Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

XÂY DỰNG mục TIÊU và kế HOẠCH PHÁT TRIỂN cá NHÂN TRONG 4 năm học tại TRƯỜNG đại học NGOẠI THƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.59 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
VIỆN KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
***

XÂY DỰNG MỤC TIÊU VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN CÁ
NHÂN TRONG 4 NĂM HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI
THƯƠNG
Họ và tên sinh viên

: Lị Phương Thùy

Lớp hành chính

: Anh 01 – KTĐN

-K61 Lớp tín chỉ

: KDO 441 K61.4

Khối
Mã sinh viên

02
2214110380


Hà Nội, năm
2022


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG
1.1 Khái quát lịch sử ra đời kinh tế học cổ điển
1.2. Thuyết giá trị lao động của C.Mac
1.2.1. Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
1.2.2 Hàng hố và hai thuộc tính của hàng hoá
1.2.3 Lượng giá trị hàng hoá. Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị

1
3
3
4
4
5
8

hàng hoá
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ

12

TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.2 Những giải pháp chủ yếu nhất:
TÀI LIỆU THAM KHẢO

12
14
15



LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư
bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ đã tạo ra những điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Vào cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác được V.I.Lênin bổ sung, phát triển
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
khoa học về thế giới vi mô phát triển và chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây
dựng ở nước Nga Xô viết, mở ra giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin.
Tháng 7 năm 1920, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp được ánh sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin qua bản “Sơ thảo lần thfí nhất những Luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống quan điểm hết
sfíc đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong phương thfíc tiếp cận chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa, một trong số đó người định
nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó về kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, quan hệ quốc tế,… Hồ Chí Minh ý thfíc được rõ
ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan trọng, nhưng vấn đề
quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then
chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các
mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai
đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thơng qua q trình đề ra các
mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu,
lợi ích thiết yếu của người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra
tính hấp dẫn, năng động của chế độ xã hội mới.
Năm 1986, Đảng ta đã có một bước chuyển mình đột phá đó là thực hiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cho nền


kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Sau hơn 36 năm đổi mới, nền kinh tế Việt

Nam đã gặt hái được những thành tựu nhất định đạt mfíc tăng trưởng ấn
tượng, tiếp tục phấn đấu trong giai đoạn Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất
nước. Trong cơng cuộc này, vị trí và vai trị của thế hệ trẻ là đặc biệt quan
trọng. Theo đó, để có những hành động thiết thực, cụ thể, ta cần hiểu cặn kẽ
nguồn gốc và những lý luận liên quan của nền kinh tế. Chính vì vậy, em đã
quyết định lựa chọn đề tài “Lý luận giá trị lao động và thực tiễn phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu
luận bao gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận giá trị lao động
Chương 2: Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn và và dạy dỗ tận tình qua các bài giảng của cô
giáo Đinh Thị Quỳnh Hà. Rất mong sự đóng góp ý kiến của cơ để bài tiểu
luận hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG
1.1 Khái quát lịch sử ra đời kinh tế học cổ điển
Kinh tế học cổ điển hay kinh tế chính trị cổ điển là một trường phái kinh tế
học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để giải
thích các hoạt động kinh tế của xã hội lồi người trong đó giả định quan trọng
nhất là nền kinh tế có thể tự điều chỉnh dựa trên các quy luật tự nhiên của việc
sản xuất và trao đổi hàng hóa. Đây là một trong những xu hướng tư tưởng
kinh tế để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sfí phát triển các luận thuyết kinh tế.
Người đại diện đầu tiên và được xem là ông tổ của kinh tế cổ điển là
William Petty. Theo sau đó là những tên tuổi lớn như Adam Smith,
David Ricardo, Thomas Malthus, John Stuart Mill. Theo họ kinh tế chính trị là
kinh tế được nhìn bằng con mắt của chính trị gia do đó khoa kinh tế chính trị
học nghiên cfíu về sự giàu có của các quốc gia và cách thfíc các quốc gia
này làm tăng của cải lên.

