Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Không gian văn hóa triều Nguyễn trong tiểu thuyết Từ Dụ Thái Hậu của Trần Thùy Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.39 KB, 7 trang )

KHƠNG GIAN VĂN HĨA TRIỀU NGUYỄN
TRONG TIỂU THUYẾT TỪ DỤ THÁI HẬU CỦA TRẦN THÙY MAI
Nguyễn Văn Tường1
1. Email:
TÓM TẮT
Nhà văn có nhiều cách để xây dựng nhân vật, như đặt nhân vật vào tình huống truyện,
khắc họa tâm lý, nội tâm nhân vật... Với tiểu thuyết lịch sử Từ Dụ Thái Hậu, Trần Thùy Mai tái
hiện không gian văn hóa triều Nguyễn để nhân vật xuất hiện một cách tự nhiên chân thực. Nhà
văn khai thác văn hóa dân gian xứ Huế, kết hợp phục dựng văn hóa cung đình triều Nguyễn với
những tục lệ thú vị độc đáo, nhờ đó câu chuyện về cuộc đời nhân vật Phạm Thị Hằng – Từ Dụ
thái hậu với bao cay đắng và vinh quang trong chốn hậu cung nhà Nguyễn trở nên chân thực
sinh động hấp dẫn. Cùng với hư cấu chi tiết lịch sử, khai thác không gian văn hóa triều Nguyễn
là cách thức chủ yếu để xây dựng nhân vật của nhà văn trong bộ tiểu thuyết này. Nghệ thuật
xây dựng nhân vật góp phần làm nên thành công của bộ tiểu thuyết cung đấu hiếm hoi trong
văn học Việt Nam.
Từ khóa: Khơng gian văn hóa triều Nguyễn, Trần Thùy Mai, nghệ thuật xây dựng nhân
vật, tiểu thuyết lịch sử, Từ Dụ Thái Hậu, văn hóa dân gian xứ Huế.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Không gian thường xuất hiện trong tác phẩm văn chương là không gian bối cảnh. Không
gian bối cảnh là môi trường hoạt động của nhân vật, một địa điểm có tên riêng hay khơng có
tên riêng, trong đó có đủ cả thiên nhiên, xã hội và con người. Nó là điều kiện cần thiết cho mọi
sự kiện, mọi hoạt động, mọi phạm vi thế giới. Khi một tác phẩm văn chương ra đời nó địi hỏi
có sự kết hợp giữa tình và cảnh, chính những khung cảnh thiên nhiên tạo nên sự chân thật và
yếu tố thu hút người đọc. Không gian chính là môi trường tồn tại của con người: dịng sơng,
cánh đồng, ngọn núi, đèo xa, biển cả... Không gian là nơi nhà văn triển khai sự kiện, biến cố, là
chỗ cho nhân vật hoạt động. Không gian trong văn học là không gian nghệ thuật. Khơng gian
đó khơng phải ngẫu nhiên như trong đời sống mà do nghệ sĩ chọn để thể hiện ý đồ nghệ thuật.
Không gian ứng với một cách sống riêng biệt của con người. Chính nhờ vào những cảnh quan
đó mà người đọc hiểu rõ hơn về thiên nhiên xứ Huế, về cuộc sống của con người nơi đây, đồng
thời đó cũng là nơi mà nhân vật xuất hiện, thể hiện được mình, trong khơng gian đó nhân vật
tồn tại, hành động và bộc lộ tính cách.


2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Để nghiên cứu Khơng gian văn hóa triều Nguyễn trong
tiểu thuyết Từ Dụ Thái Hậu của Trần Thùy Mai, chúng tơi vận dụng phương pháp phê bình văn
học từ góc nhìn văn hóa, phê bình cảnh quan. Phương pháp này giúp chúng tôi gắn kết giữa tác
phẩm với cái nơi văn hóa ra đời của tác phẩm, dùng các giá trị văn hóa để cắt nghĩa văn học;
493


