Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo "Chính sách hình sự của nhà nước ta đối với việc trồng cây thuốc phiện và các loại cây khác có chứa chất ma tuý " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.7 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
51



ịch sử ghi nhận cây thuốc phiện đ có
hàng trăm năm du nhập và phát triển ở
Việt Nam. Đồng bào dân tộc ít ngời sinh
sống ở các vùng núi cao phía Bắc - nơi có
điều kiện tự nhiên và thổ nhỡng khá thích
hợp cho việc trồng các loại cây không mấy
đòi hỏi công sức chăm bón này đ sớm trồng
và sử dụng thuốc phiện nh là những cứu
cánh trong điều kiện khó khăn của cuộc
sống (đói ăn, bệnh tật ). Dần dần thuốc
phiện đi vào tập quán của ngời dân nơi đây.
Tuy nhiên, điều đáng nói là đi đôi với việc
trồng và hút thuốc phiện, tệ nạn x hội ngày
một gia tăng, đời sống ngời dân đ nghèo lại
càng thêm nghèo.
Nhận thức đợc tác hại của thuốc phiện
và việc trồng cây thuốc phiện, ngay từ năm
Cảnh Trị thứ ba (1665) Nhà nớc phong kiến
Việt Nam đ ban hành đạo luật Cấm trồng
cây thuốc phiện. Đạo luật này đợc đánh giá
là Bản tuyên ngôn cho cuộc đấu tranh chống
và phòng ngừa tệ nạn ma tuý nói chung và tội
phạm ma tuý nói riêng ở Việt Nam.


(1)
Tiếp
đó, triều đình nhà Nguyễn cũng đề cao ý
nghĩa của việc phá bỏ các khu vực trồng cây
thuốc phiện trong chính sách lấp nguồn, cạn
dòng phòng chống ma tuý. Tuy vậy, cây
thuốc phiện vẫn đợc lén lút trồng kéo dài ở
một số vùng cao có địa hình khó kiểm soát.
Thêm vào đó, sự du nhập của một số loại cây
trồng khác có chứa chất ma tuý nh cây côca
và cây cần sa vào trồng ở một số tỉnh phía
Nam và Tây Nam bộ nớc ta, mặc dù chỉ một
số lợng ít và với mục đích chủ yếu là phục
vụ nhu cầu chăn nuôi gia súc của đồng bào
song cũng góp phần làm cho thực trạng trồng
trái phép các cây có chứa chất ma tuý ở Việt
Nam thêm phần phức tạp.
Trong những năm đầu thành lập nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà, chính quyền non
trẻ đ phải đối mặt với bộn bề khó khăn, nạn
trồng và hút thuốc phiện, do lịch sử để lại
cũng nh đợc khuyến khích phát triển bởi
các mu đồ chính trị và kinh tế trong thời
Pháp thuộc, giờ đ ăn sâu bén rễ và gia tăng
nhanh chóng. Thêm vào đó, nhu cầu trồng và
sử dụng thuốc phiện phục vụ cho ngành dợc
liệu đòi hỏi đợc tận dụng khai thác ngay từ
các nguồn trong nớc. Vì vậy, chúng ta yêu
cầu xoá bỏ ngay lập tức toàn bộ diện tích gieo
trồng thuốc phiện hiện tại là không có cơ sở

để quy định và thực hiện. Tuy nhiên, trên cơ
sở nhận thức rõ tác hại lâu dài của việc trồng
và hút thuốc phiện, Chính phủ đ rất quan
tâm đến chiến lợc giảm thiểu và ngăn chặn
thuốc phiện, đặc biệt trong việc sử dụng công
cụ sắc bén là pháp luật hình sự. Giai đoạn
1945-1975, hàng loạt các văn bản pháp luật
đ đợc ban hành nh Nghị định số 150/TTg
của Thủ tớng Chính phủ ngày 5/3/1952 ban
hành quy chế tạm thời về thuốc phiện, Nghị
L

* Giảng viên khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
ThS. Nguyễn Tuyết Mai

