Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.48 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC



TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC
MẠNH THỜI ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Giảng viên hướng dẫn: TS.
Sinh viên thực hiện: ……………………….
Lớp: ………..
Mã sinh viên: ……..

Hà Nội, tháng 7 năm 2022
1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bài tiểu luận này, tơi xin bày tỏ sự cảm kích đặc biệt tới
…………………..- Người đã định hướng, trực tiếp giúp đỡ cho tôi trong q trình
thực hiện làm tiểu luận.
Tơi cũng xin cảm ơn các thầy/cô trong khoa………………….Trường
………………………………….. đã truyền đạt cho tôi những kiến thức chuyên
sâu về chuyên ngành trong suốt thời gian học tập để tơi có được nền tảng kiến thức
hỗ trợ rất lớn cho tơi trong q trình làm tiểu luận.
Xin chân thành cảm ơn!

2




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
4
NỘI DUNG
5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC
I.
5
MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
1.1.

Quan niệm về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với
1.2.
sức mạnh thời đại
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC KẾT HỢP
II.
SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong kết hợp sức
2.1.
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường và phát
2.2.
huy bản sắc văn hoá dân tộc trong kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại
Xây dựng một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ theo phương

2.3.
hướng phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn
lực bên ngoài chủ động hội nhập quốc tế
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3

5
6
10
10
11

13
14
15


MỞ ĐẦU
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là “một nội dung quan trọng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là quy luật, bài học kinh nghiệm lớn của
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, nhờ khéo kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam
giành thắng lợi suốt mấy thập kỷ qua. Trước những diễn biễn phức tạp của tình
hình trong nước và thế giới hiện nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn. Hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam
đã vượt qua mn trùng khó khăn thử thách giành được những thắng lợi vĩ đại, làm
cách mạng Tháng Tám thành công đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, tiến hành

thắng lợi hai cuộc chiến tranh giải phóng mang lại Tổ quốc thống nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội với hơn 30 năm đổi mới thành công rực rỡ. Thành công của
cách mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua đã để lại những bài học kinh
nghiệm có giá trị lịch sử và thực tiễn hết sức to lớn. Một trong các bài học đó là:
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại” [7, tr.50].
Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
quyết mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài, giữa phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực trong sự
nghiệp cách mạng. Từ thực tiễn thành công và chưa thành công trong những giai
đoạn cách mạng vừa qua, đã để lại bài học kinh nghiệm quý báu để Đảng ta tiếp
tục vận dụng và phát huy trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Vấn đề kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài tiểu luận
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

4


NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC
VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
1.1.Quan niệm về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
Quá trình bơn ba khắp năm châu bốn biển đi tìm đường cứu nước, “Hồ Chí
Minh đã chứng kiến cuộc sống khổ cực của các tầng lớp nhân dân lao động, đồng
thời mục kích rõ phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động ở
chính quốc và thuộc địa. Với nhãn quan của nhà yêu nước vĩ đại, Người nhận thức
sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của tinh thần dân tộc, từ đó phát hiện ra
mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa cũng như ngay tại
sào huyệt của chủ nghĩa tư bản. Sau khi được đọc bản Luận cương về các vấn đề

dân tộc và thuộc địa do V.I.Lênin soạn thảo, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở đó một
cẩm nang thần kỳ cho con đường cách mạng Việt Nam. Chính nhờ có tư duy nhạy
bén, sắc sảo trong nắm bắt chính xác những đặc điểm và xu thế phát triển của thời
đại, Người đã xác định đúng đắn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt
Nam. Đó là con đường cách mạng vơ sản. Từ đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã
hình thành những nội dung cơ bản về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế làm cơ sở định hướng toàn bộ
sự nghiệp cách mạng Việt Nam” [8, tr.120].
Sức mạnh dân tộc là “sức mạnh tổng hợp các cộng đồng quốc gia dân tộc,
gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, cả truyền thống và hiện tại, cả
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh được xây dựng và tăng
cường trong mỗi giai đoạn và cả quá trình lịch sử dân tộc, quyết định sự trường tồn
và phát triển của dân tộc”.
Sức mạnh thời đại là “sức mạnh của chân lý, lẽ phải, niềm tin, lương tri, trí
tuệ nhân loại, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và các nhân tố tiến bộ xã hội của
thời đại. Sức mạnh thời đại bao gồm: Lý luận tiền phong đó là chủ nghĩa Mác Lênin; Tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội; Thành tựu to lớn của khoa học
công nghệ hiện đại; Lực lượng u chuộng hồ bình, tiến bộ trên tồn thế giới;
Tình đồn kết quốc tế vơ sản vơ tư, trong sáng; Các phong trào, các lực lượng cách
mạng, dân chủ, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới; tinh hoa văn hoá và các giá trị
chung của nhân loại” [9, tr.52].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại bao
gồm cả sức mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao… cả sức mạnh vật chất
và sức mạnh tinh thần; sức mạnh trong nước và sức mạnh ngoài nước. Mỗi yếu tố
đó có giá trị riêng nhưng đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, yếu tố
bao trùm nhất, trở thành giá trị chung chính là sức mạnh làm chủ và khát vọng về
5


