1
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Chính sách sử dụng hiệu quả và
tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
3
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Cuốn sách này tập hợp các tài liệu của Hội thảo quốc tế về chính sách hiệu quả
năng lượng tổ chức vào ngày 09 và 10 tháng 04 năm 2008 tại thành phố Hồ Chí
Minh (Việt Nam), trong khuôn khổ Tuần lễ Pháp tại Việt Nam.
Hội thảo do Bộ Công thương Việt Nam (MOIT), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và
Cơ quan Môi trường và Quản lý Năng lượng (ADEME) cùng phối hợp tổ chức.
Các tài liệu do Élisabeth Bourguinat soạn thảo.
Nội dung cuộc hội thảo do một Ban khoa học chuẩn bị bao gồm : Nguyễn Đình
Hiệp (MOIT), Brahms Mohanty (ADEME), Laurence Breton-Moyet et Christian de
Gromard (AFD Paris), Alain Henry và Sophie Salomon (AFD Hanoi) cùng với sự hỗ
trợ của ENERTEAM (Nguyễn Trần Thế, Lê Hoàng Việt và Nguyễn Thị Thu Giang) và
Burgéap-ICE (José Lopez và Vũ Hồng Vân Anh)
Lời nói đầu
5
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Mục lục
Tổng hợp 9
Khai mạc hội thảo 15
1. Vấn đề năng lượng và chính sách công 19
1.1. Triển vọng và vấn đề năng lượng toàn cầu 20
1.2. Sử dụng tiết kiệm năng lượng và hiệu quả năng lượng ở Việt Nam:
thực trạng và triển vọng 24
1.3. Cơ chế triển khai chính sách tiết kiệm năng lượng của Pháp 28
1.4. Một số ví dụ về chính sách hiệu quả năng lượng
tại các nước ASEAN 32
1.5. Thúc đẩy thay đổi năng lượng
trong các nền kinh tế đang phát triển 38
1.6. Tham gia ý kiến 44
1.7. Thảo luận 46
1.8. Kết luận phiên làm việc 52
2. Chương trình đô thị và nhà ở 55
2.1. Vì một quá trình đô thị hóa ít phát thải khí các-bon 55
2.2. Quy định về tiết kiệm năng lượng
trong xây dựng các tòa nhà ở Việt Nam 59
2.3. Hiệu quả năng lượng trong các tòa nhà:
dự án của AFD tại Trung Quốc và Thái Lan 62
2.4. Sử dụng hiểu quả và tiết kiệm năng lượng
trong các dự án chiếu sáng công cộng 66
2.5. Tham gia ý kiến 67
2.6. Thảo luận 71
3. Quản lý và giao thông đô thị 75
3.1 Giao thông đô thị và hiệu quả nãng lượng:
vấn đề tài trợ và kế hoạch hóa 76
3.2. Sử dụng nãng lượng tiết kiệm và hiệu quả
với chiến lược phát triển và quản lý giao thông vận tải 79
3.3. Phác thảo một cái nhìn tổng thể về năng lượng-đô thị-môi trường:
6
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
kinh nghiệm của TP. Hồ Chí Minh 82
3.4. Tổng kết đầu tiên về chuyên đề Giao thông 87
3.5. Tham gia ý kiến 88
3.6. Thảo luận 96
4. Năng lượng trong công nghiệp và dịch vụ 99
4.1. Công cụ khuyến khích tiết kiệm năng lượng
trong công nghiệp và dịch vụ ở Việt Nam 99
4.2. Quản lý cầu điện (MDE): khái niệm, tầm quan trọng đối với
các nước mới nổi và nghiên cứu tình huống 103
4.3. Hạn mức tín dụng dành cho tiết kiệm năng lượng hoặc các bon 107
4.4. Giấy chứng nhận tiết kiệm năng lượng:
Kinh nghiệm của Điện lực Pháp (EDF) 110
4.5. Tham gia ý kiến 113
5. Năng lượng tái tạo, cơ hội và biểu phí 121
5.1. Mục tiêu và điều kiện thực hiện
chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo 121
5.2. Tổng quan về năng lượng tái tạo ở Việt Nam 123
5.3. Biểu giá cho các nhà máy điện nhỏ
sử dụng năng lượng tái tạo theo chi phí tránh được 126
5.4. Năng lượng gió, điều kiện kinh tế và biểu phí 129
5.5. Tham gia ý kiến 132
5.6. Thảo luận 135
6. Hiệu quả năng lượng, chính sách công và phân cấp 139
6.1. Các trung tâm có khả năng cạnh tranh cao,
đổi mới cơ chế để đổi mới công nghệ 139
6.2. Tác động của chính sách công tại một vùng 142
6.3. Vai trò và chức năng của một cơ quan địa phương ở Việt Nam 146
6.4. Thực hiện chính sách quốc gia về năng lượng
tại bốn tỉnh miền Nam Việt Nam 147
6.5. Tham gia ý kiến 150
6.6. Thảo luận 154
7. Kết luận và triển vọng sau hội thảo 167
Danh sách tham dự 169
7
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Viết tắt
ADEME Cơ quan Môi trường và Quản lý Năng lượng
AFD Cơ quan Phát triển Pháp
EDF Điện lực Pháp
EEC Tiết kiệm năng lượng và các bon
EECO Văn phòng tiết kiệm năng lượng
ERAV Cục điều tiết điện lực Việt Nam
ESCO Energy service-company
(Công ty dịch vụ điện trong lĩnh vực năng lượng)
EVN Tập đoàn điện lực Việt Nam
GEF Quỹ môi trường toàn cầu
GES Khí gây hiệu ứng nhà kính
MDE Quản lý cầu điện
MOIT Bộ Công Thương Việt Nam
OCDE Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
PNUD Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
RESPP Renewable Energy Small Power Project (Các dự án nhỏ về sản xuất năng
lượng tái tạo)
9
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Các bài tham luận tại phiên bế mạc cũng như các đề xuất mà các nhà tổ chức,
các bên tham gia, các chuyên gia trong và ngoài nước đưa ra được xếp theo 5 nội
dung lớn.