đối chiếu với lịch sử văn hóa triều Nguyễn để có những phân tích xác định những yếu tố lịch
sử, văn hóa nào được nhà văn khai thác trở thành đặc điểm nghệ thuật trong xây dựng nhân vật
của nhà văn Trần Thùy Mai. Ngoài ra, tác giả sử dụng kết hợp các thao tác như một phương
pháp nghiên cứu cơ bản của văn học: so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá, phân loại để làm
rõ các vấn đề nghiên cứu cần giải quyết đáp ứng nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra của đề tài.
3. NỘI DUNG
3.1. Không gian văn hóa dân gian và tâm thức cộng đồng xứ Huế
Trong buổi ra mắt sách tại Huế, nhà văn Trần Thùy Mai chia sẻ: “Mai viết cuốn tiểu
thuyết này bằng tất cả những gì Mai biết về Huế, bằng tất cả những nỗi nhớ Huế mà Mai mang
theo” (Diệu Hà, 2019). Đọc tiểu thuyết Từ Dụ thái hậu, người đọc thích thú và dễ chịu khi được
“sống” trong khơng khí một Huế xưa, với thiên nhiên, cảnh vật, con người và văn hóa đặc trưng.
Từ những danh lam thắng cảnh xứ Huế: hồ Tịnh Tâm, đàn Nam Giao, vườn Thượng Uyển,
chùa Thiên Mụ, phá Tam Giang... đến cảnh chợ búa bình dị của người dân kinh thành vào buổi
sáng bên dịng sơng Hương được x́t hiện đều khắp trong tác phẩm.
Nhà văn biết cách sắp đặt cho các cảnh vật, phong tục, đời sống đặc sắc của Huế xuất hiện
tự nhiên, khắp đều trong tác phẩm, gắn với nhân vật và diễn biến câu chuyện. Bạn đọc xuýt xoa
với cảnh trăng nước sông Hương đêm trăng rằm với bao ngọn đèn ngũ sắc thả xuống, chùa Thiên
Mụ trong lễ trai đàn cầu siêu cho tiên đế Gia Long do thái trưởng cơng chúa Ngọc Tú chủ tế. Điện
Hịn Chén với tục lên đồng gắn với nhân vật cô đồng Tuệ Linh kiên cường dám kết tội thái hoàng
thái hậu Trần Thị Đang. Quán ăn Âm Phủ nổi tiếng từ xưa hiện ra trong đêm với sự nhóm họp
bàn tính sát hại Tự Đức của bốn người trong nhóm tơn phị Hồng Bảo… Những món ăn đặc sắc
của Huế đều được nhắc đến như bánh phu thê, bánh ít lá gai, chè hạt sen, chè kê, món canh cá
kình phá Tam Giang chữa bệnh mất ngủ... Những dòng miêu tả chi tiết món bánh ít lá gai làm rất

khéo: “Lớp vỏ bánh bằng bột nếp thơm sánh mịn, quyện lá gai giã nhuyễn đen nhánh, lấm tấm
mè rang thơm giòn, nhụy bánh đậu xanh ngọt thanh dẻo mềm, và lớp nhân dừa bùi béo bên trong”
(Trần Thùy Mai, 2019a). Những chi tiết tuy nhỏ nhưng vừa gợi ra cuộc sống, con người chốn
kinh kỳ thời ấy, vừa được sử dụng trong việc gắn kết nhân vật, làm nên tình tiết câu chuyện. Chiếc
bánh lá gai nhỏ bé không ngờ trở thành vũ khí trong tay Nhị phi để làm nhục Tam phi, ép hoàng
thượng phải xử phạt người tỳ nữ Hạnh Thảo và tên đội Thượng thiện; vì nó có nguồn gốc từ Bình
Định, gợi quê hương của triều Ngụy Tây, của hồng hậu Ngọc Bình.
Nhà văn khéo léo đưa vào những câu ca dao thân thuộc một thời của người dân, thú vị
nhất là những bài ca nói về món ăn:
Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bơng lí, nấu chè hạt sen
Ca dao dân ca là thế mạnh của Trần Thùy Mai, bởi chị đã có hơn mười năm giảng dạy,
nghiên cứu, sưu tầm. Nhưng nhà văn không lạm dụng giới thiệu nhiều, chỉ trích dẫn những bài,
những đoạn thú vị mà mọi người ít biết đến:
Cá nục nấu với dưa hồng
Đánh nhau một trận coi chồng về ai?
494