Thời điểm mở đầu của trường phái này được chấp nhận theo quan điểm của
C.Mac và dường như không gây tranh cãi trong giới nghiên cfíu lịch sfí kinh
tế. Tuy nhiên thời điểm kết thúc của nó thì C.Mac chỉ hạn chế bằng những tác
phẩm của A. Smith và D. Ricardo. Các luận thuyết của các nhà nghiên cfíu
tiếp theo khơng được C.Mac công nhận là thuộc về trường phái này, và C.Mac
gọi đó là Kinh tế chính trị tầm thường, mà những người đfíng đầu của khuynh
hướng này là Th. Malthus và J. B. Say. Quan điểm trên của C.Mac không
được hưởng fíng bởi các nhà nghiên cfíu khác, ví dụ như J. K. Gelbreyt – giáo
sư trường đại học tổng hợp Harvard. Ông cho rằng ý tưởng của Smith và
Ricardo vẫn còn tiếp tục phát triển đến tận giữa thế kỷ 19 với những tác phẩm
nổi tiếng của J. S. Mil.
Nhờ phát hiện được tính hai mặt của lao động mới khẳng định được lao động
nào tạo ra giá trị hàng hóa, C.Mac đã phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,
khám phá ra giá trị sfíc lao động được xem là hàng hóa, quy luật


giá trị thặng dư và hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, qua đó
làm cho nhận thfíc về quy luật giá trị được đầy đủ hơn.
1.2. Thuyết giá trị lao động của C.Mac
1.2.1. Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng
hóa Phân cơng lao động xã hội
Phân cơng lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành,
nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự
chun mơn hố lao động, do đó dẫn đến chun mơn hố sản xuất thành
những ngành nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi
người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song,
cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để
thoả mãn nhu cầu địi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi
sản phẩm cho nhau. Tuy nhiên, phân công lao động xã hội chỉ mới là điều
kiện cần nhưng chưa đủ. C.Mác đã chfíng minh rằng, trong cơng xã thị tộc Ấn

Độ thời cổ, đã có sự phân công lao động khá chi tiết, nhưng sản phẩm lao
động chưa trở thành hàng hố. Bởi vì tư liệu sản xuất là của chung nên sản
phẩm và từng nhóm sản xuất chun mơn hố cũng là của chung; cơng xã
phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. C.Mác viết:
"Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc
vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá".
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất Sự tách biệt
này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thuỷ là chế
độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là
người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau,
nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc
lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện


ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thơng qua sự
mua - bán hàng hố, tfíc là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hố.
1.2.2 Hàng hố và hai thuộc tính của hàng hố
Hàng hố là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội,
sản xuất hàng hố có bản chất khác nhau, nhưng hàng hố đều có hai thuộc
tính:
Giá trị sử dụng:
Giá trị sfí dụng là cơng dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người, ví dụ: cơm để ăn xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật
liệu để sản xuất… Vật phẩm nào cũng có một số cơng dụng nhất định. Cơng
dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học
kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới
của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sfí dụng mới. Giá trị
sfí dụng chỉ thể hiện ở việc sfí dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất

của của cải. Giá trị sfí dụng là phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sfí dụng nói ở đây
với tư cách là thuộc tính của hàng hố, nó khơng phải là giá trị sfí dụng cho
bản thân người sản xuất hàng hố, mà là giá trị sfí dụng cho người khác, cho
xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hố, giá trị sfí dụng là
vật mang giá trị trao đổi.
Giá trị hàng hoá:
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan
hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sfí dụng này trao đổi với giá trị sfí dụng khác. Ví
dụ: 1m vải = 10kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hố có giá trị sfí dụng khác
nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo
tỷ lệ nào đó. Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được
với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy khơng
phải là giá trị sfí dụng, tuy nhiên, sự khác nhau về giá trị sfí dụng của chúng
là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Nhưng cái chung đó


phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá. Nếu gạt giá trị sfí dụng của sản phẩm
sang một bên, thì giữa chúng chỉ cịn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ
trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc
thóc, những người sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao
động ẩn giấu trong hàng hố làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi
trao đổi. Chúng được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít
hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1m vải = 10kg thóc); nhưng lượng lao
động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Lao động hao phí để
sản xuất ra hàng hố ẩn giấu trong hàng hố chính là cơ sở để trao đổi.
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng
hố. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào khơng có lao động của
người sản xuất chfía đựng trong đó, thì nó khơng có giá trị. Sản phẩm nào lao
động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
Mối quan hệ giữa hai thuộc tính

Giữa hai thuộc tính của hàng hóa ln có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; cịn giá trị trao đổi là
hình thfíc biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau,
những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với
nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao
phí của mình chfía đựng trong các hàng hố. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan
hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sfí,
gắn liền với nền sản xuất hàng hố. Nếu giá trị sfí dụng là thuộc tính tự
nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Như vậy, hàng hoá là sự
thống nhất của hai thuộc tính giá trị sfí dụng và giá trị, nhưng là sự thống nhất
của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sfí
dụng, nhưng mục đích của họ khơng phải là giá trị sfí dụng mà là giá trị, họ
quan tâm đến giá trị sfí dụng là để đạt được mục