1. Phổ biến các thói quen tốt, các công nghệ đã qua
thử thách về quản lý năng lượng
Về tiết kiệm năng lượng, hội thảo này đã khẳng định rằng trong thực tế có rất
nhiều giải pháp kỹ thuật để giảm tiêu thụ năng lượng, dù đó là ở Việt Nam hay trên
thế giới. Tuy nhiên, những người quyết định vẫn chưa quan tâm đầy đủ tới hiện
trạng này và các cơ hội tạo ra từ đây để làm cho các hệ thống năng lượng phù hợp
với những thách thức kinh tế, năng lượng và môi trường.
Vấn đề được đặt ra ngày hôm nay chính là việc phổ biến rộng rãi các kỹ thuật và
thói quen này.
Về mặt tổ chức các chính sách và chương trình quản lý năng lượng, hội thảo này
cũng đã chỉ ra sự đa dạng của các hình thức tổ chức có thể triển khai: các phương
thức tập trung, triển khai các rơ le ở cấp tỉnh và địa phương, các dự án công và tư,
quan hệ đối tác công-tư, vv…
Tổng hợp
10
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
Tập hợp các công cụ kỹ thuật và thể chế đã được định rõ. Thách thức chủ yếu đối
với chính quyền trung ương và địa phương là vượt qua thời kỳ các phương thức thí
điểm và triển khai các phương tiện thể chế, nhân lực và tài chính để đảm bảo việc
nâng cao công tác quản lý năng lượng.
2. Triển khai một khuôn khổ thể chế và tổ chức
mang tính thực thi
Thách thức đối với Việt Nam là thách thức về tăng cường hoạt động công và việc
tổ chức hoạt động này sao cho có thể khuyến khích và hỗ trợ phát triển thị trường
tiết kiệm năng lượng và năng lượng tái chế.
Hoạt động này sẽ bắt đầu từ việc thực hiện một nghiên cứu cơ cấu để đưa các
giả thiết khác nhau và đánh giá các ảnh hưởng của các giải pháp này về tiết kiệm
năng lượng, về phát triển kinh tế xã hội, giảm tác động xấu về môi trường, sau
đó là lập chương trình và xác định kế hoạch hành động. Cuối cùng, và là hoạt
động quan trọng nhất, đó là tiếp tục cố gắng với một công việc chuyên sâu về các
phương tiện cần huy động để triển khai có hiệu quả các kế hoạch này.
Tại Việt Nam, các phương tiện hiện nay dành cho chính sách quản lý năng lượng
vẫn còn chưa đủ. Đặc biệt Việt Nam phải nhanh chóng có một cơ quan tạo ra
được tính hợp pháp cao, được thụ hưởng sự hỗ trợ chính sách thường xuyên và
chứng tỏ có năng lực để đảm nhiệm công tác điều phối, hướng dẫn và khuyến
khích quản lý năng lượng trong mọi lĩnh vực hoạt động và trên toàn lãnh thổ. Tổ
chức này cũng phải có các nhóm nhân viên ở cấp tỉnh và địa phương để đảm bảo
việc khuyến khích này tới gần các tác nhân kinh tế nhất và để phù hợp với thực tế
cơ sở. Mong rằng AFD có thể dành sự trợ giúp cho Việt Nam để hỗ trợ tăng cường
thể chế này.
Thời kỳ đầu tiên của quy trình thành lập cơ quan thể chế chuyên trách có thể
là đặt Cơ quan Chỉ đạo Quốc gia hiện nay về chính sách quản lý năng lượng dưới
sự quản lý trực tiếp của Thủ tướng để tạo cho cơ quan này có tính hợp pháp và
phương tiện điều phối toàn bộ các sáng kiến trong và ngoài nước về vấn đề này.
Cũng cần thiết rằng Ban này phải có các cơ sở tại các tỉnh.
3. Những ưu tiên hành động
Trong tình hình hiện nay của Việt Nam (tăng trưởng kinh tế mạnh, đô thị hóa với
tốc độ phi mã, nhu cầu giao thông tăng, vv…), không còn nghi ngờ gì nữa vấn đề
quản lý năng lượng tại các thành phố là định hướng hoạt động chiến lược. Một
11
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
nghiên cứu khảo sát các thách thức và định rõ các chương trình và phương tiện
áp dụng cho trường hợp cụ thể của 1 hay 2 thành phố thí điểm (không nhất thiết
phải là những thành phố quan trọng nhất) phải được cam kết, đồng thời liên kết
tất cả các tác nhân liên quan tới các chức năng khác nhau của thành phố vốn có
ảnh hưởng tới nhu cầu về năng lượng và tới các phương tiện đáp ứng các nhu cầu
này (tiêu thụ, quy hoạch, sản xuất).
