Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo "Về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.08 KB, 5 trang )



xây dựng pháp luật
38 - tạp chí luật học



ths. Bùi Kiên Điện *
1. So sánh với một số biện pháp ngăn
chặn khác nh bắt, tạm giữ, tạm giam thì
bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn có tính ít
nghiêm khắc hơn và sự hiện diện của nó
trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
là biểu hiện cụ thể của t tởng dân chủ
hóa các hoạt động tố tụng hình sự của
Đảng và Nhà nớc ta. Là biện pháp ngăn
chặn mới đợc quy định trong BLTTHS
và lần đầu tiên đợc áp dụng trong thực
tiễn tố tụng hình sự ở nớc ta nên còn
nhiều vấn đề đặt ra cần phải xem xét. Tuy
nhiên, việc tổng kết thực tiễn áp dụng
biện pháp bảo lĩnh cha đợc các ngành
chức năng tiến hành khiến các cơ quan
tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn
hoặc lúng túng khi áp dụng biện pháp
này.
2. Trong thời gian qua, tỉ lệ các vụ án
hình sự trong đó có áp dụng biện pháp
bảo lĩnh hầu nh không đáng kể. Theo
các tác giả Nguyễn Mai Bộ và Nguyễn
Vạn Nguyên thì trong số 72 vụ án với 126


bị can, bị cáo đợc nghiên cứu chỉ có 7
trờng hợp đợc bảo lĩnh, chiếm tỉ lệ
5,5%, trong đó bảo lĩnh cá nhân chiếm
2,8% và nét đặc biệt của việc áp dụng
biện pháp này trong thực tiễn là bảo lĩnh
cá nhân hầu nh chỉ đợc áp dụng đối với
bị can, bị cáo cha thành niên
(1)
. Thực
trạng nêu trên không thể coi là sự phủ
nhận tính hợp lí, ý nghĩa thực tiễn của
biện pháp bảo lĩnh đối với quá trình tố
tụng hình sự mà chính là đòi hỏi phải sớm
hoàn thiện những nội dung của chế định
này.
3. Sự thiếu hoàn thiện và đồng bộ của
pháp luật là một trong những nguyên
nhân làm giảm hiệu quả của công tác
quản lí nhà nớc và đấu tranh phòng
chống tội phạm. Điều này cũng đúng với
thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn
chặn nói chung, biện pháp bảo lĩnh nói
riêng. Trên cơ sở phân tích những vớng
mắc của việc áp dụng biện pháp đó ở
những năm qua, chúng tôi cho rằng cần
phải cụ thể hóa trong BLTTHS hoặc trong
văn bản dới luật một số nội dung cơ bản
sau:
Trớc hết, cần xác định rõ những đối
tợng nào có thể áp dụng biện pháp bảo

lĩnh. Trong Điều 75 BLTTHS hiện hành,
vấn đề quan trọng này không đợc quy
định cụ thể nên gây khó khăn không ít
cho việc áp dụng biện pháp đó đồng thời
dễ dẫn đến tình trạng áp dụng một cách
tùy tiện. Do bảo lĩnh là biện pháp ngăn
chặn có tính ít nghiêm khắc hơn so với
một số biện pháp ngăn chặn khác nên
theo logic thông thờng, nó chỉ có thể
đợc áp dụng đối với những bị can, bị cáo
phạm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân
* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng Đại học luật Hà Nội


Xây Dựng pháp luật
tạp chí luật học - 39

tốt, có nơi c trú rõ ràng và có ngời hoặc
tổ chức đủ uy tín làm đơn xin bảo lĩnh.
Ngoài ra, theo quy định của khoản 2 Điều
70 BLTTHS thì bị can, bị cáo là phụ nữ
có thai hoặc đang trong thời kì nuôi con
dới 12 tháng, là ngời già yếu, ngời bị
bệnh nặng mà có nơi c trú rõ ràng, trừ
trờng hợp đặc biệt thì không tạm giam
mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Theo chúng tôi, với những đối tợng này,
việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh (hoặc
cấm đi khỏi nơi c trú) là phù hợp hơn cả.