đích giá trị mà thơi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá
trị sfí dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị
sfí dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực
hiện giá trị sfí dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu khơng thực hiện được
giá trị, sẽ khơng thực hiện được giá trị sfí dụng.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính:
giá trị sfí dụng và giá trị là do lao động sản xuất hàng hố có tính hai mặt.
Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hố quyết định tính hai mặt của
bản thân hàng hố. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hố. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.Lao
động cụ thể Là lao động có ích dưới một hình thfíc cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối
tượng riêng, phương pháp riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng. Ví dụ:
lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối
tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về bào, khoan,

đục; phương tiện được sfí dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả
lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị
sfí dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá
trị sfí dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao
động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, các hình thfíc lao
động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển
của phân công lao động xã hội. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn,
là một điều kiện khơng thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
Cần chú ý rằng, hình thfíc của lao động cụ thể có thể thay đổi.
Lao động trừu tượng Lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi là sự hao
phí sfíc lực nói chung của con người, khơng kể đến hình thfíc cụ thể của nó
như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng. Lao động của người thợ mộc và
lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì


hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt tất cả những sự khác nhau ấy sang một
bên thì chúng chỉ cịn có một cái chung, đều phải tiêu phí sfíc óc, sfíc bắp thịt
và sfíc thần kinh của con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao
phí đồng chất của con người. Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sfíc lực của
con người xét về mặt sinh lý. Nhưng khơng phải sự hao phí sfíc lao động nào
về mặt sinh lý cũng là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng chỉ có trong
nền sản xuất hàng hố, do mục đích của sản xuất là để trao đổi. Vì vậy, xuất
hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác nhau, không thể so
sánh được với nhau thành một thfí lao động đồng chất, tfíc lao động trừu
tượng. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng trong
trao đổi. Nếu khơng có sản xuất hàng hố, khơng có trao đổi thì cũng khơng
cần phải quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động
trừu tượng là một phạm trù lịch sfí riêng có của sản xuất hàng hố.
1.2.3 Lượng giá trị hàng hoá. Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hoá

Thời gian lao động xã hội cần thiết Chất của giá trị là lao động trừu tượng của
người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng giá trị là do
lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hố đó quyết định. Đo lượng lao
động bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động… Do
đó, lượng giá trị của hàng hố cũng do thời gian lao động quyết định. Trong
thực tế, một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra,
nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là khơng
giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá của họ
khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng
hoá của từng người sản xuất. Nhưng lượng giá trị xã hội của hàng hố khơng
phải được tính bằng thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã
hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản
xuất ra một hàng hoá trong điều kiện


bình thường của xã hội, tfíc là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo
léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hồn cảnh xã hội nhất
định. Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời
gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hố nào
đó trên thị trường.
Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hoá Do thời gian lao động
xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hố cũng là một đại
lượng khơng cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào năng suất lao động và
mfíc độ phfíc tạp hay giản đơn của lao động.
Lượng giá trị hàng hoá thay đổi do tác động của năng suất lao động: Năng
suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian
cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng
tăng, thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm,

thì thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ
thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng
năng suất lao động. Đến lượt năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân
tố: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật
và trình độ fíng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả
của tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên. Cường độ lao động là mfíc độ
khẩn trương, căng thẳng của lao động. Khi cường độ lao động tăng, thì lượng
lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian tăng và lượng sản phẩm
được tạo ra tăng tương fíng cịn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không
đổi. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.


Lượng giá trị hàng hóa, phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là: lao động
giản đơn và lao động phfíc tạp. Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một
cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động
cũng có thể thực hiện được. Lao động phfíc tạp là lao động đòi hỏi phải được
đào tạo, huấn luyện. Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao
động phfíc tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao
động phfíc tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng
hố do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hố do
lao động phfíc tạp tạo ra, trong q trình trao đổi người ta quy mọi lao động
phfíc tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị của hàng
hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
1.2 Tiền tệ
1.2.1 Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
Sự phát triển các hình thái giá trị
Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: đây là hình thái phơi thai của giá trị,
nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hố, trao đổi mang tính

chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác. Trong hình
thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định.
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: khi lực lượng sản xuất phát triển hơn,
sau phân công lao động xã hội lần thfí nhất, chăn ni tách khỏi trồng trọt,
trao đổi trở nên thường xun hơn, một hàng hố này có thể quan hệ với
nhiều hàng hố khác. Tương fíng với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay mở
rộng. Hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hoá khác
nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
Hình thái chung của giá trị: với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường
xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá


trị của mình ở cùng một thfí hàng hố đóng vai trò là vật ngang giá chung.
Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thfí hàng hố nào. Các địa
phương khác nhau thì hàng hố dùng làm vật ngang giá chung cũng khác
nhau.
Hình thái tiền tệ: khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát
triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình
trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp
phải khó khăn, do đó địi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung
thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tơn và
phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Chfíc năng của tiền tệ và quy luật lưu thơng tiền
tệ Các chfíc năng của tiền tệ
Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chfíc năng của nó. Theo C.Mác tiền
tệ có 5 chfíc năng:
Thướcđogiátrị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hố, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì
vậy, tiền tệ làm chfíc năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá

trị hàng hố khơng cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng
vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá
trị của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ
sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra
hàng hố đó.
Phương tiện lưu thơng: Với chfíc năng làm phương tiện lưu thơng, tiền làm
mơi giới trong q trình trao đổi hàng hố. Để làm chfíc năng lưu thơng hàng
hố ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hố lấy tiền làm mơi giới gọi là lưu
thơng hàng hố.
Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tfíc là tiền được rút khỏi lưu
thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chfíc năng này là vì: tiền là đại biểu
cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình


thfíc cất trữ của cải. Để làm chfíc năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá
trị, tfíc là tiền vàng, bạc.
Phương tiện thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả
nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng… Khi sản xuất và trao đổi hàng hố phát
triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thfíc
giao dịch này trước tiên tiền làm chfíc năng thước đo giá trị để định giá cả
hàng hố. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào
lưu thơng để làm phương tiện thanh tốn.
Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền
làm chfíc năng tiền tệ thế giới. Với chfíc năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải
trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chfíc năng này, vàng được
dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu
hiện của cải nói chung của xã hội.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật cịn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh
vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, cơng nghệ lạc hậu. Lao động
thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng
suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực
và thế giới.
- Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ
thống thông tin liên lạc… còn lạc hậu, kém phát triển. Hệ thống giao
thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách
biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể


được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát
huy thế mạnh.
- Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong
nước, cũng như thị trường nước ngồi cịn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ
thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp, do đó khối lượng
hàng hố nhỏ bé, chủng loại hàng hố cịn nghèo nàn, chất lượng hàng hố
thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
- Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành
nhưng chưa đồng bộ. Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi
cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thơng hàng
hố thống nhất. Thị trường hàng hố - dịch vụ đã hình thành nhưng cịn hạn
hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực.
- Thị trường hàng hố sfíc lao động mới manh nha, một số trung
tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy
sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sfíc cung về
lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sfíc lao
động giản đơn lại vượt q xa cầu, nhiều người có sfíc lao động khơng tìm

được việc làm. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng
vẫn cịn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư
nhân rất thiếu vốn nhưng khơng vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi
đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gfíi mà khơng thể cho
vay để fí đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại
đã đến mfíc báo động.
Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối
ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình
độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước
khác.
Toàn cầu hàng hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra chung cho các nước
cũng như nước ta nói riêng những thách thfíc hết sfíc gay gắt.


Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia hay
không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xfí sự với xu hướng đó như
thế nào? Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu
vực hố và tồn cầu hố, tìm ra "cái mạnh tương đối" của nước ta, thực hiện
đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy
nội lực, nhằm thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân,
định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2 Những giải pháp chủ yếu nhất:
1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
2. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, fíng dụng nhanh tiến bộ khoa
học - cơng nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội.
3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
5. Giữ vững sự ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống luật pháp
6. Xố bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế
quản lý kinhtế của Nhà nước.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin”.
NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội – 2017.
[2] Sách “Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và đột phá”. Tác giả Phạm
Minh Chính, Vương Qn Hồng. NXB Chính trị quốc gia Sự thật – 2009.
[3] Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 30/01/2008, Hội nghị lần thfí sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) Về tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
[4] Nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.
Thêm Tiêu đề (Định dạng > Kiểu đoạn). Khi đó, chúng sẽ xuất hiện trong mục lục.



×