Trong bối cảnh mất cân đối của mạng lưới điện và sự tăng trưởng không ngừng
nhu cầu, việc triển khai chương trình mở rộng về quản lý nhu cầu điện được đặt
ra. Những mục tiêu của một chương trình như vậy cũng như những đáp ứng về
kỹ thuật được biết và quản lý tốt: những lĩnh vực nhà ở, đất đai, nơi mà các thiết
bị hiệu năng cho chiếu sáng gia đình và công cộng, điều hòa không khí, làm lạnh
vv… phải được đặt ra; công nghiệp nơi mà các thiết bị hiệu suất điện cao và/hoặc
thay thế (động cơ đa tốc độ, máy nén khí, lò, vv…). Tại thời điểm hiện nay, vấn đề
không phải là nghiên cứu các cơ hội cho các cách thức này nữa mà là xác định
những giới hạn về kỹ thuật và tổ chức và đặc biệt là theo chỉ đạo của các cấp chính
quyền, kết hợp với Tổng công ty Điện lực Việt Nam, huy động nguồn nhân lực và
tài chính cần thiết cho việc lập các chương trình hành động và tài trợ các chương
trình này.
Tại khu vực nông thôn, nơi tập trung chủ yếu dân cư, những thách thức về sử
dụng có hiệu quả năng lượng và nguồn năng lượng tái chế tại địa phương là hết
sức quan trọng đối với sự kết hợp kinh tế và xã hội của đất nước và để đảm bảo
quy hoạch cân đối đất đai. Vì lý do này, cần phải có sự quan tâm đặc biệt. Việc gia
tăng mức tiêu thụ tại khu vực nông thôn phải đi đôi với gia tăng hiệu quả sử dụng
năng lượng bởi những cơ sở hạ tầng cung cấp năng lượng vẫn chỉ ở qui mô nhỏ và
trung bình, vì những lý do kinh tế bậc thang và do vậy vì lý do chi phí, điều này đòi
hỏi phải sử dụng tối ưu năng lượng. Mặt khác, khu vực nông thôn là nơi ẩn chứa
những mỏ năng lượng tái chế rất lớn: năng lượng sinh học (đã được khai thác rộng
rãi nhưng hiệu quả thì cần phải được nâng cao hơn nữa), thủy điện, năng lượng
mặt trời, gió hay địa nhiệt. Giá trị của những nguồn này có thể được nâng cao nhờ
các thiết bị có quy mô phù hợp với nhu cầu của cộng đồng và phải được khai thác
trong những điều kiện kỹ thuật và kinh tế tốt để đáp ứng các nhu cầu của người
dân và các doanh nghiệp tại khu vực nông thôn.
Nên tổ chức một hội thảo về vấn đề quản lý năng lượng ở vùng nông thôn này,
nhằm rút ra những kinh nghiệm từ các dự án/thử nghiệm đang được thực hiện
và điều chỉnh những cơ chế tham gia/khuyến khích của chính quyền phù hợp với
mục tiêu của Chính phủ là phổ biến rộng rãi tiết kiệm năng lượng và năng lượng
tái sinh tới mọi vùng nông thôn ở Việt Nam.
12
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
Cần triển khai những quy định chuyên biệt mang tính khuyến khích để năng
lượng tái sinh góp phần đáng kể vào bảng tổng kết năng lượng của cả nước.
Những nguồn năng lượng gió, nước, cùng năng lượng sinh học khá dồi dào ở
Việt Nam. Việc triển khai sử dụng hiệu quả những nguồn năng lượng này có thể
do các nhà đầu tư tư nhân đảm nhận, hoặc dưới hình thức hợp tác Nhà nước
– tư nhân, điều đó sẽ cho phép EVN và Nhà nước có thêm khả năng, đặc biệt là
khả năng vay nợ. Tuy nhiên, sự tham gia của những nguồn tài trợ tư nhân đòi hỏi
phải có những quy định rõ ràng về điều kiện sản xuất và ký hợp đồng để bán
điện cho mạng lưới điện quốc gia. Nếu Chính phủ Việt Nam mong muốn phát
triển những ngành này, Chính phủ phải nhanh chóng lập ra những quy định
dành cho các tổ chức tư nhân.
Hoạt động công về quản lý năng lượng cần đảm bảo sự nâng cao năng lực của
các tác nhân kinh tế nhờ vào các chương trình đào tạo, tiếp cận thông tin tốt hơn
và phát triển các hoạt động tuyên truyền quảng bá. Quản lý năng lượng là một ưu
tiên cần phải được phổ biến tới mọi ngành kinh tế và toàn xã hội (các chuyên gia, cơ
quan chính quyền, các doanh nghiệp, lĩnh vực giáo dục, những người được bầu).
Theo đó, đào tạo và triển khai các đơn vị có năng lực ở địa phương và cấp quốc gia
là một điều kiện để chính sách quản lý năng lượng đạt được thành công.
4. Những công cụ tài trợ đầu tư cho quản lý
năng lượng
Vấn đề tài trợ vượt ra ngoài khuôn khổ huy động nguồn tài chính của các cơ
quan hợp tác quốc tế. Trước hết cần có sự tham gia của các định chế tài chính
trong nước vào sự phát triển những cơ chế tài chính phù hợp với đặc trưng và bản
chất của việc đầu tư cho quản lý năng lượng. Khi cần, phải cung cấp nguồn và tài
trợ công để cho phép các ngân hàng cung cấp cho các chủ dự án (nhà nước và tư
nhân) những cơ chế tài chính khuyến khích cho phép ra quyết định đầu tư.
Do đó, lĩnh vực tài chính kể từ nay phải tham gia vào việc xác định các chương
trình và phương tiện để triển khai các chương trình này, như các tác nhân khác
(Chính phủ, các cơ quan hành chính, các chuyên gia và đại diện của các hộ gia
đình, các doanh nghiệp và chính quyền địa phương).