Những bài ca dao, bài vè của xứ Huế được lựa chọn trích dẫn tạo sự phong phú cho câu
chuyện, như bài vè chế giễu tình cảnh các nhà quan cưới công chúa làm dâu thật đắc địa cho
cảnh nhà đại quan Lê Văn Duyệt rước nhầm nàng công chúa ngớ ngẩn:
...Hay chi thuốc điếu trầu phong,
Dâu con chẳng rước, rước ông rước bà.
Chân giày chân dép vô ra,
Kêu dâu cũng lỡ, kêu bà khó kêu....
Tri thức văn hóa được đan xen đều khắp trong tác phẩm, cả văn hóa dân gian lẫn cung đình,
bác học. Tạo cho tác phẩm có bầu khơng khí vừa chân thực vừa đặc sắc. Nhà văn chú ý giới thiệu
nét riêng trong phong tục lối sống Huế xưa như tục phóng sanh sau khi qua hoạn nạn, đốt vàng
mã - hình nhân thế mạng cho người chết oan, chuyện lên đồng ở điện Huệ Nam, chuyện lập trai

đàn cầu siêu cho người mất bên bờ sơng Hương... Những câu nói cửa miệng một thời chỉ phổ
biến ở Huế như “đưa con vô Nội biết đời nào ra”. Cả những quan niệm nhà quan khi cưới thê
khác cưới thiếp một thời, giờ ít ai biết đến cũng được nhắc lại: “Thú thê dụng đức, thú thiếp dụng
sắc” tức cưới vợ phải dựa trên đức hạnh, cưới hầu thiếp mới cần dựa trên nhan sắc!
Tác giả khá tiết chế trong việc miêu tả không gian văn hóa Huế, mỗi một cảnh vật dù
độc đáo, tiêu biểu cũng chỉ xuất hiện một lần và vừa đủ để nhân vật trở nên sinh động, câu
chuyện diễn ra chân thực. Sông Hương đêm trăng đẹp huyền ảo chỉ hiện ra một lần với những
ngọn đèn nến thả xuống giữa dòng “cứ như một trời sao lênh đênh trên mặt nước” cho đôi bạn
trẻ Miên Tông - Thị Hằng buổi đầu gặp gỡ. Cảnh ca Huế trên sông Hương thơ mộng với tiếng
đàn tuyệt kỹ của “đệ nhất danh cầm” Đẩu Nương, làm lay động lịng chàng cơng tử Nguyễn
Văn Ninh, suýt khiến chàng mở lòng tri âm. Những phương ngữ đặc trưng của người dân xứ
Huế: méc, mô, ri, răng, rứa, mi, mụ, già khằn, xuôi xị, hâm đi hâm lại nhiều lần,... cũng được
sử dụng với tần suất vừa phải. Chỉ những nhân vật gốc Huế, hay những nhân vật bình dân, nhà
văn mới để những phương ngữ ấy thốt ra tự nhiên, vừa thú vị nhưng cũng vừa để cho bạn đọc
vùng khác hiểu được.
Tóm lại, chính khơng gian thấm đẫm văn hóa đặc trưng vùng đất núi Ngự sơng Hương
nên thơ đã làm mềm hóa cuộc chiến tàn khốc nơi cung đình, vừa khiến nhân vật trở nên sinh
động, chân thực. Đọc tiểu thuyết, bạn đọc như được về với vùng đất cố đô và đi thăm kinh thành
Huế xưa.
3.2. Khơng gian văn hóa cung đình mang tính gia trưởng và thân phận nữ giới
Rõ ràng, trong Từ Dụ Thái Hậu, nhà văn ý thức sâu sắc việc tái hiện văn hóa cung đình
nhà Nguyễn. Chính nhà văn chia sẻ trong một cuộc giao lưu rằng: “Trong truyện ngắn, tơi chọn
viết những gì tơi đã biết, đã cảm xúc và nếm trải... tác giả có thể dễ dàng lướt qua những gì
mình khơng biết, khơng thích. Trái lại trong tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết lịch sử, khơng thể
như thế được. Cái gì mình khơng biết thì phải tìm hiểu cho đến khi biết tường tận” (Quỳnh Chi,
2019). Cách làm việc cẩn trọng ấy và kinh nghiệm nghiên cứu, biên tập giúp chị có những trang
viết giá trị, đầy phát hiện như một nhà khảo cứu. Ví như chiếc bánh ít lá gai từ trong Bình Định
mang ra, cịn bánh phu thê thì có vốn gốc ngoài Bắc, do hoàng hậu Ngọc Hân khi lấy Quang
Trung, vô Huế làm dâu mới đem theo vô đây. Độc giả u thích tìm hiểu kiến thức văn hóa dân
tộc, văn hóa Huế sẽ thu được nhiều điều thú vị khi đọc xong tiểu thuyết lịch sử này.

