Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo "Một số ý kiến về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.42 KB, 5 trang )



nghiªn cøu - trao ®æi
15
T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003





TS. NguyÔn Minh §oan *
ư pháp với nghĩa là phán xử xuất hiện
từ rất sớm như là nhu cầu tất yếu của
đời sống cộng đồng con người. Bởi lẽ, trong
quá trình hoạt động sản xuất, trao đổi, sinh
hoạt cùng nhau của con người không thể
tránh khỏi những tranh chấp cần được phán
xử, giải quyết công bằng giữa các bên. Nói
cách khác, khi các bên có tranh chấp mà
không tự giải quyết được thì họ có nhu cầu
tìm đến người mà họ cho là vô tư, khách
quan, có khả năng đưa ra những kết luận
đúng đắn, công bằng cho các bên, được các
bên chấp nhận để nhờ phán xử. Chủ thể có
vai trò phán xử có thể là bất kì cá nhân nào
hay tổ chức xã hội hoặc cơ quan nhà nước mà
hiện nay chủ yếu là toà án. Hoạt động phán
xử do toà án tiến hành luôn dựa trên cơ sở
pháp luật và các chính sách của Nhà nước.
Một trong những yêu cầu không thể
thiếu trong hoạt động tư pháp là khách


quan, vô tư, công bằng. Do vậy, tư pháp
phải là người “cầm cân, nảy mực” công
bằng. Không phải ngẫu nhiên những người
tham gia vào các hoạt động tư pháp được
coi là những người đại diện công lí, người
bảo vệ công lí.
Công tác tư pháp ở nước ta thời gian qua
đã có nhiều biến chuyển tích cực, về tổ chức
và bộ máy các cơ quan tư pháp đã được điều
chỉnh cho phù hợp hơn, việc giải quyết các
vụ án, vụ việc ngày càng chính xác và khách
quan hơn. Các hoạt động tư pháp đã phục vụ
đắc lực cho việc giải quyết những tranh chấp
trong xã hội, bảo vệ chế độ xã hội, quyền
làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, bảo vệ trật tự pháp luật Bên cạnh
những thành tựu đó thì công tác tư pháp ở
nước ta cũng còn nhiều điều bất cập như
năng lực của một số cán bộ tư pháp, nhất là
ở các địa phương vẫn còn hạn chế, thủ tục tố
tụng còn phức tạp, rườm rà tạo ra tâm lí e
ngại của nhân dân nói chung, của các nhà
đầu tư cả trong và ngoài nước nói riêng về
giải quyết các tranh chấp tại các cơ quan tài
phán Việt Nam, việc thi hành các quyết định
hoặc bản án của toà án rất khó khăn và chậm
chạp làm cho niềm tin vào công lí bị hạn
chế. Tình hình đó đòi hỏi tư pháp phải được

cải cách theo hướng xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Vì lẽ đó Nghị quyết
Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn
mạnh: “Cải cách tổ chức, nâng cao chất
T

* Giảng viên chính Khoa hành chính - nhà nước
Trường đại học luật Hà Nội


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003

16

lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan
và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt,
giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không
để xảy ra những trường hợp oan, sai”.
(1)

Cải cách tư pháp ở nước ta phải nằm
trong tổng thể việc thực hiện quyền lực nhà
nước thống nhất nhưng có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Trong nhà nước pháp quyền, vị
trí, vai trò của pháp luật được đề cao, do vậy

tư pháp là người bảo vệ pháp luật cũng phải
được đề cao. Lập pháp có nhiệm vụ ban
hành luật, hành pháp có nhiệm vụ tổ chức
thi hành luật còn tư pháp có nhiệm vụ bảo
vệ luật, do vậy tư pháp cần phải có vị trí, vai
trò xứng đáng trong cơ chế thực hiện quyền
lực nhà nước thống nhất. Tư pháp cũng cần
phải thực hiện sự kiểm soát cần thiết đối với
lập pháp và hành pháp. Vì lẽ đó việc cải
cách tư pháp sẽ rất khó khăn bởi việc cải
cách tư pháp theo tinh thần xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa sẽ không
thể không đụng chạm tới lập pháp và hành
pháp. Tuy nhiên, việc đề cao vai trò của tư
pháp chỉ có nghĩa là tạo cho tư pháp những
khả năng thực hiện đầy đủ quyền năng vốn
có của nó, làm cho quyền lực nhà nước
thống nhất trở nên đầy đủ, mạnh mẽ và có
hiệu lực cao hơn. Từ đó cũng cho thấy việc
cải cách các cơ quan tư pháp phải nằm trong
tổng thể cải cách bộ máy nhà nước ta.
Nói tới tư pháp là nói tới công tác xét xử
và những hoạt động phục vụ hoặc liên quan
trực tiếp tới hoạt động xét xử. Trong nhà
nước pháp quyền hoạt động tư pháp không
chỉ dừng lại ở việc xem xét tư pháp đối với
hoạt động của các tổ chức, hành vi của các
cá nhân trong xã hội mà còn phải bao gồm
cả việc xem xét tư pháp đối với các văn bản
pháp luật trái với Hiến pháp và đối với các