Đặc biệt, cần lập ra những công cụ bảo đảm để nâng số lượng các dự án có thể
được hưởng các ngân hàng cấp các khoản vay. Những định chế như AFD có thể
tham gia vào việc triển khai các cơ chế này cũng như việc lập ra những hạn mức tài
trợ lại các dự án một cách phù hợp.
13
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Dù vậy, hoạt động của các nhà tài trợ vẫn phụ thuộc vào những tác động của
Chính phủ, là cấp xác định những ưu tiên, các mục tiêu, những quy định mang
tính hạn chế từ đó các nhà tài trợ có thể lập những chương trình và phát triển các
dự án thông qua việc cung cấp nguồn vốn và năng lực chuyên môn của mình.
AFD tuyên bố sẵn sàng hỗ trợ cho phương thức này và thảo luận với các cơ quan
Việt Nam nhằm xác định đặc trưng của những nhu cầu này thông qua các nghiên
cứu chuyên sâu sẽ thực hiện trong những lĩnh vực được xác định là ưu tiên qua
hội thảo này (đô thị, tiết kiệm điện, nhà ở và khu vực nông thôn). Một sự hỗ trợ của
MEEDAT và/hoặc ADEME về thể chế và về kỹ thuật cho phương thức của AFD về
các chủ đề này có thể được xem xét.
5. Hợp tác song phương
Sự hợp tác quốc tế, và hợp tác song phương giữa Pháp và Việt Nam nói riêng, có
thể góp phần đẩy mạnh việc triển khai và thành công của các chương trình quản
lý năng lượng.
Thật vậy, Pháp có gần 40 năm kinh nghiệm trong việc xác định và thực hiện
chính sách tổng thể về quản lý năng lượng được thừa nhận ở châu Âu và ở tầm
quốc tế. Sự trao đổi kinh nghiệm giữa hai nước có thể nằm trong khuôn khổ một
thỏa thuận hợp tác tổng thể giữa các bộ có thẩm quyền, với việc triển khai một
nhóm làm việc Pháp – Việt để xác định những ưu tiên và thể thức của sự hợp tác
này, với sự tham gia của những cơ quan như ADEME. Sự hợp tác này có thể được
triển khai nhanh chóng.
15
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Ông Hervé Bolot
Đại sứ Pháp tại Việt Nam
Tôi rất vui mừng được chào mừng Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải. Sự hiện diện
của ông tại lễ khai mạc phiên họp của Hội đồng tối cao hợp tác Pháp Việt ngày
hôm qua cũng như trong triển lãm đa ngành nghề của Tuần lễ Pháp là một vinh
dự lớn đối với chúng tôi.
Hội thảo này sẽ cho phép chúng ta đề cập tới vấn đề năng lượng cũng như bốn
câu hỏi lớn liên quan tới chủ đề này: làm thế nào để đối phó với tình trạng tăng giá
nhiên liệu? Làm thế nào để đấu tranh chống lại tình trạng thay đổi khí hậu? Làm
thế nào để bảo đảm an ninh cung cấp năng lượng? Làm thế nào để tạo điều kiện
cho tất cả mọi người được tiếp cận với năng lượng?
Mối đe dọa về môi trường và kinh tế
Như chúng ta đã biết, nhân loại không thể tiếp tục khai thác một cách ồ ạt các
nguồn tài nguyên nhiên liệu như trước kia được nữa. Việt Nam là nước đặc biệt
chịu tác động của nguy cơ môi trường liên quan tới thay đổi khí hậu. Tình trạng
nước biển dâng cao có thể gây ngập cho 8,5% diện tích của Việt Nam và khiến 1/5
dân số phải di chuyển chỗ ở, tức khoảng 20 triệu dân.
Khai mạc hội thảo
16
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
Ngay trên bình diện kinh tế, tiếp tục tăng trưởng với tốc độ hiện nay sẽ là vô
nghĩa, theo kết luận của báo cáo Stern: chi phí thay đổi khí hậu có thể tương đương
với 5 tới 20 % GDP toàn cầu vào năm 2050, trong khi đó việc kiểm soát khí phát thải
gây hiệu ứng nhà kính và việc ổn định lượng khí này trong bầu khí quyển ở mức từ
500 hoặc 550 phần triệu sẽ chỉ tốn khoảng 1 % GDP toàn cầu. Tính bất cân đối giữa
cung và cầu năng lượng hiện đang đe dọa trực tiếp tới nền kinh tế, đặc biệt tại các
quốc gia mới nổi. Tại Việt Nam, tốc độ tăng trưởng tiêu thụ điện hiện rất cao (15 %
vào năm ngoái), và mặc dù đã triển khai một chương trình lớn về xây dựng các nhà
máy điện, chính phủ đang gặp nhiều khó khăn trong việc đối phó với tình trạng
thiếu điện. Tuy nhiên, mức độ tiêu thụ năng lượng tính trên đầu người của Việt
Nam hiện còn thấp, nếu so sánh với các nước láng giềng và năng lượng sinh khối
truyền thống chiếm gần 40% lượng năng lượng tiêu thụ. Điều đó cũng có nghĩa
một phần lớn dân số chưa được tiếp cận với năng lượng hiện đại.
Chương trình đầu tư của Điện lực Việt Nam (EVN) dự kiến sẽ tập trung vào phát
triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là phát huy tiềm năng thủy điện, một trong
những dự án mà AFD đã đề xuất được tài trợ. Chương trình trên cũng dự kiến việc
xây dựng một nhà máy điện hạt nhân vào năm 2020. Pháp có thể tham gia vào dự
án trên thông qua một thỏa thuận khung hợp tác. Tuy nhiên, hiện giờ chương trình
đầu tư trên chủ yếu mới chỉ tập trung vào sử dụng than đá, điều đó có nguy cơ làm
tăng ô nhiễm và lượng khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính.