T tởng này cần đợc phản ánh trong
nội dung của điều luật về bảo lĩnh.
Thứ hai, cần quy định cụ thể về điều
kiện của ngời đợc nhận bảo lĩnh. Cho
nhận bảo lĩnh là một trong những hình
thức động viên sự tham gia tích cực của
các cá nhân hoặc tổ chức vào quá trình
điều tra, xử lí vụ án hình sự. Nhận bảo
lĩnh là quyền chứ không phải là nghĩa vụ
của các cá nhân hoặc tổ chức. Các cá
nhân hoặc tổ chức có quyền xin nhận bảo
lĩnh cho bị can, bị cáo nhng đồng thời
họ cũng có quyền từ chối làm việc đó.
Chỉ khi nào các cá nhân hoặc tổ chức đ
tự nguyện nhận bảo lĩnh cho bị can, bị
cáo thì quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
giữa họ và Nhà nớc mà đại diện là các
cơ quan tiến hành tố tụng ở các giai đoạn
tơng ứng mới xuất hiện và chỉ khi đó họ
mới có nghĩa vụ thực hiện các cam kết
đợc quy định tại Điều 75 BLTTHS. Nói
cách khác, đối với cá nhân hoặc tổ chức
đợc nhận bảo lĩnh thì ý chí của họ cũng
phải đợc xem là một trong những điều
kiện để quyết định cho họ đợc nhận hay
không đợc nhận bảo lĩnh. Các cơ quan
tiến hành tố tụng không thể bắt cá nhân
hoặc tổ chức nào đó phải nhận bảo lĩnh
cho bị can, bị cáo. Hiện nay, trong thực tế
áp dụng biện pháp này còn tồn tại quan

điểm trái với logic vừa trình bày. Cụ thể,
theo hớng dẫn của Tòa án nhân dân tối
cao thì một trong những biện pháp để
khắc phục tình trạng hon phiên tòa là
sau khi nhận đợc hồ sơ vụ án, đối với bị
cáo cha thành niên đang tại ngoại thì
thẩm phán đợc phân công chủ tọa phiên
tòa triệu tập bị cáo và ngời đại diện hợp
pháp của họ đến trụ sở tòa án và khi ấy,
"ngời đại diện hợp pháp phải bảo lĩnh
cho bị cáo và cam đoan bảo đảm bị cáo
có mặt theo giấy triệu tập của tòa án"
(2)
.
Nh vậy, theo hớng dẫn đó, ngời đại
diện hợp pháp của bị cáo cha thành niên
có nghĩa vụ phải nhận bảo lĩnh cho bị
cáo, không cần quan tâm tới việc họ có tự
nguyện làm việc đó hay không. Cách giải
quyết vấn đề nh vậy xét theo quan điểm
đ trình bày ở trên, không thể coi là hợp
lí. Điều này chứng tỏ tính có căn cứ của
nhận xét về sự lệch lạc trong thực tế áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
ngời cha thành niên cần đợc chấn
chỉnh kịp thời là hình nh các cán bộ làm
công tác thực tiễn đ quên mất sự hiện
diện của Điều 274 BLTTHS quy định về
"việc giám sát bị can, bị cáo cha thành
niên" và do đó hầu nh không áp dụng nó

trong thực tiễn tố tụng hình sự.
Ngoài ra, để đạt đợc mục đích của
việc áp dụng biện pháp này là bảo đảm
cho bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội
và có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan
tiến hành tố tụng, bản thân cá nhân hoặc
tổ chức nhận bảo lĩnh phải có đủ khả
năng thực hiện đợc nghĩa vụ đ cam kết


xây dựng pháp luật
40 - tạp chí luật học

khi nhận bảo lĩnh. Đó là điều kiện quan
trọng, không thể thiếu mà chủ thể nhận
bảo lĩnh phải có để biện pháp này mang
tính khả thi. Đối với trờng hợp cá nhân
nhận bảo lĩnh thì tất yếu họ phải là ngời
đ thành niên, có đủ uy tín với ngời
đợc bảo lĩnh, đủ khả năng thực hiện
nghĩa vụ đ cam đoan chứ không thể là
ngời cha thành niên hay ngời có phẩm
chất đạo đức, t cách xấu, có tiền án, tiền
sự, không có uy tín đối với bị can, bị cáo
mà họ nhận bảo lĩnh
(3)
. Hiện nay, có ý
kiến cho rằng quy định bảo lĩnh cá nhân
ít nhất phải có hai ngời nh Điều 75
BLTTHS hiện hành là " vừa thừa, vừa