*



nghiên cứu - trao đổi
52

Tạp chí luật học số tháng 3/2003

định số 225/TTg ngày 22/12/1955 sửa đổi
Nghị định số 150/TTg, Nghị định số 580/TTg
ngày 19/5/1955 bổ sung những trờng hợp vi
phạm Nghị định số 150/TTg có thể bị đa ra
xét xử trớc toà án với định hớng hạn chế,

tiến tới xoá bỏ việc trồng, chế biến và sử dụng
thuốc phiện, xiết chặt quản lí nhà nớc đối
với việc trồng cây thuốc phiện đợc thể hiện
qua một số nội dung sau:
Thứ nhất, giới hạn các khu vực đợc
trồng cây thuốc phiện: Thuốc phiện chỉ đợc
trồng ở những nơi đ trồng cây thuốc phiện
nh Thợng du Bắc bộ, thợng du Liên khu
4;
(2)
không khuyến khích và không để cho hợp
tác x hoặc cá nhân trồng cây thuốc phiện
bừa bi, những nơi đợc giao nhiệm vụ xây
dựng cơ sở quốc doanh trồng cây thuốc phiện
làm dợc liệu đợc giải thích rõ ràng để nhân
dân không hiểu lầm.
(3)

Thứ hai, thuốc phiện đợc coi là sản
phẩm đặc biệt, phải nộp thuế suất bằng hiện
vật là một phần số nhựa thuốc phiện thu
hoạch đợc.
(4)

Thứ ba, mậu dịch quốc doanh thu mua
của ngời trồng cây thuốc phiện tất cả số
nhựa thuốc phiện đợc thu hoạch,
(5)
coi việc
đặt cọc mua thuốc phiện là thủ đoạn tranh

mua với mậu dịch quốc doanh, bị truy tố
trớc toà án.
(6)

Đất nớc thống nhất, BLHS đầu tiên của
nớc CHXHCN Việt Nam đợc ban hành
năm 1985 quy định một cách có hệ thống về
tội phạm và hình phạt, áp dụng thống nhất
trên phạm vi cả nớc. Hành vi liên quan đến
ma tuý đ bớc đầu đợc luật định, tuy rằng
chỉ dừng ở một điều luật trực tiếp quy định về
một hành vi phạm tội cụ thể (Điều 203 quy
định Tội tổ chức sử dụng chất ma tuý).
Song một số hành vi khác nh buôn bán, vận
chuyển trái phép chất ma tuý cũng đ đợc
coi là tội phạm, một dạng tội buôn bán, tàng
trữ hàng cấm(Điều 166 BLHS 1985) hoặc
tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hoá, tiền tệ qua biên giới(Điều 97 BLHS
1985). Cho tới lần sửa đổi, bổ sung thứ ba đối
với BLHS năm 1985 (năm 1991), chúng ta
mới có thêm một điều luật nữa xác định tội
danh độc lập cho những hành vi này (Điều
96a BLHS 1985 quy định Tội sản xuất, tàng
trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất
ma tuý). Hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc
các loại cây khác có chứa chất ma tuý chỉ
đợc xác định là tội phạm trong lần sửa đổi
thứ t đối với BLHS 1985 (năm 1997), khi có
đủ các cơ sở khách quan và chủ quan cho việc

hình sự hoá hành vi này. Đó là:
Những nỗ lực vận động giáo dục, thuyết
phục đồng bào không trồng cây thuốc phiện
và hỗ trợ bằng các dự án kinh tế - văn hoá cho
vùng cao đ thu đợc những kết quả bớc
đầu. Từ năm 1993, Chính phủ Việt Nam đ
ban hành Nghị quyết số 06/CP đặt cơ sở pháp
lí quan trọng cho công tác phòng, chống và
kiểm soát ma tuý. Trong đó, cuộc vận động
xoá bỏ cây thuốc phiện và các cây trồng khác
có chứa chất ma tuý đợc xác định là chơng
trình chiến lợc nhằm cắt bỏ một phần nguồn
cung ma tuý và giảm tội phạm về ma tuý. Đặc
biệt, mỗi năm Nhà nớc dành cho công tác
xoá bỏ cây thuốc phiện từ 23 đến 25 tỉ đồng.
Nếu trong những năm 80, diện tích trồng cây
thuốc phiện ở nớc ta lên đến 20 nghìn ha thì
đến năm 1997 chỉ còn khoảng 2000 ha.
Tuy vậy, cùng với nguồn ma tuý thẩm lậu
vào Việt Nam, nguồn ma tuý từ việc trồng
cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có
chứa chất ma tuý trong nớc đ góp phần
đáng kể làm cho diễn biến tội phạm về ma
tuý ngày càng thêm phức tạp.
Dới góc độ pháp lí thì mặc dù hành vi