văn bản điều chỉnh tổ chức và hoạt động của
các tổ chức xã hội trái với đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Việc xem xét hoạt động của các tổ chức,
hành vi của các cá nhân khi có tranh chấp
hoặc xảy ra vi phạm pháp luật là bắt buộc
đối với tất cả các chủ thể (tất cả các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị
kinh tế, các lực lượng vũ trang, công dân và
các chủ thể pháp luật khác) trừ những chủ
thể được quyền miễn trừ. Chẳng hạn như ở
nước ta, đối với đại biểu Quốc hội khi không
có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời
gian Quốc hội không họp, không có sự đồng
ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì không
được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội
Hoạt động xem xét tư pháp đối với các
văn bản pháp luật (kể cả văn bản quy phạm
pháp luật và văn bản pháp lí cá biệt) và văn
kiện của các tổ chức xã hội khác chỉ tiến
hành khi có tranh chấp (có khiếu kiện) hoặc
vi phạm. Có như vậy thì mới tránh được
những tranh chấp liên quan đến việc ban
hành, đến nội dung của các văn bản pháp
luật, văn bản của các tổ chức xã hội và mới
bảo đảm được tính tối cao của Hiến pháp -
một trong những yêu cầu cơ bản của nhà
nước pháp quyền.
Hoạt động tư pháp là loại hoạt động
quyền lực đòi hỏi có tính chuyên sâu về

chuyên môn. Do vậy, để xem xét tư pháp đối
với các hành vi và các văn bản pháp luật có


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 5/2003 17

vi phm n Hin phỏp ũi hi chỳng ta
phi thnh lp U ban bo hin hoc To ỏn
hin phỏp. U ban bo hin hay To ỏn hin
phỏp khụng phi l c quan ng trờn hoc
ngang hng vi Quc hi hay cỏc c quan
cao cp khỏc ca Nh nc m nú ch l c
quan chuyờn mụn cú nhim v phõn x
nhng tranh chp cú liờn quan n Hin
phỏp. Vic thnh lp c quan ny theo
chỳng tụi khụng cú gỡ phng hi n v trớ,
vai trũ ca cỏc c quan khỏc trong b mỏy
Nh nc ta hin nay m ngc li, nú s
gúp phn bo m tớnh thống nht ca h
thng phỏp lut, bo m tớnh ti cao ca
Hin phỏp v nguyờn tc phỏp ch xó hi
ch ngha.
Mt trong nhng nguyờn tc v ũi hi
quan trng ca nh nc phỏp quyn l
quyn t phỏp phi c coi trng, tớnh c
lp ca t phỏp phi c bo m, to ỏn
phi d tip cn. Tuy nhiờn, s c lp, vụ
t ca cỏc c quan t phỏp ch cú c trờn
thc t khi to lp c c ch t chc v

hot ng thớch hp. Ngha l, s c lp
ca cỏc c quan t phỏp cn c bo m
c v mt phỏp lớ v mt thc t, c v t
chc ln trong hot ng. Phi lm sao
khi xột x, thm phỏn c lp v ch tuõn
theo phỏp lut; mi t chc, c quan, cỏ
nhõn khụng th can thip c vo quỏ trỡnh
ra quyt nh, bn ỏn ca thm phỏn.
Cuc sng liờn tc phỏt trin, cỏc quan
h xó hi ngy cng tr nờn phc tp, nhu
cu cn n s phỏn quyt phõn x ngy
cng nhiu, ũi hi phm vi thm quyn ca
cỏc c quan xột x phi c m rng. Nh
trờn ó trỡnh by, trong i sng c mi khi
cú tranh chp v vn gỡ ú m cỏc bờn
khụng t gii quyt c thỡ buc phi mi
ngi phỏn x. Chớnh vỡ th, vic ci cỏch t
phỏp hin nay nc ta nờn theo hng m
rng phm vi cỏc vn c quyn phỏn
quyt cho cỏc c quan t phỏp. Thm chớ cú
th cho phộp t phỏp trong phm vi thm
quyn ca mỡnh cú th gii quyt bt c v
vic no m ngi dõn hay cỏc t chc cn
n s giỳp ca t phỏp min l khụng
trỏi vi cỏc quy nh ca phỏp lut hin
hnh. Chng hn, thi gian qua, tin hnh
cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ hu ht cỏc
d ỏn ln cỏc a phng khỏc nhau u
rt khú khn v lỳng tỳng trong vic gii
phúng mt bng. Theo iu 23 Hin phỏp