Cần thiết phải tăng cường hiệu quả năng lượng
Việt Nam không thể chỉ dừng lại ở đầu tư nhằm tăng cường năng lực sản xuất
năng lượng, mà còn cần nỗ lực để cải thiện hiệu quả năng lượng của mình, nhất là
khi quản lý cầu năng lượng tốt thường có hiệu suất cao hơn nhiều so với việc xây
dựng các đơn vị sản xuất mới.
Hiện có nhiều giải pháp kỹ thuật để tăng cường hiệu quả năng lượng và hội thảo
này là dịp để chúng ta tìm hiểu một số các giải pháp đó, ví dụ như trong lĩnh vực
chiếu sáng đô thị. Tuy nhiên, nếu chỉ có giải pháp kỹ thuật không thì sẽ không đủ.
Tương tự như trong kinh nghiệm xử lý chất thải hoặc nước thải, trước tiên cần thay
đổi hành vi của người sử dụng, của các nhà công nghiệp, của lĩnh vực công và tư.
Khả năng tiết kiệm năng lượng tồn tại trong tất cả các khu vực của nền kinh tế :
thiết kế nhà, quản lý và quy hoạch thành phố, tổ chức giao thông, hiện đại hóa các
công cụ công nghiệp, hệ thống biểu giá cho năng lượng tái tạo, vv Chỉ trên cơ sở
huy động toàn bộ các tác nhân trong mọi lĩnh vực cùng tiết kiệm và sử dụng năng
lượng hiệu quả, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, ta mới có thể hướng tới
17
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
được sự phát triển bền vững cho cả cộng đồng. Chính vì vậy, các chính sách hiệu
quả năng lượng thành công nhất chính là các chính sách kết hợp phát minh đổi
mới kỹ thuật, cơ cấu lại tổ chức và thay đổi hành vi.
Một số đề xuất hợp tác cụ thể
Thông qua tổ chức hội thảo này, các cơ quan của Pháp hiện diện tại đây mong
muốn chia sẻ với các bạn kinh nghiệm và nghiệp vụ của Pháp đồng thời mở ra
triển vọng hợp tác về sử dụng tiết kiệm và bền vững năng lượng. Tôi hy vọng rằng
hội thảo này sẽ giúp chúng ta đưa ra được các đề xuất cụ thể, ví dụ như để thực
hiện kiểm toán năng lượng cho một thành phố hoặc một khu vực kinh tế cụ thể,
hay việc áp dụng một phương pháp quản lý theo cầu và khuyến khích giảm tiêu
thụ năng lượng.
Tôi xin cám ơn tất cả các đối tác đã cùng nhau hợp tác vì sự thành công của hội
thảo này: về phía Việt Nam, Bộ Công Thương và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về phía
Pháp, Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Cơ quan môi trường và tiết kiệm năng lượng
(ADEME), cũng như các doanh nghiệp của Pháp với năng lực nghiên cứu và thực
thi cao.
Ngài Hoàng Trung Hải
Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Thay mặt Chính phủ, tôi xin nhiệt liệt chào mừng các vị đại biểu Pháp và Việt
Nam tham gia Hội thảo về chính sách tiết kiệm năng lượng được tổ chức nhân
Tuần lễ Pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin chia sẻ quan điểm của Ngài Đại sứ về tình hình năng lượng của Việt Nam.
Mức tiêu thụ năng lượng trên đơn vị GDP ở Việt Nam rất cao, tác động đến cả
quá trình tăng trưởng của nền kinh tế và môi trường. Chúng ta phải đương đầu
với nhiều thách thức nếu chúng ta muốn phát triển bền vững. Trước mắt, chúng
ta phải cố gắng đáp ứng nhu cầu năng lượng. Về trung và dài hạn, chúng ta phải
quan tâm đến hoạt động bảo vệ môi trường và đảm bảo yếu tố bền vững trong
việc cung cấp năng lượng.
Việt Nam đang tiến hành soạn thảo luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả. Pháp là nước giàu kinh nghiệm về lĩnh vực này cùng chia sẻ với Việt Nam cách
làm của mình. Đây là một hoạt động vô cùng quý giá. Chúng tôi xin cảm ơn các đối
tác của Pháp đã quan tâm đến tình hình năng lượng của Việt Nam.
18
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
Chương trình của cuộc hội thảo rất phong phú. Tôi mong rằng hội thảo sẽ giúp
chúng ta đưa ra được những giải pháp cụ thể có thể triển khai được ở Việt Nam.
Chúc hội thảo thành công.
19
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Vấn đề năng lượng và
chính sách công
1
Ngài Bùi Xuân Khu
Thứ trưởng Bộ Công Thương
Chính phủ Việt Nam đánh giá rất cao Chương trình hội thảo ngày hôm nay do
các bên đối tác của Pháp và Việt Nam đồng tổ chức. Chương trình hội thảo hứa
hẹn nhiều nội dung hay: hội thảo sẽ là dịp để kết nối kinh nghiệm và trình độ kỹ
thuật nghiệp vụ của các cơ quan Pháp và Việt Nam trên vấn đề hiệu quả năng
lượng, một vấn đề có một tầm quan trọng đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay Việt
Nam đang thiếu năng lượng.