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
53


trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có
chứa chất ma tuý cha bị coi là tội phạm
song những ngời có hành vi trồng các cây
có chứa chất ma tuý đó đ đợc các cấp
chính quyền nhắc nhở, giáo dục để họ phá
bỏ, nếu ở mức độ nghiêm trọng có thể bị xử
phạt hành chính.
Năm 1997 Việt Nam đ tham gia 3 Công
ớc của Liên hợp quốc về kiểm soát ma tuý
(1961, 1971, 1988)
(7)
nhằm đảm bảo cho sự
phù hợp nội dung giữa hệ thống pháp luật
trong nớc và các công ớc quốc tế đó cũng
nh đảm bảo cơ sở pháp lí cho việc thực hiện
các biện pháp đấu tranh chống các tội phạm
về ma tuý một cách đồng bộ ở tất cả các khâu
từ sản xuất đến tiêu thụ, triệt tiêu tận gốc cả
hai nguồn cung cấp ma tuý là nớc ngoài và
trong nớc. BLHS năm 1985 đợc sửa đổi, bổ
sung lần thứ t, theo đó tội phạm về ma tuý
đợc quy định thành một chơng riêng
(chơng VIIa) và tội trồng cây thuốc phiện
hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý chính
thức đợc bổ sung, quy định tại Điều 185 a.
Việc hình sự hoá hành vi trồng cây thuốc
phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma
tuý là cần thiết, dựa trên các cơ sở lí luận,
thực tiễn và pháp lí xác thực. BLHS năm 1999

kế thừa các quy định của BLHS năm 1985 về
tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây
khác có chứa chất ma tuý và quy định tội
phạm này tại Điều 192 BLHS năm 1999.
Có thể thấy rằng mục đích chính của điều
luật chỉ là giáo dục, răn đe để mọi ngời
không trồng cây thuốc phiện hoặc các loại
cây khác có chứa chất ma tuý, hình phạt chỉ
đợc áp dụng sau khi các biện pháp giáo dục
và xử lí hành chính tỏ ra không có hiệu quả.
Ngời có hành vi trồng cây có chứa chất ma
tuý (gieo trồng, chăm bón ) chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự khi đ đợc áp dụng đầy
đủ cả ba biện pháp: đ đợc giáo dục nhiều
lần, đ đợc tạo điều kiện ổn định cuộc
sống và đ bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà vẫn còn vi phạm.
Quy định này thể hiện chính sách của
Nhà nớc, một mặt kiên quyết loại trừ tận
gốc tệ nạn ma tuý, mặt khác cũng phải
chiếu cố đến tình hình thực tế để chính sách
cấm trồng cây có chứa chất ma tuý có điều
kiện thực hiện.
(8)

Trên cơ sở chính sách của Nhà nớc, lí
luận chung về pháp luật hình sự đ chỉ rõ
hớng vận dụng trong một số trờng hợp thực
tiễn có liên quan đến hành vi trồng cây có
chứa chất ma tuý. Đó là:

Nếu ngời làm thuê cho ngời khác biết
rõ mình đợc thuê trồng cây thuốc phiện, cây
côca, cây cần sa hoặc các cây khác có chứa
chất ma tuý cho ngời đ đợc áp dụng đầy
đủ cả ba biện pháp đ đợc giáo dục nhiều
lần, đ đợc tạo điều kiện ổn định cuộc
sống và đ bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm thì ngời làm thuê và
ngời chủ là đồng phạm về tội trồng cây
thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các
loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 192).
Nếu ngời trồng cây thuốc phiện, cây
côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có
chứa chất ma tuý đ đợc áp dụng đầy đủ cả
ba biện pháp đ đợc giáo dục nhiều lần,
đ đợc tạo điều kiện ổn định cuộc sống và
đ bị xử phạt hành chính về hành vi này
nhng không chịu phá bỏ mà vẫn cố tình bán
lại cho ngời khác thì vẫn bị truy cứu về tội
trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa
hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý
(Điều 192).
Nếu ngời trồng cây thuốc phiện, cây
côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có
chứa chất ma tuý mà sau đó còn có các hoạt