1992 thỡ: Ti sn hp phỏp ca cỏ nhõn, t
chc khụng b quc hu hoỏ. Trong trng
hp tht cn thit vỡ lớ do quc phũng, an
ninh v vỡ li ớch quc gia, Nh nc trng
mua hoc trng dng cú bi thng ti sn
ca cỏ nhõn, t chc theo giỏ th trng.
Nh vy, khi ti sn (c bit l nh )
hp phỏp ca ngi dõn ri vo tỡnh trng
phi di chuyn gii phúng mt bng,
ng nhiờn xut hin vic bi thng thit
hi cho ngi dõn. Rt tic l Nh nc
khụng trc tip thu hi ri giao li cho ch
u t m Nh nc ch ra quyt nh thu
hi cũn vic bi thng thỡ do ch u t
trc tip lm vic vi ngi dõn. Trong rt
nhiu trng hp, bờn u t thỡ cho rng
bi thng nh th l ó tho ỏng, theo giỏ
th trng nhng bờn c bi thng thỡ
cho rng mc bi thng nh vy l cha
tho ỏng, hai bờn c tranh cói m khụng i
n thng nht, gõy ra s chm tr cho tin


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 5/2003

18

độ thi công công trình và thiệt hại rất lớn cho
chủ đầu tư. Trong trường hợp này theo chúng

tôi cách giải quyết nhanh, gọn và có hiệu quả
nhất là Nhà nước - người đã giao đất cho các
tổ chức và cá nhân sử dụng thì cũng chính
Nhà nước phải đứng ra thu hồi (bao gồm cả
việc bồi thường cho chủ thể đang sử dụng)
rồi giao lại cho chủ đầu tư và thu ở chủ đầu
tư tiền bồi thường mà Nhà nước đã phải bỏ
ra và tiền liên quan đến việc sử dụng đất của
chủ đầu tư hoặc là Nhà nước chỉ ra quyết
định thu hồi và cấp đất còn việc tranh chấp
giữa các bên về mức bồi thường thì để cho
cơ quan tài phán giải quyết. Nghĩa là, khi có
tranh chấp về mức bồi thường (đền bù), một
trong hai bên có quyền khởi kiện tại toà án,
toà án sẽ phán quyết về tranh chấp đó và khi
quyết định của toà án đã có hiệu lực thì buộc
các bên phải thi hành. Trong trường hợp một
bên nào đó không tự giác thực hiện quyết
định của toà án thì có thể bị cưỡng chế thi
hành. Đương nhiên tư pháp phải luôn hoạt
động trên cơ sở pháp luật, bảo đảm sự công
bằng và lẽ phải.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân thì
tư pháp phải phục vụ nhân dân song thiết
nghĩ trong giai đoạn hiện nay ngoài việc
phục vụ nhân dân thì có thể cho phép tư
pháp thực hiện dịch vụ cho nhân dân khi họ
cần đến tư pháp. Do vậy, việc mở rộng
phạm vi các vấn đề thuộc quyền phán xử của
tư pháp theo chúng tôi là cần thiết. Tuy

nhiên, Nhà nước cũng cần phải có những
biện pháp nhất định để các vụ việc mà người
dân cần tới sự phán xử của tư pháp là thật sự
xứng đáng, cần thiết và có hiệu quả nhất. Để
thực hiện được việc này theo chúng tôi trong
hoạt động tư pháp có lẽ cũng nên chia ra
“việc công” là những việc liên quan đến đời
sống cộng đồng (công quyền và quyền tham
gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội) và
“việc tư” là những việc chỉ liên quan đến
quyền lợi tư nhân. Nếu là “việc công” thì
Nhà nước sẽ chi phí toàn bộ để phục vụ
nhân dân, còn nếu là “việc tư” thì đương sự
phải chi trả, khi này Nhà nước thực hiện
dịch vụ cho đương sự.
Xét về mặt tâm lí thì người Việt Nam
không thích và chưa có thói quen giải quyết
các tranh chấp bằng con đường toà án, điều
này có nguyên nhân là trước đây trong chế
độ phong kiến và thực dân, toà án thường
đối lập với người dân lao động, nó chủ yếu
bảo vệ lợi ích của các giai cấp bóc lột, vì thế
toà án là nơi xa lạ đối với người dân, thông
thường người dân chỉ đến toà án khi có tội
phạm xảy ra liên quan đến họ. Trong Nhà
nước ta, mặc dù bản chất hoạt động xét xử
của toà án đã thay đổi nhưng thói quen của
người Việt Nam là “một sự nhịn là chín sự
lành”, người dân thường chỉ đưa nhau ra toà
khi không còn con đường nào khác hoặc là

không còn tình nghĩa gì với nhau trong giải
quyết tranh chấp. Do vậy, theo chúng tôi
trong cải cách tư pháp, ngoài việc phải thay
đổi về tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tư pháp nói chung của toà án nói riêng, còn
đòi hỏi phải tăng cường công tác tuyên
truyền để người dân thay đổi cả tâm lí ngại
sử dụng toà án để giải quyết các tranh chấp.
Làm sao cho người dân thật sự thấy cần toà
án, toà án đích thực là người trọng tài công
minh, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân có hiệu quả nhất.


