sinh
được xem như là mô thức tư tưởng nổi loạn của một lớp người mang trong mình vết thương sâu
xốy của chiến tranh. Sự lây nhiễm cảm thức phi lý đã đưa con người đến với tâm thế phản
kháng nổi loạn [2; tr.181]. Nổi loạn còn được thể hiện qua khuynh hướng kêu đòi cho quyền
được thỏa mãn những khát vọng luyến ái. Ham muốn tính dục là một trong những bản năng của
con người, nó đã trỗi dậy mãnh liệt trong bối cảnh của cuộc chiến tranh tàn khốc. Tính dục
cũngg chính là một trong những chiều cạnh tâm lý nhân vật được các nhà văn khai thác trong
văn học miền Nam từ 1954 - 1975: Trong bối cảnh đó, văn học tính dục chiếm thế thượng

475


phong so với văn học hiện sinh, thậm chí phải tìm cảm xúc hiện sinh trong văn học tính dục.
Điều hiếm thấy ở phương Tây [9; tr.72]. Trong Tuần trăng mật màu xanh, Nguyễn Thị Hoàng
xây dựng nhân vất Ý Lan, người phụ nữ vượt qua khoảng cách, dám yêu, dám vượt qua những
điều cấm kị nàng đánh hơi thấy một thân thể rộn ràng, ấm áp cúi xuống gần mình. Ở người
đàn ơng phả xuống một thứ hơi nóng khác thường, kỳ dị, bằng mùi quầ áo, mồ hôi, khói thuốc,
rượu đổ, hơi thở gấp từ miệng mơi [8; tr. 165] hay trong lần gặp đầu tiên mở ra tình một đêm
và nhiều đêm sau đó: Bàn tay người lính bỗng dừng ở nơi ngấn cổ cao, cặp mắt chăm chú nhìn
vào ha mắt và đơi mơi ngơ ngác ngửa lên. Rồi tấm khăn ướt rơi xuống, ngón tay cái hắn bỗng
bất ngờ đậu lên môi nàng, đôi môi không còn chút son, rà nhè nhẹ, tò mò và dịu dàng [8 ; tr.
36] hay cái giường vẽ ra một cảnh tượng bừa bãi và kì dị. Trên đám ga nệm ngổng ngang xô
lệch vất bừa bộn không biết bao nhiêu là bỏ chai hồng, toàn những thức uống đắt tiền, rượu,
nước nho, nước trái cây đủ loại… lẫn lộn những đá đồ rá rưởi đó là những đồ lót màu nhạt,
xanh, hồng, vàng của đàn bà, sạch và dơ lẫn lộn, những sơ mi chỉ mặc qua một lần cho đến
bẩn vứt đó, những áo len, quần jean đủ kiểu [8; tr. 86].
Ý Lan là một người phụ nữ, mà như cơ tự nhận mình bất cần, tham lam, lang bang, một
người phụ nữ mà tự bản thân cô biết rằng Đông sẽ không bao giờ yêu, hoặc chẳng bao giờ cần.
Cô thừa nhận vào cái ngày nhận tin người đàn ơng của mình chết, rồi nhớ về Đơng, cơ cảm thấy
mình như đang mọc cánh bay lên. Nhưng ấy không phải là một sự tái sinh, mà là một cái chết
khác. Vì cơ nhận ra mình đã u, oan trái hơn, cơ biết tình u với người đàn ơng đó có thể cứu
rỗi mình, thế nhưng cơ lại khơng bao giờ có được điều đó. Ý Lan yêu Đông và cô sẵn sàng ngồi
chờ cả ngày trời bên ngoài doanh trại, sửa soạn cho một buổi hẹn hị trong mơ của riêng cơ và
Đơng. Khung đò tối mờ mờ. Trong góc, phía khoang đò trổ một khung cửa sổ nhỏ xíu bằng
cuốn vở lát kính trắng, một chiếc bàn thấp nhỏ, gần như một bục gỗ, bên trên lát miếng vải cao
su trắng sạch sẽ, bày la liệt những dĩa trái cây, thuốc hút, bánh mứt, những gói thức ăn chưa
mở, và một chai rượu lùn [8; tr.160].
Đối với Ý Lan, ngay từ đầu Đông đã xác định mối quan hệ giữa hai người chỉ là mối quan
hệ qua đường, do vậy vào lần cuối gặp nhau trên sông nước đêm ấy, Đông đã bảo Ý Lan rằng,