Ý kiến tham luận của các diễn giả sẽ cung cấp cho chúng ta các thông tin rất bổ
ích và các giải pháp nhằm đưa vấn đề hiệu quả năng lượng trở thành một công
cụ để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong những năm tới. Mặc dù
Việt Nam có mức độ tiêu thụ năng lượng rất thấp tính trên đầu người, song chúng
ta hiện đã nhận thấy khả năng tiết kiệm năng lượng là rất lớn. Để khai thác các khả
năng tiết kiệm này, chúng ta cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý mang tính ràng
buộc hơn, đặc biệt là hoạt động đánh giá và kiểm tra việc thực hiện các biện pháp
tiết kiệm năng lượng.
Thay mặt cho Bộ trưởng bộ công thương, tôi xin chân thành cảm ơn Sứ quán
Pháp, cơ quan phát triển Pháp AFD và các cơ quan liên quan của Pháp đã phối hợp
tổ chức Hội thảo ngày hôm nay, với số lượng người tham gia rất đông và tôi rất vui
mừng vì điều này.
20
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
1.1. Triển vọng và vấn đề năng lượng toàn cầu
Ông Bernard Laponche, chuyên gia quốc tế, nguyên cố vấn Bộ trưởng Bộ
môi trường
Khi phân tích tình hình năng lượng trên thế giới, ta nhận thấy không nên coi vấn
đề hiệu quả năng lượng chỉ là một bộ phận của các chính sách năng lượng mà cần
phải xem đây là một ưu tiên hàng đầu.
Tình hình tiêu thụ năng luợng tăng liên tục
Từ 1976 tới 2006, tổng lượng năng lượng sơ cấp tiêu thụ trên thế giới đã tăng từ
khoảng 6 tỷ tấn qui dầu (TQD) một năm lên tới 12 tỷ TQD. Năng lượng hóa thạch
chiếm 80% tổng lượng năng lượng nêu trên và năng lượng sinh khối chỉ chiếm 10
% và chủ yếu được dùng cho các hoạt động mang tính thông thường. Ngoài ra,
còn có 10 % năng lượng điện sơ cấp. Nguồn năng lượng này được sản xuất ở mức
55 % từ các loại năng tái tạo, đặc biệt là thủy điện và ở mức 45 % từ năng lượng
hạt nhân.
Trước các cú sốc dầu lửa 1974-1975 và 1979-1980, các nhà lãnh đạo trên thế
giới thuộc các nước phát triển đã quyết định triển khai các biện pháp tiết kiệm
năng lượng, tuy nhiên sau đó không lâu, các nỗ lực này đã bị đình trệ. Kể từ
những năm 2000, tình trạng tiêu thụ năng lượng hóa thạch có tốc độ tăng
trưởng ngày càng cao với sự xuất hiện của các nước mới nổi lớn có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao.
Tình trạng tiêu thụ năng lượng không đồng đều
Tình trạng tiêu thụ năng lượng hiện rất không đồng đều trên thế giới. Năm
2006, mức độ tiêu thụ năng lượng sơ cấp tính trên đầu người là 7,8 TQD tại Mỹ,
4,8 TQD tại Nga và 3,8 TQD tại châu Âu (4,5 TQD tại Pháp). Tại các nước mới nổi,
mức độ tiêu thụ năng lượng tính trên đầu người hiện thấp hơn các mức nêu trên
rất nhiều: Trung Quốc (1,5 TQD), Bra-xin (1 TQD), Việt Nam (0,7 TQD), hay Ấn Độ
(0,5 TQD).
Tại các nước mới nổi, tình trạng tăng mức độ tiêu thụ có một ý nghĩa hoàn toàn
khác so với các nước đã công nghiệp hóa: tình hình tăng tiêu thụ này phải được
phân tích trên cơ sở có tính tới nhu cầu tăng trưởng kinh tế chính đáng của các
nước này.
21
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Cường độ năng lượng
Khi phân tích cường độ năng lượng sơ cấp, có nghĩa là tương quan giữa tiêu thụ
năng lượng sơ cấp trên GDP (tổng thu nhập quốc nội), ta sẽ xác định được những
nước tiêu thụ năng lượng hiệu quả nhất. Tỷ lệ nói trên, được tính trên TQD/1000
USD, theo cân bằng sức mua, hiện nay đang ở mức 0,15 đối với Liên Minh châu Âu,
0,20 đối với Mỹ và 0,50 đối với Nga, hiệu quả của Nga như vậy là rất thấp.
Đối với Việt Nam, tỷ lệ này là 0,12 nếu không tính năng lượng sinh khối và là 0,25
nếu tính năng lượng sinh khối. Điều đó cho thấy hiệu quả thấp của việc sử dụng
năng lượng sinh khối dưới hình thức truyền thống, nguồn năng lượng này hiện
chiếm ½ tổng tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam.
Một số kịch bản thảm họa
Năm 2005, Cơ quan năng lượng quốc tế (AEI) đã công bố các kịch bản khác nhau
về diễn biến của tình trạng tiêu thụ năng lượng sơ cấp trong vòng 20 năm tới.
Kịch bản đầu tiên, dưới tên gọi BUA (« business as usual »), là kịch bản theo đó
tình trạng tiêu thụ sẽ phát triển theo hướng tiếp nối các xu hướng tiêu thụ hiện
tại. Kịch bản này dự báo tổng mức tiêu thụ sẽ tăng lên 12 tỷ TQD vào năm 2010 và
16 tỷ TQD vào năm 2030, trong đó năng lượng hóa thạch vẫn luôn chiếm tỷ trọng
lớn và năng lượng tái tạo chỉ chiếm một phần không đáng kể. Kịch bản trên được
coi là một kịch bản «rất xấu», bởi nó không mang tính hiện thực: mức độ khai thác
nguồn năng lượng như trên sẽ gây ra tình trạng cạn kiệt năng lượng vào năm
2040, đó là chưa nói tới tình trạng khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ tăng 1,5 lần,
điều này chắc chắn sẽ có tác động lớn đối với môi trường và làm ảnh hưởng tới
tăng trưởng kinh tế.
