Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Báo cáo " Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng theo điều 25 Luật Hôn nhân gia đình " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.27 KB, 3 trang )



nghiên cứu - trao đổi
22 - Tạp chí luật học





ThS.Trần Thị Huệ *
hực tế đời sống hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ) ở nớc ta hiện nay cùng với
sự đổi mới của pháp luật về dân sự, thơng
mại, đất đai, tài chính đ tác động và ảnh
hởng sâu sắc đến các quan hệ HN&GĐ. Bởi
vậy, Luật HN&GĐ cần phải đợc sửa đổi, bổ
sung nhằm đảm bảo tính thống nhất trong hệ
thống pháp luật, đặc biệt là phù hợp với các
nguyên tắc của Bộ luật dân sự (BLDS) liên
quan đến lĩnh vực HN&GĐ.
Đáp ứng nhu cầu này, Nhà nớc ta đ
tiến hành sửa đổi một cách tơng đối toàn
diện Luật HN&GĐ năm 1986.
Luật sửa đổi và bổ sung Luật HN&GĐ
đợc Quốc hội Khoá X, kì họp thứ 7 thông
qua ngày 9/06/2000 và có hiệu lực pháp luật
từ ngày 01/01/2001, Luật này thay thế luật
HN&GĐ năm 1986.
Luật HN&GĐ năm 2000 đ quy định
nhiều vấn đề mới phù hợp với điều kiện kinh
tế - x hội và thực tế đời sống HN&GĐ ở


nớc ta trong giai đoạn hiện nay. ở bài viết
này, chúng tôi đề cập vấn đề trách nhiệm liên
đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một
bên thực hiện. Điều 25 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định: "Vợ hoặc chồng phải chịu
trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự
hợp pháp do một trong hai ngời thực hiện
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
của gia đình". Đây là nội dung về nghĩa vụ
tài sản của vợ, chồng mà Luật HN&GĐ năm
1959 và năm 1986 của Nhà nớc ta cha quy
định cụ thể.
Theo luật định, kể từ khi kết hôn, quan
hệ vợ chồng đợc xác lập. Nội dung của
quan hệ pháp luật giữa vợ chồng bao gồm:
+ Các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa
vợ chồng (nghĩa vụ thơng yêu, chung thuỷ,
quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ; quyền lựa chọn nơi c trú; nghề nghiệp,
quyền tham gia hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hoá - x hội; giữ gìn danh dự, nhân
phẩm, uy tín cho nhau ).
+ Các quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ
chồng (quyền và nghĩa vụ đối với tài sản
thuộc sở hữu chung hợp nhất; quyền và nghĩa
vụ cấp dỡng lẫn nhau; quyền thừa kế tài sản
của nhau ).
Theo nguyên tắc hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình
đẳng (Điều 64 Hiến pháp 1992) thì "vợ

chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về
mọi mặt trong gia đình và trong giao dịch
dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no,
bền vững, hoà thuận, hạnh phúc" (Điều 36
BLDS).
Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng
quy định: "Vợ chồng có nghĩa vụ và quyền
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và
trong giao lu dân sự, cùng nhau xây dựng
gia đình ấm no, bền vững, hoà thuận, hạnh
phúc".
Nh vậy, do mục đích và tính chất đặc
biệt của quan hệ hôn nhân là vợ chồng cùng
ăn ở, chung sống lâu dài, bền vững mà quan
hệ vợ chồng là sự "liên kết vĩnh cửu" giữa
một ngời đàn ông và một ngời đàn bà,
T

* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 23

trong đó vợ chồng cùng có trách nhiệm vun
đắp hạnh phúc gia đình, có trách nhiệm với
nhau, với các con và các thành viên khác. Vì
thế, thông thờng mọi "công việc" mà họ
thực hiện đều xuất phát từ lợi ích chung của

gia đình xét cả về cơ sở đạo đức và yêu cầu
của pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng
theo Luật HN&GĐ năm 2000 cũng bao gồm
chế độ tài sản chung và tài sản riêng. Khoản
1 Điều 27 Luật HN&GĐ quy định: " Tài
sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung
hợp nhất" và đó cũng là chế độ "cộng đồng
tạo sản". Chế độ cộng đồng tạo sản có đặc
điểm là kể từ khi kết hôn, những tài sản do
vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân;
những tài sản mà vợ chồng đợc tặng cho
chung, đợc thừa kế chung đều thuộc khối
tài sản chung của vợ chồng; không phân biệt
công sức đóng góp của mỗi bên. Vợ, chồng
có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
ngang nhau đối với tài sản chung
(1)
. Với tính
chất đặc thù của quan hệ HN&GĐ, khoản 3
Điều 233 BLDS còn quy định: "Vợ chồng
cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho
nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung". Trờng hợp tài sản chung của vợ
chồng không đủ để đáp ứng các nhu cầu sinh
hoạt thiết yếu của gia đình mà vợ, chồng có
tài sản riêng thì phải sử dụng tài sản riêng
vào đời sống chung của gia đình (khoản 4
Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Theo tính
chất của quan hệ vợ chồng đợc xác lập,
trong suốt thời kì hôn nhân (là thời gian quan

hệ vợ chồng tồn tại, tính từ khi kết hôn cho
đến khi hôn nhân chấm dứt trớc pháp luật),
để bảo đảm thoả mn nhu cầu của vợ chồng,
của con cái và các thành viên trong gia đình
về vật chất cũng nh tinh thần thì họ phải
tham gia kí kết nhiều loại hợp đồng dân sự
với các chủ thể khác mà pháp luật không thể
kiểm soát, bắt buộc vợ, chồng mỗi khi kí kết
hợp đồng lại phải có sự thoả thuận, đồng ý,
thậm chí bằng văn bản có chữ kí của cả hai
vợ chồng. Vì vậy, luật chỉ quy định trên
nguyên tắc: Tài sản chung của vợ chồng
đợc chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia
đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ
chồng. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung
có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất
của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu
t kinh doanh, phải đợc vợ chồng bàn bạc,
thoả thuận (Điều 28 Luật HN&GĐ năm
2000). Cũng với nội dung này, tại Điều 15
Luật HN&GĐ năm 1986 đ quy định: "Tài
sản chung đợc sử dụng để bảo đảm những
nhu cầu chung của gia đình. Vợ chồng có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài
sản chung. Việc mua, bán, đổi, cho, vay,
mợn và những giao dịch khác có liên quan
đến tài sản mà có giá trị lớn, thì phải đợc
sự đồng ý của vợ chồng".
Nh vậy, cần hiểu rằng vợ hoặc chồng sử

dụng tài sản chung để bảo đảm nhu cầu đời
sống chung của gia đình thì đơng nhiên
đợc coi là đ có sự thoả thuận của cả hai
vợ chồng. Về vấn đề này, theo tinh thần của
Nghị quyết số 01/NQ - HĐTP ngày
20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC thì: "Vợ hoặc chồng sử dụng tài
sản chung của gia đình đợc đơng nhiên coi
là có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng.
Nhng việc mua, bán hoặc cho vay, mợn và
những giao dịch khác có giá trị lớn nh nhà
ở, gia súc chăn nuôi (nh trâu bò ), t liệu
sinh hoạt có giá trị lớn (nh máy thu hình, tủ
lạnh, xe máy ) thì phải có sự thoả thuận của
cả hai vợ chồng. Nếu là việc mua, bán, cầm
cố tài sản mà pháp luật quy định phải có hợp
đồng viết (nh mua, bán nhà ở) thì vợ chồng
đều phải kí vào hợp đồng và nếu chỉ có một
bên kí thì phải có sự uỷ nhiệm của vợ, chồng
cho mình kí thay".


nghiên cứu - trao đổi
24 - Tạp chí luật học

Đến nay, hớng dẫn này về cơ bản vẫn phù
hợp với thực trạng của quan hệ HN&GĐ, bảo
đảm đợc quyền bình đẳng của vợ chồng. Vì
vậy, chúng tôi thấy rằng vẫn có thể vận dụng
trong thực tiễn. Hơn nữa, đến thời điểm này