nghiên cứu - trao đổi
54


Tạp chí luật học số tháng 3/2003

động thu hoạch sản phẩm, sản xuất, chế biến
nh lấy nhựa từ quả cây thuốc phiện, thu
hoạch lá, hoa, quả, hạt cây cần sa để nén
thành bánh hoặc trng cất ép lấy nhựa, dầu
cần sa, chng cất lá côca thành cao côca thì
ngoài tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây
cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất
ma tuý (Điều 192), ngời đó còn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự thêm về tội sản xuất trái
phép chất ma tuý (Điều 193).
Để có cơ sở pháp lí thống nhất, có hiệu
quả hơn trong phòng ngừa, ngăn chặn và đấu
tranh với tệ nạn ma tuý, ngày 9/12/2000 Quốc
hội nớc ta đ thông qua Luật phòng, chống
ma tuý. Luật phòng chống ma tuý đ xác định
trồng cây có chứa chất ma tuý là hành vi liên
quan đến ma tuý đầu tiên bị nghiêm cấm
(9)

đồng thời cũng xác định trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các hoạt động
phát hiện và xoá bỏ cây trồng có chứa chất
ma tuý:
1. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm phát hiện, báo cáo kịp thời
cho cơ quan nhà nớc có thẩm quyền việc
trồng cây có chứa chất ma tuý; tham gia triệt
phá cây có chứa chất ma tuý do chính quyền

địa phơng tổ chức.
2. Tại các vùng phải xoá bỏ cây có chứa
chất ma tuý, cơ quan nhà nớc trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm tổ chức thực hiện chủ trơng, chính
sách của nhà nớc về phát triển sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ và thị trờng phù hợp để nhân dân chuyển
hớng sản xuất có hiệu quả (Điều 8).
Nh vậy, chính sách của Nhà nớc ta
trong việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm về ma tuý nói chung, việc trồng cây có
chứa chất ma tuý nói riêng đòi hỏi sự nỗ lực
và trách nhiệm cao của toàn thể cộng đồng.
Với đờng lối, chính sách đúng đắn đó,
đến năm 2000 về cơ bản đ triệt phá các diện
tích trồng cây thuốc phiện ở Việt Nam. Tuy
nhiên, vẫn còn có hiện tợng tái trồng cây
thuốc phiện (vụ 2000-2001 có 351 ha tái
trồng cây thuốc phiện). Việc tái trồng cây
thuốc phiện không phải vì đồng bào các dân
tộc không tin tởng, hởng ứng chủ trơng
chính sách của Đảng và Nhà nớc về phá bỏ
cây thuốc phiện mà chủ yếu vì nguyên nhân
kinh tế, liên quan đến những vớng mắc xung
quanh hoạt động hỗ trợ kinh tế của Nhà nớc
giúp đồng bào vợt khó khăn khi phá bỏ cây
thuốc phiện. Hơn nữa, mặc dù Đảng và Nhà
nớc ta đ tập trung tuyên truyền, giáo dục
tác hại của ma tuý, có chơng trình thay cây,

ổn định đời sống cho đồng bào nhng không
thể ngay một thời gian ngắn xoá bỏ đợc
phong tục, tập quán có lịch sử tồn tại hàng
trăm năm.
Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy một số
trờng hợp tái trồng cây thuốc phiện, cây
côca, cây cần sa ở mức độ nghiêm trọng, cần
phải xử lí hình sự để đạt đợc mục đích răn
đe, trừng trị. Cho đến nay chúng ta đ xét xử
22 vụ với 26 bị cáo phạm tội trồng cây thuốc
phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý
(năm 1997: 0 vụ; 1998: 0 vụ; 1999: 3 vụ/3 bị cáo;
2000: 19 vụ/23 bị cáo; 2001: 0 vụ). Tuy vậy,
thực tiễn xét xử 5 năm qua cho thấy vì nhiều
lí do khách quan và chủ quan khác nhau, có
lúc có nơi đ không làm tốt yêu cầu nghiêm
trị các hành vi cố tình trồng trái phép các cây
có chứa chất ma tuý, đi ngợc với chính sách
và pháp luật của Nhà nớc. Một trong những
lí do đó có liên quan đến quy định hiện hành
của pháp luật.
Điều 192 BLHS năm 1999 xác định hành
vi phạm tội của ngời trồng cây thuốc phiện,