495


Đọc Từ Dụ Thái Hậu, nhiều bạn đọc lần đầu biết đến những tục lệ thú vị độc đáo chỉ có
trong cung đình nhà Nguyễn, mà nay đã khơng cịn. Nhà văn không đi sâu tái hiện chi tiết đầy
đủ các điển phạm tục lệ rườm rà, mà điểm qua những nét riêng thú vị bất ngờ, từ quan - hôn tang - tế đến cả lệ tuyển cung nữ, chuyện phòng the của vua. Cứ ba năm một lần, triều đình ban
lệnh tuyển cung nữ ngay sau rằm tháng giêng. Nhà dân có con gái từ 13 đến 16 tuổi chưa chồng
phải kê khai để nữ quan về xem xét lựa chọn. Vì thế nhà dân đua nhau gả con gái trước tết, tạo
thành mùa cưới trong dân gian. Chuyện nạp phi của hồng tử Miên Tơng, chuyện hạ giá của
công chúa Tĩnh Hảo; chuyện tráo người trong đám cưới của Lê Yên, Hồng Bảo; chuyện sắc
phong cho Hồ thị, lễ tấn phong cho Hoàng quý phi. Để được nhập cung, người con gái phải
được Ổn bà và nữ quan khám xét cơ thể xem có cịn trinh tiết hay khiếm khuyết không. Cung
nữ trước khi tiến vua hàng ngày phải tắm bằng sữa lừa, uống sâm và quế, xông trầm hương trộn
với hoắc hương để chống độc, trừ tà. Thái giám bưng khay thẻ ghi tên họ và tước hiệu của cung
nữ, vua chọn thẻ nào thì “Một chiếc kiệu trống tiến đến dưới thềm, có bốn nữ phu khiêng kiệu
và hai cung nữ xách lồng đèn đi hai bên. Một thái giám trẻ đi trước dẫn đường, cùng nhau đi
đón quý nhân về điện” (Trần Thùy Mai, 2019a). Nhà văn chú ý tái hiện những tục lệ văn hóa
cung đình mang đậm tính gia trưởng nhằm vừa tăng tính chân thực, vừa ngầm ý lên án chế độ
cung tần mỹ nữ thời phong kiến. Thân phận người cung nữ hiện ra tội nghiệp, như vật dụng
mua vui cho nhu cầu trần tục của vua. Chuyện vua ngự bà nào cũng được thái giám ghi chép
lại. Nhà văn không quên ghi chép theo cách tính lịch truyền thống, tạo cảm giác chân thực lạ
lùng: Ngày Canh Tý, tháng Ngọ, đầu giờ Tý, hoàng thượng cho vời Quý nhân Nguyễn Thị Bảo.
Khảo sát tồn bộ tiểu thuyết, chúng tơi nhận thấy nhà văn đã đan cài thông tin văn hóa
một cách tự nhiên, sinh động, vừa đủ cho bạn đọc hiểu rõ đời sống đầy quy củ đến ngột ngạt ở
chốn cung đình triều Nguyễn, vừa lên án chế độ cung tần hà khắc bất nhân. Bởi đó là văn hóa
mang tính gia trưởng, chỉ phục vụ cho các ông hoàng bà chúa. Tác giả miêu tả, tạo dựng khơng
gian văn hóa vừa vặn để cho nhân vật x́t hiện hoặc câu chuyện diễn ra. Đúng như nhận xét
của nhà văn Trần Chiến: “Đây chính là sự cân nhắc về liều lượng, có cảm giác chỗ nào cũng
được chị tính rất kỹ” (Trần Chiến, 2019). Nhất là ở những chương chưa có xung đột căng thẳng,
những diễn biến bất ngờ, như: tục triều đình tuyển cung nữ (chương 1), nguồn gốc những món