TANDTC cũng cha có nghị quyết mới nào
hớng dẫn để thay thế. Vả lại, Luật HN&GĐ
năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 đều quy
định chế độ tài sản chung của vợ chồng là chế độ
"cộng đồng tạo sản".
Nh vậy, theo quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000, khi vợ chồng thực hiện
giao dịch dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt thiết yếu của gia đình thì pháp luật luôn
coi là đ có sự thoả thuận đơng nhiên của cả
hai vợ chồng và phải chịu trách nhiệm liên
đới, tức là nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch
dân sự do một bên vợ hoặc chồng thực hiện
vì nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình sẽ
đợc đảm bảo bằng tài sản chung của vợ
chồng; và nếu tài sản chung của vợ chồng
cha đủ thì vợ hoặc chồng (nếu có tài sản
riêng) phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài
sản riêng của mình. Có thể nói rằng quy định
tại Điều 25 Luật HN&GĐ năm 2000 là bớc
cụ thể hoá về nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.
Theo quy định tại Điều 25 Luật HN&GĐ
năm 2000, khi vợ, chồng thực hiện quyền sở
hữu của mình đối với tài sản chung (tham gia
các giao dịch mua, bán, vay, mợn, cầm
cố ) vì đời sống chung của gia đình, vì nhu
cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình mặc dù
giao dịch đó chỉ do một bên vợ, chồng thực
hiện với ngời thứ ba thì pháp luật luôn coi
là đ có sự thoả thuận, đồng ý của cả hai vợ

chồng. Hợp đồng đó phải đợc coi là phù
hợp với pháp luật. Tài sản chung của vợ
chồng phải đợc bảo đảm cho việc thực hiện
hợp đồng, tức là, vợ chồng phải chịu trách
nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp
pháp do vợ, chồng thực hiện nhằm bảo đảm
nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình; và
nh vậy, quyền lợi của ngời thứ ba tham gia
xác lập hợp đồng liên quan đến tài sản chung
của vợ chồng mới đợc bảo đảm trớc pháp
luật. Vợ, chồng không thể nói rằng hợp đồng
mà ngời chồng (vợ) kí kết với ngời khác vì
lợi ích chung của gia đình (dù cha có sự bày
tỏ ý chí thoả thuận, đồng ý của vợ (chồng)
thì hợp đồng đó không có giá trị (vô hiệu).
Trong trờng hợp này, tài sản chung của vợ
chồng sẽ đợc bảo đảm cho việc thực hiện
hợp đồng, mặc dù, ngời vợ (chồng) kia
"cha có dịp" bày tỏ ý chí của mình.
Ví dụ: T và H là vợ chồng. T đ vay của
M 2 triệu đồng để chữa bệnh cho con trong
thời gian H đi công tác. Theo Điều 25 Luật
HN&GĐ năm 2000, nghĩa vụ trả 2 triệu
đồng cho M là nghĩa vụ chung của T và H.
Tuy nhiên, cần phải làm sáng tỏ "nhu cầu
sinh hoạt thiết yếu của gia đình" là nh thế
nào? bao gồm những gì? theo chúng tôi,
"nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình" là
những nhu cầu về ăn, ở, đi lại, nâng cao nghề
nghiệp, chữa bệnh, học hành, nuôi dạy con

Nghĩa là, việc chi dùng cho những nhu cầu
sinh hoạt là hết sức cần thiết để bảo đảm cho
cuộc sống chung của cả gia đình đợc diễn
ra một cách bình thờng và phải đợc bảo
đảm bằng tài sản chung của vợ chồng. Nếu
Điều 25 Luật HN&GĐ năm 2000 đợc cụ
thể hoá hơn nữa sẽ góp phần khắc phục đợc
tình trạng vợ, chồng lợi dụng "điều luật" để
trốn tránh trách nhiệm hoặc gây thiệt hại làm
ảnh hởng đến quyền lợi về tài sản của ngời
chồng (vợ) kia; giúp các cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền áp dụng pháp luật chính xác và
thống nhất./.

(1)
.
Xem: - Điều 233 Bộ luật dân sự.
- Điều 27, 28 Luật HN&GĐ năm 2000.

×