không đúng về mặt ngữ nghĩa làm cho
nó biến thành hình thức bảo lĩnh tập thể"
nên đề nghị bỏ quy định này
(4)
. Theo
chúng tôi, ý kiến trên không thuyết phục
bởi khi có hai ngời hoặc nhiều hơn đứng
ra nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo thì khả
năng giám sát hành vi, t cách của bị can,
bị cáo, không để họ tiếp tục phạm tội, bảo
đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập
của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa
án nh mục đích mà biện pháp này cần
đạt đợc sẽ có tính hiện thực cao hơn
nhiều khi số ngời nhận bảo lĩnh chỉ là
một ngời. Xét về thực chất, số lợng
ngời nhận bảo lĩnh hoàn toàn không ảnh
hởng đến bản chất của hình thức bảo
lĩnh, bởi mỗi ngời nhận bảo lĩnh đều có
trách nhiệm nh nhau với nghĩa vụ đ
cam đoan và phải chịu trách nhiệm độc
lập về việc vi phạm nghĩa vụ đ cam đoan
đó của mình. ở đây, không có sự san sẻ
nghĩa vụ đối với bị can, bị cáo đợc bảo
lĩnh cũng nh không có việc những ngời
cùng nhận bảo lĩnh phải chịu trách nhiệm
về sự vi phạm nghĩa vụ đ cam đoan của
những ngời nhận bảo lĩnh khác. Ngoài
ra, điều đó ở mức độ nhất định còn có tác
dụng về mặt tâm lí đối với bị can, bị cáo.

Tác giả Nguyễn Vạn Nguyên đ nhận xét
rất đúng rằng: "Việc quy định trong luật
về số ngời bảo lĩnh có ảnh hởng đối với
chính bị can, bị cáo, bởi vì bảo lĩnh của
hai ngời hoặc nhiều hơn tạo ra cho bị
can, bị cáo cảm thấy trách nhiệm lớn hơn
bảo lĩnh của một ngời"
(5)
.
Đối với trờng hợp bảo lĩnh tập thể thì
vấn đề cần làm rõ ở đây là có phải bất kì
tổ chức nào cũng có quyền nhận bảo lĩnh
cho bị can, bị cáo hay chỉ những tổ chức
mà trong đó bị can, bị cáo đ hoặc đang
làm việc mới có quyền này
(6)
. Khi bảo
lĩnh tập thể thì cả tập thể, tổ chức mới có
quyền xem xét và thông qua quyết định
bảo lĩnh cho bị can, bị cáo hay là cơ quan
đợc bầu ra của tổ chức đó cũng có
quyền này, hình thức thông qua quyết
định đó ra sao? Những vấn đề trên nếu
không đợc quy định cụ thể trong điều
luật về bảo lĩnh hay hớng dẫn cụ thể
trong văn bản dới luật khác sẽ gây khó
khăn cho việc áp dụng chế định đó trong
thực tiễn.
Thứ ba, vấn đề trách nhiệm của những
cá nhân hoặc tập thể nhận bảo lĩnh cho bị

can, bị cáo nhng lại vi phạm nghĩa vụ đ
cam kết cần phải xử lí nh thế nào?
Trong thực tế, khi ngời đợc bảo lĩnh
tiếp tục phạm tội hoặc không có mặt theo
giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án thì họ sẽ bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác nghiêm khắc hơn là