Em đáng u vơ cùng, nhưng mà khơng còn gì trong lòng tơi cả, thật uổng phí cho em [ 8; tr.166]
4. KẾT LUẬN
Xã hội miền Nam Việt Nam những năm 50, 60 phức tạp, sự cai trị của chính quyền Mĩ –
Diệm, chiến tranh loạn lạc, con người cảm thấy lạc lõng vì khơng biết bám víu vào đâu để lấp
khoảng trống trong tâm hồn, hoàn toàn phi lý, man dại, hoang vu, lạnh lùng, dày đặc, con
người thực sự là một thân phận, là con rối trong trò chơi trớ trêu của số phận. Tuần trăng mật
xanh của Nguyễn Thị Hoàng là tiếng thở dài, các nhân vật mang một số phận tội nghiệp như Ý
Lan, Đông hay Nhung. Số phận là một cái vòng tròn mà đã vạch sẵn, họ cố vùng vẫy, trốn chay
nhưng vẫn luẩn quanh trong cái vòng ấy mà không hề biết rằng mình chưa hề phạm phải vạch
ranh giới của nó. Khi miền Nam đang trong những tháng ngày nóng bỏng và khốc liệt nhất
cũng là lúc con người lao đao và chơi vơi nhất. Họ trơ trọi trong chính cuộc sống, như “con
chim” bị nhốt trong chiếc lồng nhốn nháo của thời cuộc. Văn học hiện sinh trong gian đoạn
1954 – 1975 tại miền Nam chủ yếu thể hiện nỗi đau ở con người. Con người với sự chán chường,
cô đơn, những bước xiên vẹo, vô định và ám ảnh về cái chết với một nỗi bất an thường trực.
476


Để vượt qua được những bi kịch tinh thần này, con người chỉ có thể sống và chấp thuận nhận
lấy thái độ phản kháng. Chính trong quá trình phản kháng, những phẩm tính hiện sinh được thể
hiện rõ, cũng tức là danh dự và giá trị làm người. Họ không cần biết rằng con đường tương lai
về sau như thế nào, nhưng cách được là chính mình, được tự do cứu lấy mình vào thời điểm đó
là cách họ khơng từ bỏ. Chủ nghĩa hiện sinh đã đưa con người quay trở lại với con người, quay
trở lại với diễn trường tâm lí khắc khoải của cõi nhân sinh. Trong bối cảnh xã hội tàn khốc, tất
cả mọi thứ đều có thể được định sẵn, từ số phận đến tâm hồn con người. Đây chính là hoàn
cảnh đẩy con người vào vực thẳm. Đông, Nhung, Ý Lan luôn hiện diện nỗi cô độc với xã hội
và số đông không sao rủ bỏ hết đi được. Nỗi u hoài của họ là nỗi u hoài rất đời, băn khoăn mãi
về việc tương lai sẽ ra sao, và mình sẽ phải sống thế nào đây, bước tiếp thế nào trong cái thực
tại như chỉ chực chờ ép họ đến nghẹt thở, ép họ đến chết này. Họ cô độc, lạc lõng chới với. Họ
tự cứu lấy bản thân, họ tìm đến tình yêu và những niềm vui thú như một lẽ dĩ ngẫu. Nhưng bởi
mối quan hệ nửa kín nửa hở này khó mà vẹn tồn được với tất cả, vì vậy rốt cuộc vẫn phải có

người ra đi và cũng có những mối quan hệ không rõ kết quả cho định hướng của mình. Văn học
hiện sinh như mơt liều thuốc cứu rỗi tinh thần những con người cảm thấy chênh vênh, u tối giữa
bầu trời tăm tối của chiến tranh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Bích Hạnh (2015), Thơ trẻ Việt Nam 1965-1975, khn mặt cái tơi trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.
2. Bùi Ngọc Dung (1964), Jean Paul Sartre từ hiện sinh đến biện chứng, Tạp chí Văn học, số 20, 21,
tháng 6, 7/1964.
3. Đinh Hồng Phúc (2018), Thomas Flynn, Chủ nghĩa hiện sinh Dẫn luận ngắn, NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh
4. Hà Mậu Nhai (1966), Những độc tố trong thứ văn học phục vụ chiến tranh tâm lý của Mỹ và tay sai
ở miền Nam, Tạp chí Văn học, số 7, tr.95-101, Sài Gòn.
5. Huỳnh Như Phương (2008), Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện
lý thuyết), Tạp chí Văn học, số 9.
6. Nguyễn Hồng Nhung dịch (2014), Một giọt từ sự đọa đày (hai mươi hai tiểu luận triết học), NXB
Tri thức, Hà Nội.
7. Nguyễn Thái Hoàng (2016), Dấu ấn chủ nghĩa nghĩa sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại, Luận
án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội.
8. Nguyễn Thị Hoàng (2021), Tuần trăng mật màu xanh, NXB Hội Nhà văn.
9. Nguyễn Tiến Dũng, Võ Anh Tuấn (2015), Một số vấn đề cần thống nhất khi nghiên cứu về chủ
nghĩa hiện sinh, Thông tin Khoa học xã hội, số 7, Viện thông tin.
10. Thụ Nhân (2016), Jean - Paul Sartre, Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản, NXB Tri thức.
11. Thích Đức Nhuận (1965), “Vào đạo Phật qua lối ngõ J. P. Sartre”, Tạp chí Vạn Hạnh, số 6, Sài Gòn
12. Trần Nhật Thu (2016), Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến 2010, Luận án
tiến sĩ văn học Việt Nam, Đại học Huế trường đại học Khoa học.
13. Trần Văn Tồn (2000), Vị trí của trào lưu hiện sinh trong lịch sử triết lý, Tạp chí Dòng Việt, Hoa Kỳ.
14. Vũ Đình Lưu (1965), Nền tảng đạo đức luận của Sartre và Camus, Tạp chí Văn, số 25, Sài Gòn.

477




×