bánh (chương 2), lệ để tang khi hoàng đế, hoàng hậu qua đời (chương 8), lễ truyền lô và vinh
danh tân khoa (chương 12), cảnh đàn chay ở chùa Thiên Mụ cầu siêu cho tiên đế Gia Long
(chương 16), lễ nạp phi (chương 32), đêm nguyên tiêu trong hoàng cung (chương 40), lễ tấn
phong Hoàng quý phi (chương 64), tiệc thơ ở phủ Tùng Thiện (chương 68)... Cách một vài
chương, nhà văn mới bài trí không gian văn hóa để làm dịu cuộc chiến quyền lực nơi cung đình.
Ở những chương mà tình tiết truyện chậm rãi, tri thức và khơng gian văn hóa lại được bày ra
như tách trà cung đình lắng dịu mới người đọc thưởng thức. Để giới thiệu chế độ giai tần trong
nội cung, tác giả khéo léo khi để nhân vật thái giám giảng giải cho cung nữ Lê Thị Ái sau lần
đầu tiến vua: cho dù có được vua sủng ái, cũng phải trình tự xếp hạng qua chín bậc gọi là Cửu
giai, cũng như quan lại có cửu phẩm: phi - tần - tiệp dư - quý nhân - mỹ nhân - tài nhân. Trình
tự xếp hạng ấy cịn cho thấy hành trình gian khổ và thân phận người cung nữ chốn hậu cung.
Tác giả cũng cho biết lệ để tang của dân chúng khi có vua, hồng hậu mất từ thời trước đến thời
chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Lệ vua x́t hành dân phải quay mặt khơng được nhìn vào đoàn
ngự giá. Sau giờ Tuất, tất cả thái giám, cung nữ, cấm binh đều phải tuyệt đối im hơi nín tiếng.
Ai ra vào cung phải có thẻ bài khắc hai chữ “nhập nội”. Luật lệ trong cung, không trang điểm
496


mà ra mắt hồng thượng là “mắc tội”, cái gì khuyết tật, khơng hồn hảo thì khơng được ra mắt
vua. Vì thế mà Ngọc Ngơn, đứa con gái của Tam phi với Gia Long hoàng đế, bị bệnh ngớ ngẩn
từ lúc mới sinh ra, khơng được vua cha nhìn thấy mặt, dù “mỗi tháng hoàng đế ngự ở cung Tam
phi vài mươi đêm! Cách lương y thăm khám bệnh cho cung tần phải gián tiếp qua “dải lụa quấn
vào tay thị qua màn”, khơng được trực tiếp sợ “phạm đến danh tiết người đàn bà trong nội
đình”. Chuyện cung tần phải từ Tiệp dư trở lên mới được chết trong hồng thành, cịn lại ra
Bình An đường nằm chờ chết cho bạn đọc thấy rõ thân phận bọt bèo của cung tần mỹ nữ.
Nhà văn đã phải dành khơng ít cơng sức, tâm huyết tìm hiểu và tái hiện những tri thức văn
hóa cung đình, cả tục lệ nơi thâm cung bí sử mà ngày nay đã bị mai một. Để độc giả có được cảm
giác là câu chuyện và các nhân vật hiện ra như thật, không phải là sắp đặt của tác giả, không phải
là kể lại lịch sử, mà là được sống, đang sống trong hoàng cung nhà Nguyễn thời hồng kim. Đó
là trang phục cung đình trong cảnh phong tước cơng của hai hồng tử Miên Tơng và Miên Hoằng:

hồng tử mang áo gấm đỏ thêu rồng bốn móng, áo vua thì màu vàng với thêu rồng năm móng, áo
hồng hậu thêu chim phụng, hai thái giám bưng hai khay trên có quả ấn và giây thao trao cho hai
hoàng tử. Chuyện Ổn bà và cung nữ kiểm tra thân thể Hằng trước khi nhập cung. Chuyện trang
điểm, chải tóc, ăn uống, tụng kinh niệm Phật của Thái hậu. Nhà văn dành gần cả chương truyện
Lễ tế Nam Giao để tái hiện khơng khí trang nghiêm của lễ tế đàn Nam Giao do vua chủ tế, vua
phải lên Trai cung ăn chay nằm đất để tỏ lịng chí thành với hồng thiên. Chỉ có hồng tử hồng
tơn từ mười tuổi trở lên mới được theo đồn thượng ngự! Phụ nữ khơng ai được có mặt ở đây.
Tất cả “đều mặc áo nhiễu đỏ thắt lưng đen, đầu chit khăn, chân mang hia đen”, được ở tại nhà
Quan Cư phía dưới Nhân Đàn, phải trang nghiêm kính cẩn. Trong ngày Tiên hưởng ấy, ở tế đàn
ấy chỉ có đổ huyết của tam sinh trâu, dê, lợn để tế trời. Tái hiện khung cảnh trang nghiêm và thanh
tịnh ấy, tiếng sấm mới trở thành là sự tương thông linh cảm giữa trời và vua, thêm lời tâu của
Hồng Nhậm khiến vị vua nghiêm khắc như Minh Mạng dừng tay giết Bạch Hào tử, nhận ra Bạch
Hào tử là con mình với Quý nhân Nguyễn Thị Bảo. Phải dụng công tái hiện không gian chân thực
như thế, câu chuyện hư cấu về cậu bé Bạch Hào tử được nhận là hồng tử thứ mười, được vua
cho xây tịa phủ bên bờ sơng An Cựu nên thơ để đón mẹ - Quý nhân Nguyễn Thị Bảo về ở cùng,
mới có sức thuyết phục, làm nổi bật cốt cách lãng mạn của nhà thơ xứ Huế. Bởi Tùng Thiện
vương Miên Thẩm (1819-1870) là nhà thơ nổi danh đất kinh kỳ, chủ soái của thi đàn Mặc Vân
thi xã nức tiếng mà mọi người đều biết. Rõ ràng, chất liệu văn hóa làm nền cho những hư cấu
tưởng tượng thêm hấp dẫn và thú vị. ). Ở những tình huống, sự việc cần hư cấu, sáng tạo, ta thấy
nhà văn thường huy động tri thức văn hóa, tái hiện khơng gian văn hóa để tăng tính chân thực,
thuyết phục. Chỉ đọc một câu nói của Minh Mạng khi cho Miên Thẩm ra lập phủ để đón mẹ về ở
cũng cho thấy sự kết hợp hài hịa giữa tri trức văn hóa nâng đỡ yếu tố hư cấu: “Tuần trước trẫm
đi săn, qua song An Cựu thấy hai bên bờ xanh tươi, phong cảnh rất nên thơ. Trẫm sẽ cho xây một
tòa phủ ở đó riêng cho Miên Thẩm, cho phép nó đón mẹ về ở cùng.” “Hãy cho thảo chiếu nói rõ
lệnh trẫm: Các hồng tử Trường Khánh cơng Miên Tơng,Vĩnh Tường công Miên Hoằng,Thọ
Xuân công Miên Định, Ninh Thuận công Miên Nghi, Phú Mỹ cơng Miên Phú…tất thảy các hồng
tử đã phương trưởng đều được ơn cho ra mở phủ riêng. Riêng hoàng tử thứ mười là Miên Thẩm
dù chưa đủ tuổi nhưng do hoàn cảnh đặc biệt nên cũng cho mở phủ để tiện việc học tập” (Trần
Thùy Mai, 2019b). Tác giả tìm hiểu sâu kỹ phủ Tùng Thiện vương bên bờ sông An Cựu, tiểu sử,
tước hiệu các con vua Minh Mạng (có ghi rõ trong Đại Nam liệt truyện) để hư cấu nên câu chuyện