Xây Dựng pháp luật
tạp chí luật học - 41

tạm giam. Vì vậy, đối với cá nhân hoặc tổ
chức nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo
nhng lại vi phạm nghĩa vụ đ cam đoan
thì vấn đề trách nhiệm của họ cũng cần
phải đợc đặt ra và giải quyết một cách
khoa học. Hiện nay, trong Điều 75
BLTTHS, phần quy định về trách nhiệm
của các cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh bị
can, bị cáo nhng lại vi phạm nghĩa vụ
cam đoan cha đợc quy định cụ thể.
Đoạn 2 của điều luật chỉ quy định: "Cá
nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh phải
chịu trách nhiệm về vi phạm nghĩa vụ
cam đoan" còn trách nhiệm đó là trách
nhiệm gì thì điều luật không quy định rõ.
Trong lĩnh vực dân sự, theo Điều 366
Bộ luật dân sự, khi một ngời đứng ra
nhận bảo lnh cho ngời khác mà ngời

đợc bảo lnh đó không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình
thì ngời bảo lnh phải có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ thay cho ngời mà
mình đ nhận bảo lnh. Trong quá trình
giải quyết các vụ án hình sự nếu vấn đề
trách nhiệm của ngời nhận bảo lĩnh
không đợc quy định cụ thể trong
BLTTHS và thực hiện nghiêm túc trong
thực tế thì biện pháp này không thể phát
huy tác dụng tích cực đối với hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử. Về vấn đề này,
có ý kiến cho rằng tùy theo tính chất của
sự vi phạm có thể áp dụng trách nhiệm
vật chất, trách nhiệm hành chính hoặc
trách nhiệm hình sự đối với ngời nhận
bảo lĩnh nhng lại vi phạm nghĩa vụ đ
cam đoan
(7)
. Theo chúng tôi, đề xuất của
tác giả Nguyễn Vạn Nguyên có tính
thuyết phục hơn cả, nghĩa là khi cá nhân
hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh nhng lại vi
phạm nghĩa vụ đ cam kết thì cần áp
dụng trách nhiệm vật chất đối với họ. Khi
ấy, họ có thể bị tòa án phạt số tiền đợc
xác định dựa trên tính chất, mức độ thiệt
hại mà bị can, bị cáo đ gây ra trong thực
tế
(8)

. Đây là cách giải quyết vấn đề hoàn
toàn hợp lí và t tởng của nó có thể tìm
thấy trong luật tố tụng hình của một số
nớc khác
(9)
.
Liên quan đến trách nhiệm của ngời
nhận bảo lĩnh cần phải giải quyết vấn đề
nhỏ nữa là liệu khi cá nhân hoặc tổ chức
đ nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo thì họ
có quyền xin ngừng việc bảo lĩnh hay
không? Trách nhiệm của họ trong trờng
hợp này đợc giải quyết nh thế nào?
Nh đ trình bày ở trên, bảo lĩnh dù dới
hình thức nào - cá nhân hay tập thể đều
đợc tiến hành trên cơ sở tự nguyện của
ngời bảo lĩnh. Khi họ nhận thấy không
đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ đ cam
kết, họ hoàn toàn có quyền xin ngừng
việc bảo lĩnh và đề nghị giải phóng khỏi
nghĩa vụ mà họ đ cam kết thực hiện
trớc đây. Khi ấy, theo chúng tôi, ngời
đ nhận bảo lĩnh phải làm đơn xin ngừng
việc bảo lĩnh và giao bị can, bị cáo cho cơ
quan tiến hành tố tụng đ quyết định áp
dụng biện pháp này. Trong trờng hợp ấy,
trách nhiệm của ngời nhận bảo lĩnh
không cần thiết phải đặt ra. Nếu việc xin
ngừng bảo lĩnh đợc tiến hành sau khi bị
can, bị cáo đ thực hiện hành vi phạm tội

mới, bỏ trốn, không có mặt theo giấy
triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, tòa án, gây khó khăn hoặc thiệt hại
đáng kể cho quá trình điều tra, xử lí vụ án
thì trách nhiệm của ngời bảo lĩnh sẽ
đợc giải quyết theo tinh thần đ đợc