Để hiểu rõ hơn tính chất “không hiện thực” của việc tiếp tục mô hinh tiêu thụ năng
lượng hiện nay, ta có thể đưa ra giả thuyết theo đó mức tiêu thụ của các nước OECD
tính trên đầu người sẽ được duy trì ở mức ổn định, trong khi đó tiêu thụ của các nước
mới nổi từng bước sẽ tăng và đuổi kịp mức tiêu thụ của các nước phát triển (đây
cũng là điều chính đáng vì lý do phát triển kinh tế). Trong một vài thập kỷ tới, với số
dân không đổi (6 tỷ người), mức độ tiêu thụ sẽ đạt tới 30 tỷ TQD một năm và con số
này sẽ tăng tới 50 tỷ TQD khi dân số trên hành tinh tăng lên 9 tỷ người. Trong khi đó,
để cung cấp 50 tỷ TQD một năm, chúng ta phải khai thác ở mức tương đương với
5 hành tinh như trái đất của chúng ta. Giả thuyết này (theo đó sẽ tiếp tục mô hình
và các xu hướng tiêu thụ hiện nay) là hoàn toàn phi thực tế, dù xét dưới góc độ về
nguồn năng lượng, tác động tới môi trường hay phát triển kinh tế.
22
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
Một vấn đề năng lượng mới
Như vậy, cần thay đổi cơ bản tư duy tổng thể về vấn đề năng lượng. Người dân
sống trên hành tinh không trực tiếp cần tới năng lượng, nhưng cần tới các loại của
cải khác nhau mà năng lượng chính là cầu nối cho phép họ tiếp cận: giao thông,
tiện nghi, sản xuất, y tế, giáo dục Trên cơ sở triển khai các hoạt động trên nhiều
phương diện, họ có thể vẫn có khả năng tiếp cận với các loại của cải vật chất tương
tự song tiêu thụ ít năng lượng hơn rất nhiều so với trước đây. Yếu tố đầu tiên được
xác định bởi môi trường kinh tế và xã hội của đất nước, quá trình quy hoạch thành
phố và tổ chức hệ thống giao thông. Yếu tố thứ hai bao hàm tất cả các loại của cải
vật chất, máy móc công cụ, phương tiện đi lại cho phép con người có thể sử dụng
các loại dịch vụ khác nhau: nhà ở, đồ điện gia dụng, xe ô-tô, tàu hỏa, vv Yếu tố thứ
ba liên quan tới các nguồn năng lượng được sử dụng : sản phẩm dầu lửa, năng
lượng mặt trời, gỗ, điện Ta có thể tiết kiệm được rất nhiều năng lượng trên cơ sở
qui hoạch thành phố theo một cách tiếp cận khác, triển khai qui định về nhiệt cho
các tòa nhà, phát triển giao thông công cộng thay vì sử dụng xe riêng, qui định tiêu
chuẩn về bóng điện hoặc đồ điện máy gia dụng.
Cho tới hiện nay, vấn đề năng lượng gần như chỉ được xem xét trên bình diện thị
trường các sản phẩm dầu lửa và các phương tiện để sản xuất điện: như vậy trước
đây người ta chỉ quan tâm tới « cung năng lượng ». Từ nay, tất cả các lĩnh vực đều có
liên quan tới vấn đề này: qui hoạch lãnh thổ, giao thông, xây dựng, qui chuẩn hóa
thiết bị, vv. Nhiều trách nhiệm và thẩm quyền mới sẽ xuất hiện trong hoạt động
của chính quyền địa phương cũng như nhiều hình thức tinh thần công dân mới
sẽ dần được hình thành.
Tại Việt Nam, hai lĩnh vực có tốc độ tiêu thụ năng lượng tăng cao nhất là giao
thông (sản phẩm dầu lửa) và khu vực nhà ở-dịch vụ (điện). Đây chính là hai đối
tượng ưu tiên cần tác động tới.
23
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Việt Nam: Tiêu thụ năng lượng
tinh chế tính theo sản phẩm
Việt Nam: Tiêu thụ năng lượng
tinh chế tính theo ngành
Nguồn: Enerdata
Sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, đặc biệt thông qua việc giảm tiêu
thụ dầu lửa, sẽ đem lại ba lợi ích: an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường trong
mỗi nước và trên thế giới và cuối cùng là phát triển kinh tế. Thực vậy, nếu làm
được như vậy, ta không chỉ giảm được hóa đơn năng lượng, mà sự phát triển các
hoạt động nâng cao hiệu quả năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo còn
giúp tạo công ăn việc làm.
Một kịch bản hi vọng
Nếu cường độ năng lượng của các nước thuộc OECD được duy trì ở mức của
năm 1980, thì theo đánh giá, mức độ tiêu thụ năng lượng của các nước này có
thể sẽ là trên 6 tỷ TQD thay vì 4 tỷ. Mức năng lượng tiết kiệm được gần như tương
đương với tỷ trọng dầu lửa trong tiêu thụ hiện nay, điều này cho thấy tiềm năng tiết
kiệm thông qua sử dụng năng lượng hiệu quả hơn là rất lớn. Trên cơ sở áp dụng
các loại công nghệ hiện đại nhất đồng thời nâng cao tính hiệu quả trong quá trình
qui hoạch thành phố và tổ chức hệ thống giao thông, ta có thể đưa ra kịch bản
theo đó mức tiêu thụ năng lượng của thế giới vẫn tương đương với mức hiện nay
vào năm 2050.