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
55

cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác

có chứa chất ma tuý đ đợc giáo dục nhiều
lần, đ đợc tạo điều kiện để ổn định cuộc
sống và đ bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm.
Điều 10 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành
chính quy định: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt
vi phạm hành chính nếu quá một năm kể từ
ngày thi hành xong quyết định xử phạt mà
không tái phạm thì đợc coi là cha bị xử
phạt vi phạm hành chính.
Nh vậy, nếu nh một ngời đ từng bị
xử phạt hành chính về hành vi trồng cây
thuốc phiện (với các hình thức cảnh cáo, phạt
tiền, yêu cầu nhổ bỏ cây thuốc phiện ) đ
đợc giáo dục, thuyết phục và tạo điều kiện
giúp đỡ ổn định cuộc sống, mà kể từ thời
điểm bị xử phạt hành chính đó đến thời điểm
tái trồng cây thuốc phiện tiếp sau đ quá thời
hạn một năm thì sẽ không bị xử lí về hình sự.
Mà đối với việc trồng cây thuốc phiện ở Việt
Nam, những trờng hợp nh thế này không
phải là ít, thậm chí là phổ biến vì thực tiễn
cho thấy thuốc phiện, cần sa là loại cây đợc
trồng theo thời vụ, thờng một năm trồng một
lần, lại đợc kết hợp trồng xen vụ với các cây
lơng thực, thực phẩm khác nh lúa, ngô
Năm 2000, có 4/23 bị cáo bị đa ra xét xử về
tội phạm này đợc tuyên bố không có tội,
cha kể một số trờng hợp khác đ đợc định
hớng không thể xử lí hình sự ngay từ đầu

đều liên quan đến quy định này. Rõ ràng, quy
định của luật đ tỏ ra không hợp lí trong
những trờng hợp nhất định trên, khi cần áp
dụng biện pháp hình sự đối với hành vi tái
trồng cây thuốc phiện, dẫn đến bó tay toà
án khi xét xử cũng nh hạn chế tác dụng
phòng ngừa tội phạm này.
Chúng ta khẳng định rằng chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nớc đối với tội
phạm về ma tuý nói chung và việc trồng cây
thuốc phiện cũng nh các loại cây khác có
chứa chất ma tuý nói riêng là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với các đòi hỏi của thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm về ma tuý ở Việt
Nam và quốc tế. Để đảm bảo giá trị và hiệu
quả của chính sách, đòi hỏi phải có sự sửa
đổi, hoàn thiện trớc mắt về pháp luật và sự
phối kết hợp có hiệu quả với các chính sách
phát triển kinh tế, văn hoá, x hội cho đồng
bào các dân tộc những vùng mà hiện nay vì
những lí do khác nhau vẫn còn xem việc
trồng cây có chứa chất ma tuý nh những
hoạt động mu sinh./.

(1).Xem: TS. Uông Chu Lu, Pháp luật và chính
sách hình sự trong đấu tranh phòng chống ma tuý
Việt Nam, Nhà pháp luật Việt - Pháp, 1999, tr. 31.
(2).Xem: Điều 2 Nghị định số 150/TTg ngày
5/3/1952.
(3).Xem: Chỉ thị số 9237/VP14 của Phủ Thủ Tớng.

(4).Xem: Điều 3 Nghị định số 150/TTg: thuế
suất bằng hiện vật là 1/3 số nhựa thuốc phiện thu
đợc;
Nghị định số 225/TTg ngày 22/12/1955 hạ mức thuế
suất thuốc phiện xuống còn 1/4 số nhựa thuốc phiện
thu đợc.
(5).Xem: Nghị định số 150/TTg quy định: Ngời
trồng thuốc phiện sau khi nộp thuế phải bán tất cả số
thuốc phiện còn lại cho mậu dịch quốc doanh theo
giá công bình.
Nghị định số 225/TTg sửa đổi khuyến khích
nhân dân bán nhựa thuốc phiện cho Nhà nớc theo
giá thoả thuận.
(6).Xem: Thông t số 635 của Bộ t pháp ngày
29/3/1958.
(7).Xem: Công ớc thống nhất về các chất ma tuý
năm 1961, Công ớc về các chất hớng thần năm
1971 và Công ớc về chống buôn bán bất hợp pháp
các chất ma tuý và chất hớng thần năm 1988.
(8).Xem: Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trờng
đại học luật Hà Nội, Nxb. CAND 2001, tr. 493.
(9).Xem: Điều 3 Luật phòng, chống ma tuý.

×