xây dựng pháp luật
42 - tạp chí luật học

trình bày trớc đó, tức là họ phải chịu
trách nhiệm vật chất về sự vi phạm nghĩa
vụ đ cam kết thực hiện khi nhận bảo
lĩnh. Nếu khi bị can, bị cáo bỏ trốn,
không có mặt theo giấy triệu tập của cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án nhng
cha thực hiện hành vi phạm tội mới, gây
khó khăn hoặc thiệt hại đáng kể cho quá
trình điều tra, xử lí vụ án và ngời bảo
lĩnh đ kịp thời tự mình giải bị can, bị cáo
giao lại cho cơ quan tiến hành tố tụng
hoặc tích cực giúp cơ quan tiến hành tố
tụng làm việc đó thì ngời bảo lĩnh có thể
không phải chịu trách nhiệm vật chất nh
các trờng hợp khác.
Theo kinh nghiệm của nhiều nớc
trên thế giới, bảo lĩnh cùng với đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là
những biện pháp ngăn chặn đợc áp dụng

khá phổ biến và có hiệu quả không nhỏ
trong quá trình tố tụng hình sự. Để biện
pháp này thực sự phát huy tốt tác dụng
tích cực của nó đối với quá trình điều tra,
xử lí vụ án hình sự, tránh tình trạng lúng
túng hoặc tùy tiện khi áp dụng biện pháp
đó nh hiện nay, cần kịp thời bổ sung
một số nội dung cơ bản đ nêu vào Điều
75 BLTTHS hiện hành hoặc ban hành
thông t liên ngành hớng dẫn cụ thể việc
áp dụng biện pháp đó vào thực tiễn tố
tụng hình sự. Việc kịp thời bổ sung Điều
75 BLTTHS sẽ làm tăng hiệu quả của chế
định bảo lĩnh./.


(1).Xem: Nguyễn Mai Bộ, Những biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự. Nxb. Chính trị quốc gia,
H. 1997, tr. 114; Nguyễn Vạn Nguyên, Các biện pháp
ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của
chúng. Nxb. Công an nhân dân, H. 1995, tr. 188.

(2).Xem: Báo cáo sơ kết công tác 5 tháng đầu năm
1989 của TANDTC - Các văn bản về hình sự, dân sự
và tố tụng 1990, tr.154.
(3).Theo Điều 94 BLTTHS Cộng hòa liên bang Nga
thì đó là "ngời đáng tin cậy" và đợc hiểu là ngời
bằng sự lao động và t cách trung thực của mình tạo
ra đợc sự tôn trọng trong tập thể nơi làm việc hoặc
c trú và có khả năng thực tế không chỉ đảm bảo sự

có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập mà cả t
cách đúng mực của họ.
(4).Xem: Phạm Thanh Bình, Biện pháp bảo lĩnh trong
tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí TAND số 9/1995,
tr. 12.
(5).Xem: Nguyễn Vạn Nguyên, Sđd, tr.138.
(6). Theo quy định của Luật tố tụng hình sự Cộng hòa
liên bang Nga thì chỉ những tổ chức hoặc tập thể mà
bị can đ hoặc đang làm việc, đ hoặc đang là thành
viên mới có thể đợc nhận bảo lĩnh. Trong trờng hợp
đặc biệt, tổ chức hoặc tập thể khác quan tâm tới số
phận của bị can cũng có thể đợc nhận bảo lĩnh. Ví
dụ: Những tổ chức hoặc tập thể mà trong đó có cha
mẹ hoặc con cái của bị can đang làm việc (Bình luận
Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Nga, Nxb.
Sách pháp lí, 1976, tr.152).
(7).Xem: Đinh Trọng Toàn, Một kẽ hở của quy định
về bảo lĩnh - Tạp chí Pháp chế XHCN số 7/8/1991,
tr.13
(8).Xem: Nguyễn Vạn Nguyên, Sđd, tr. 140-141.
(9).Điều 94 BLTTHS Cộng hòa liên bang Nga 1987
quy định: Khi cá nhân bảo lĩnh không thực hiện đúng
cam kết thì mỗi ngời nhận bảo lĩnh sẽ bị tòa án phạt
đến 100 rúp hoặc bị áp dụng các biện pháp tác động
x hội khác. Nxb. Sách pháp lí, 1987.
Điều 112 BLTTHS Thái Lan quy định: Nếu cam
kết bảo lĩnh bị vi phạm, ngời bảo lĩnh phải nộp một
số tiền nhất định (Bộ luật tố tụng hình sự Thái Lan,
Viện khoa học - Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
H.1995).

×