Biểu đồ 1: Tình hình tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam
Nhà ở & dịch vụ, nông nghiệpĐiện
Than
Năng lượng sinh khối
Công nghiệp Giao thôngCác sản phẩm dầu lửa
24
Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam © AFD 2009
1.2. Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng ở
Việt Nam: thực trạng và triển vọng
Ông Nguyễn Đình Hiệp, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Chánh văn
phòng Tiết kiệm năng lượng, Bộ Công Thương
Năm 2005, Việt Nam đã sản xuất được 53,5 tỷ kWh điện, 34 triệu tấn than, 19 triệu
tấn dầu thô và 7 tỷ m3 khí gaz.
Từ 2000 tới 2005, mức độ tiêu thụ điện tăng bình quân 14,6 % một năm.
Từ 1995 tới 2006, mức độ tiêu thụ than đá đã tăng 17,4 % một năm (11,2 % cho
tiêu thụ trong nước và 23 % cho xuất khẩu).
Từ 2000 tới 2005, GDP tính theo đầu người của Việt Nam đã tăng từ 401 lên tới
645 USD và tiêu thụ năng lượng đã tăng từ 154 lên tới 250 Kg qui dầu (KQD) tính
trên đầu người. Cường độ năng lượng đã tăng từ 412 lên tới 500 KQD/1000 USD.
Mức độ tiêu thụ năng lượng tính trên đầu người hiện còn thấp, song cường độ
năng lượng là lớn, đặc biệt trong công nghiệp (600 tới 700 KQD/1000 USD), và
hệ số đàn hồi năng lượng hiện ở mức cao (1,46). Tiềm năng tiết kiệm năng lượng
trong các ngành khác nhau là rất lớn: 15 % đối với hoạt động cấp thoát nước và
gần 50 % trong công nghiệp xi măng và nông nghiệp.
Quyết định của các cơ quan Nhà nước
Trong những năm vừa qua, tình trạng tăng trưởng của tiêu thụ năng lượng trong
các lĩnh vực như giao thông, xây dựng và nhà ở đã đặc biệt thu hút sự quan tâm
của các cơ quan chính quyền ở Việt Nam.
Tháng 9/2003, chính phủ Việt Nam đã thông qua Nghị định về sử dụng tiết kiệm
và hiệu quả năng lượng và giao Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối trong việc
thi hành Nghị định này. Tháng 7/2004, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư qui
định việc quản lý và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với các Doanh
nghiệp công nghiệp. Ngoài ra, các quy định về tiết kiệm trong sản xuất, truyền tải,
phân phối và sử dụng điện đã được quy định trong nội dung Luật Điện lực đã được
Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 3/12/2004 .
Tháng 11/2005, Qui chuẩn về tiết kiệm năng lượng trong các tòa nhà thương
mại đã được ban hành, với mục tiêu giảm thiểu thất thoát năng lượng và nâng cao
25
© AFD 2009 Chính sách sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
tiện nghi cho điều kiện sống và làm việc. Tháng 11/2006 Bộ Công Thương cũng đã
ban hành Thông tư qui định cụ thể trình tự đăng ký, đánh giá và cấp giấy chứng
nhận nhãn tiết kiệm năng lượng.
Tháng 12/2007, Thủ tướng chính phủ đã thông qua chiến lược quốc gia về phát
triển năng lượng cho giai đoạn tới năm 2020 tầm nhìn 2050 nhằm đảm bảo các
mục tiêu an ninh năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, khuyến
khích sử dụng năng lượng tái tạo và bảo vệ môi trường.
Như vậy, chính sách sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và khuôn khổ
pháp lý đã được hình thành tại Việt Nam.
Các chương trình đang được tiến hành
Nhiều chương trình về sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng đã được
triển khai.
Chương trình đầu tiên
Chương trình đầu tiên của Việt nam về sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng
đã ra đời năm 1995. Chương trình này do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
thực hiện. Mục tiêu là thu thập và xử lý thông tin nhằm đánh giá tiềm năng tiết
kiệm năng lượng. Trên cơ sở nghiên cứu, một kế hoạch nhằm giảm tổng mức tiêu
thụ năng lượng từ 8 tới 10 % và giảm phụ tải vào các giờ cao điểm đã được xây
dựng song chưa được chính phủ phê duyệt.
Chương trình DSM&EE
Năm 2002, với sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới và Cơ quan hợp tác quốc tế
của Thụy Điển SIDA, Việt Nam đã triển khai chương trình quản lý và điều tiết cầu
(DSM&EE, Demand side management & energy e ciency), với ba mục tiêu: khuyến
khích sử dụng hiệu quả điện, giảm phụ tải vào giờ cao điểm, tạo điều kiện cho
người nghèo tiếp cận với điện.
Dự án này gồm 2 hợp phần. Hợp phần 1, trị giá 3 triệu USD, được thực hiện vào
năm 2000, đã cho phép thành lập được các nhóm làm việc và tăng cường năng lực
về DSM&EE và thực hiện các kiểm toán năng lượng. Hợp phần 2, trị giá 5 triệu USD,
diễn ra từ 2003 tới 2007, với 3 mục tiêu: giảm 120 MW phụ tải vào giờ cao điểm; tiết
kiệm 3 000 GWh trong tiêu thụ điện; giảm 0,6 triệu tấn khí phát thải CO
2
.