về tuổi thơ ly kỳ của cậu bé Bạch Hào tử.
497


Có cả nhũng lĩnh vực khơng thuộc thế mạnh của nhà văn, như y học và võ thuật cũng được
nghiên cứu cơng phu chính xác. Bài thuốc chữa động thai nơi cung cấm của quan Thái y: tục
đoan, tăng ký sinh, củ gai, đương quy, đỗ trọng, a giao, hoàng kỳ, cam thảo... khác xa bài thuốc
dân gian dùng lá ngải cứu. Thuật “nhiếp tâm” mà Đăng Quế dạy cho hồng trưởng tử Miên Tơng
chiến thắng Miên Hoằng trong cuộc thi bắn cung. Kỹ thuật cưỡi ngựa, bắn tên. Đến cả việc chăm
sóc cho ngựa chiến cho ăn lúa với mật ong trước khi thi đấu. Cảnh tết Nguyên tiêu trong hoàng
cung được tái hiện rất sinh động. “Cung nữ đi lại vội vã trên hành lang, người bưng mâm bánh
quả, người cầm tráp, cầm quạt, có các thái giám đi theo bưng giá nến soi đường... thị nữ soạn sẵn
lồng ấp, khi nào nghe ba hồi trống thì cùng nhau ra chỗ lò lửa lớn trước điện Càn Thành, xin lửa
về phòng, rồi mới thắp đèn lại”. Bởi đêm Nguyên tiêu, trời đất tốt lành, hoàng thượng ban lửa tức
ban khí dương cho tất cả cung nga thể nữ’ (Trần Thùy Mai, 2019a). Ngay cả kiến thức về nhân
tướng phụ nữ dễ mê hoặc đàn ông cũng được nhắc lại bằng thơ chữ Hán:
Hung cao điến kiệu,
Yêu tế kiên hàn,
Thân như phong liễu,
Hạc thoái phong yêu.
Khiến nhân vật Cam Lộ ngơ ngác khơng hiều gì cả, Nhị phi phải giải nghĩa cho Cam Lộ,
cũng là cho bạn đọc.
Khai thác thơ ca nghệ thuật để tái tạo không gian văn hóa cung đình thời Nguyễn là thế
mạnh của Trần Thùy Mai. Nhà văn tái hiện khơng khí sinh hoạt thơ ca với những thi sĩ tài danh
chốn kinh thành: Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh, Cao Bá Qt,
Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Nhược Thị Bích... Khơng giới thiệu nhiều tác phẩm tác giả, chỉ
cần miêu tả một đêm hội ngộ của các văn nhân nghệ sĩ chốn kinh kỳ ở phủ Tùng Thiện đã làm
sống không khí văn chương một thời “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất
Thịnh Đường”. Các gương mặt tài danh được xuất hiện một cách tự nhiên sống động trong tiệc
vui của chủ nhân Mặc Vân thi xã: Quý nhân Nguyễn Thị Bảo được phục hồi địa vị Chiêu nghi

và dịp đầy tháng bé Thể Cúc. Tái tạo không gian văn chương ấy để cho bài thơ “Răng và lưỡi”
vang lên cùng tiếng đàn của Đẩu Nương một cách hòa quyện tha thiết khi cảm thương về cái
chết của hoàng tử trưởng Hồng Bảo:
Ta ra đời trước, chú chưa sinh,
Chú phận làm em, ta phận anh.
Ngọt bùi sao chẳng cùng chung hưởng
Cốt nhục mà sao nỡ dứt tình!
Bài thơ được gắn vào danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh, rồi cơ bé Nguyễn Nhược Thị Bích vơ
tư đọc lên càng xoáy sâu nỗi đau thiên cổ của thái hậu Từ Dụ và vua Tự Đức. Dẫu cho Đăng
Quế phân minh, thái hậu và vua hết sức khoan dung, thiên hạ cũng nghi ngờ cái chết âm thầm
trong ngục của Hồng Bảo là do Tự Đức. Chỉ cần lựa chọn và đặt đúng chỗ một bài thơ ngắn,
nhà văn đã cho thấy sức mạnh và lý lẽ phán xét riêng của dân chúng, của dư luận về cái chết
của Hồng Bảo. Nhà văn đã xử lý khéo léo trong việc huy động tri thức văn hóa để phục vụ ý
đồ ý nghệ thuật.
498