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 5/2003 19

Nh vy, trong ci cỏch t phỏp phi
giao cho t phỏp ngy mt nhiu cụng vic
hn. Khi cụng vic phi thc hin tng lờn
thỡ ũi hi phi c cng c v mt t chc
(s lng biờn ch tng lờn, trỡnh chuyờn
mụn phi cao hn v th tc phi n gin,
kp thi hn ỏp ng nhu cu ngy cng cao
hn ca cuc sng). Mun vy, phi cng c
i ng cỏn b t phỏp m c bit l tng
cng i ng thm phỏn v hi thm nhõn
dõn c v s lng v cht lng,
(2)
nõng

cao nng lc chuyờn mụn, bn lnh, o c
ngh nghip v trỏch nhim ca cỏn b t
phỏp; m rng thm quyn xột x ca to ỏn
nhõn dõn cp huyn v to quõn s khu vc,
tin ti thnh lp to ỏn theo cp xột x;
tng cng thm quyn xột x cho to hnh
chớnh trong vic gii quyt cỏc khiu kin
hnh chớnh; tng thi gian nhim kỡ ca
thm phỏn, i mi quy trỡnh b nhim thm
phỏn; ci cỏch ch tin lng, tr cp cho
cỏn b t phỏp; tng cng c s vt cht
cho cỏc c quan t phỏp
Chỳng ta ang sng trong thi kỡ cụng
nghip hoỏ v hin i hoỏ, thi i ca
cụng ngh thụng tin nờn vic thụng tin v x
lớ thụng tin ũi hi phi nhanh chúng, chớnh
xỏc cú nh vy mi cú th ỏp ng c
nhu cu ca cuc sng ra. Vỡ vy, s
phỏn quyt phõn x trong thi i hin nay
khụng ch ũi hi phi chớnh xỏc, ỳng phỏp
lut m cũn phi nhanh chúng, tin li. Bi
cú nhng tranh chp ca cuc sng m vic
gii quyt khụng th kộo di lõu c, nu
kộo di thỡ cú th s gõy thit hi ln v li
ớch cho cỏc bờn hoc li ớch ú cú th s b
xõm hi. Theo tinh thn ca nh nc phỏp
quyn thỡ to ỏn phi d tip cn nhng i
vi nc ta thỡ iu kin, th tc, trỡnh t
khi kin v gii quyt mt v kin cũn quỏ
kộo di. iu ny cng gúp phn lm cho s

tip cn ca ngi dõn i vi to ỏn khú
khn hoc gõy nờn tõm lớ ngi kin tng.
mt s nc th tc xột x rỳt gn c tin
hnh rt nhanh chúng, cú nhng v kin k
t khi khi kin n khi v kin c gii
quyt thi gian kộo di khụng quỏ vi gi,
bi nu lõu thỡ li ớch ca ng s cú
th ó b vi phm trong khi ch bng hot
ng phỏn x nhanh ca t phỏp cú th ngn
chn c s xõm hi ú. Vi tinh thn ú,
trong thi gian ti chỳng ta nờn n gin
hoỏ cỏc th tc t tng, coi trng v ỏp dng
nhiu th tc xột x rỳt gn gii quyt
cỏc v ỏn n gin hoc ó quỏ rừ rng.
Vic ny khụng nhng ỏp ng c nhu
cu ca cỏc bờn tham gia t tng m cũn
gim bt c s tn ng, ỏch tc cụng vic
cỏc c quan t phỏp m nht l to ỏn ng
thi cũn tit kim c thi gian, tin bc
cho Nh nc v nhõn dõn, nõng cao hiu
qu hot ng t phỏp núi chung, hot ng
xột x ca to ỏn núi riờng.
Túm li, quỏ trỡnh xõy dng nh nc
phỏp quyn nc ta ũi hi t phỏp phi
c lp, vụ t, dõn ch, cụng bng v hiu
qu hn, ỏp ng ngy mt tt hn nhng
nhu cu, ũi hi ca xó hi vn minh./.

(1). ng cng sn Vit Nam, Vn kin i hi i
biu ton quc ln th IX, Nxb Chớnh tr quc gia,

H. 2001, tr. 133.
(2). Sd, tr. 134.

×