4. KẾT LUẬN
Tóm lại, nhà văn vận dụng chất liệu văn hóa phong phú, đan xen cả văn hóa dân gian lẫn
văn hóa cung đình triều Nguyễn giúp nhân vật trong tiểu thuyết Từ Dụ Thái Hậu hiện ra chân
thực, sinh động, có chiều sâu. Đồng thời, khơng gian văn hóa cung đình mang đậm tính gia
trưởng càng làm nổi bật thân phận bọt bèo tội nghiệp của người phụ nữ sống trong cung cấm
nhà Nguyễn nói riêng, trong các triều đại phong kiến nói chung. Bạn đọc yêu thích văn hóa dân
tộc sẽ có những tri thức bổ ích, những khám phá thú vị về triều Nguyễn, về Huế cố đơ. Đồng
thời, cách khai thác văn hóa có chọn lọn, dẫn dắt tinh tế làm nên phong cách riêng trong tiểu
thuyết của Trần Thùy Mai. Ở tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh dành cả bốn trang
giấy nói về lai lịch hội thề Đồng Cố, hơn cả chừng ấy trang để miêu tả cảnh hội thề. Ông miêu
tả thành Tây đô với những kích thước cụ thể… như một nhà biên khảo văn hóa - lịch sử. Đến
Mẫu Thượng Ngàn, nhà văn dành hơn cả hàng chục trang để miêu tả tín ngưỡng Mẫu, về phong
tục làm đám ma cho người chết trùng tang (bà cả vợ lý Cỏn)… Chúng ta thấy Trần Thùy Mai

không đi sâu tái hiện trọn vẹn, bài bản nguồn gốc hay diễn tiến các tập tục, mà chỉ lựa chọn giới
thiệu nét đặc sắc, nhằm làm nổi bật đời sống cung đình một thời mà nhân vật đang sống. Ở Từ
Dụ Thái Hậu, chất khảo cứu được thể hiện tinh tế, trở thành tính giải trí thú vị cho tác phẩm,
mà nhà văn Hồng Quốc Hải gọi là “chất Huế”: “Văn hóa phong tục được gói gọn trong các lễ
nghi giao tiếp, trong các sinh hoạt cung đình và dân dã được mơ tả rất tinh tế, rất Huế. Từ Dụ
Thái Hậu là một cuốn tiểu thuyết lịch sử hấp dẫn và trung thực lạ lùng” (Hoài Phương, 2019).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia.
2. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu).
Hà Nội: Trường viết văn Nguyễn Du.
3. Nguyễn Xuân Khánh (2000), Hồ Quý Ly. TP. HCM: NXB phụ nữ.
4. Nguyễn Xuân Khánh (2005), Mẫu thượng ngàn. TP. HCM: NXB phụ nữ.
5. Nguyễn Xuân Khánh (2011), Đội gạo lên chùa. TP. HCM: NXB phụ nữ.
6. Nguyễn Thế Quang (2012), Nguyễn Du. Hà Nội: NXB Văn học.
7. Nguyễn Thế Quang (2014), Thông reo Ngàn Hống. TP. HCM: NXB Trẻ.
8. Nguyễn Quang Thân (2020), Hội thề. Hà Nội: NXB Văn học.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn (2014a), Đại Nam liệt truyện, tập 1,2. Huế: NXB Thuận Hóa.
10. Quốc sử quán triều Nguyễn (2014b), Đại Nam liệt truyện, tập 3,4, NXB Thuận Hóa, Huế.
11. Bùi Việt Thắng (2006), Tiểu thuyết đương đại. Hà Nội: NXB Quân đội nhân dân.
12. Nguyễn Văn Tùng (2009), Lí luận về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX. Hà Nội: NXB Giáo dục VN.
13. Nguyễn Thị Kim Tiến (2014), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Hà Nội: NXB
ĐHQG Hà Nội.
14. Phương Anh (2019): Ra mắt tiểu thuyết Từ Dụ thái hậu của nhà văn Trần ThùyMai. Tạp chí sơng
Hương. />15. Quỳnh Chi (2019), Nhà văn Trần Thùy Mai: “Thuần Việt” để thu hút bạn đọc trẻ”. Giáo dục thời
đại. />
499




×