quyền tự do, độc lập, bình đẳng, hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân lao động”
[9, tr.54].

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại
“Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong điều kiện thời đại có
những biến đổi to lớn, đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. Thời đại chủ nghĩa tư bản phát triển
thành chủ nghĩa đế quốc, gắn liền với hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa đế quốc tạo
dựng nên”. Nhắc nhở những người cộng sản cần bám sát yếu tố thời đại để định ra
đường lối cách mạng cho phù hợp, Lênin khẳng định: “chúng ta đang sống ở
khoảng giao thời giữa hai thời đại và chỉ có thể hiểu được những biến cố lịch sử có
ý nghĩa lớn lao đang diễn ra trước mắt chúng ta nếu trước hết chúng ta phân tích
những điều kiện khách quan của bước chuyển từ thời đại này sang thời đại kia”
[10, tr.410]. Quán triệt tinh thần đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: “Thời đại của chủ
nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính
cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc, bởi vậy cơng cuộc giải
phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng
vơ sản. Từ thực tiễn yếu tố thời đại đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc tin tưởng thời kỳ
tồn tại biệt lập giữa các quốc gia dân tộc bị xố bỏ, thay vào đó là sự mở rộng quan
hệ giữa các nước, vận mệnh của mỗi dân tộc gắn liền với vận mệnh chung của cả
loài người. Do đó, sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận khăng
khít của sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới” [8, tr.190].
“Trước khi Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, ở Việt Nam đã có
nhiều nhà yêu nước nhiệt thành dám đứng lên tập hợp nhân dân phất cao ngọn cờ
đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Nhưng các phong trào đó đều mang
nặng tính tự phát, cơ lập, khơng gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,
không nắm bắt được xu thế chung của thời đại, kết cục đều đi đến thất bại. Nguyễn
Ái Quốc không đi theo, không lặp lại những thất bại của cha anh mình mặc dù rất
khâm phục tinh thần yêu nước của họ. Người ra đi tìm đường cứu nước, xem họ
làm thế nào, đi tìm sự mách bảo của thời đại để cứu nước cứu dân. Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin tìm thấy con đường cứu nước đúng cho cách

mạng Việt Nam. Từ đây khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải
hoà nhập chung vào phong trào cách mạng vô sản thế giới, là một bộ phận khăng
khít của cách mạng vơ sản thế giới” [8, tr.192].
Nội dung chủ yếu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
6


Một là, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế vơ sản trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính...
là một bộ phận của tinh thần quốc tế”[5, tr.137]. Do đó “sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại chỉ được phát huy khi kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa u nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng. Là nhà yêu nước chân chính, Hồ
Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc; đồng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu
tranh không mệt mỏi để củng cố tăng cường tình đồn kết và hữu nghị giữa Việt
Nam và các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hồ bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh: Đảng ta lấy tồn bộ hoạt
động thực tiễn của mình để chứng minh chủ nghĩa u nước chân chính khơng thể
nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản” [9, tr.67].
“Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, thói kỳ thị màu da, tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ giữa các dân
tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vơ sản phải thực hiện triệt để tư tưởng kết hợp
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng”. Từ đó,
muốn giải phóng mình thì nhân dân “bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đồn kết
lại và chống bọn áp bức” [6, tr.101]. Người không giấu nổi niềm phấn khởi khi
thấy trường đại học phương Đông đã thể hiện rõ tư tưởng của Lênin về kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng qua việc đồn
kết các dân tộc thuộc địa: “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh

phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản” [7, tr.519]. Rằng đây bốn biển một nhà, vàng đen trắng đỏ đều
là anh em.
“Để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện
giành độc lập cho dân tộc, trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh ln địi hỏi mọi người phân biệt rõ sự khác nhau
giữa nhân dân lao động yêu chuộng hoà bình, tự do với bọn thực dân đế quốc;
nhân dân lao động pháp với bọn thực dân xâm lược Pháp. Thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược gây bao tội ác đối với nhân dân Việt Nam, nhưng Hồ Chí Minh
vẫn ln đề cao văn hố Pháp, ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập tự do
của nhân dân Mỹ. Hàng loạt những biểu hiện nêu trên đã làm cho thế giới càng
hiểu rõ hơn về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam; làn sóng phản
đối chiến tranh ở Việt Nam không ngừng được mở rộng cả ở trong nước và thế
giới. Khắp các châu lục đòi đế quốc thực dân phải chấm dứt chiến tranh lập lại hồ
bình ở Việt Nam; tinh thần u nước chân chính với tinh thần quốc tế vơ sản được
7


phát huy cao độ, tạo ra sức mạnh tổng hợp để chống quân xâm lược. Như vậy, chủ
nghĩa yêu nước chân chính muốn kết hợp được với chủ nghĩa quốc tế vô sản, những
người cộng sản phải dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin về tinh thần quốc tế vô
sản mà vận dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng nước mình cho phù hợp, kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc vị
kỷ, chủ nghĩa sô vanh, bảo vệ lợi ích của dân tộc mình và lợi ích chung của các dân
tộc khác vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội” [8, tr.89].
Hai là, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngồi, khơng
qn nghĩa vụ quốc tế vơ sản. “Vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về mối quan
hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài, khách quan và chủ quan vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Trong quá trình tiến hành cách
mạng phải tranh thủ sự giúp đỡ về mọi mặt từ bên ngồi, nhưng ln đề cao ý thức

tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính. Theo Hồ Chí Minh sức mình ở đây
chính là sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, là nguồn
nội lực, là cái gốc, điểm mấu chốt để đảm bảo nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài đạt kết
quả. Sức mạnh của dân tộc là một động lực lớn đã kiểm nghiệm qua thực tiễn được
Người khẳng định: Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Trong tư
duy Hồ Chí Minh để tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, trước hết phải chủ động tạo
ra sức mạnh của chính mình. Bởi lẽ muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự
giúp lấy mình đã. Người thường nói: Có độc lập mới có tự lập, có tự cường mới có
tự do: Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ
lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập. Sức mạnh
đó không phải ở đâu xa lạ, mà nằm ngay trong sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân, sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam yêu nước được hun đúc qua
hàng ngàn năm lịch sử” [8, tr.90].
Trong mối quan hệ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, “Hồ
Chí Minh coi sức mạnh của thời đại là nhân tố quan trọng, sức mạnh của dân tộc là
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 ở Việt Nam là một ví dụ điển hình cho sự kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại. Những điều kiện khách quan vô cùng thuận lợi cho cách mạng
đã tới, nhưng Hồ Chí Minh vẫn coi yếu tố bên trong là quyết định. Người kêu gọi:
Hỡi toàn quốc đồng bào, hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta. Dựa vào
sức mình là chính nhưng phải tranh thủ sự giúp đỡ bên ngồi có hiệu quả, Người
nói: Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy
để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta” [8, tr.91].
8


Để tranh thủ sức mạnh từ bên ngồi, “Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ,
đảng viên, nhân dân ta làm sao tuyên truyền cho sâu, cho rộng cuộc chiến tranh
chính nghĩa của Việt Nam trước nhân dân tiến bộ u chuộng hồ bình, tự do cơng

lý trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, thực hiện tư tưởng ngoại
giao nhân dân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của nhân dân ta diễn ra
trong hoàn cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa có sự bất đồng, nhất là giữa
Liên xô và Trung Quốc. Đảng ta định ra đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp cuộc
đấu tranh chung của nhân loại vì những mục tiêu của thời đại là hồ bình, độc lập,
dân chủ với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Đường lối
đó chẳng những đã góp phần tăng cường sự đoàn kết giữa các đảng, mà cịn huy
động được sức mạnh bên ngồi, tranh thủ được phong trào đấu tranh của nhân dân
thế giới, ủng hộ Việt Nam giành độc lập, tạo ra được một mặt trận rộng lớn, mạnh
mẽ chưa từng có đồn kết với Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Tranh thủ sự giúp đỡ
của quốc tế với Việt Nam, Hồ Chí Minh đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của Việt
Nam với phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế. Khi có sự mất đồn kết giữa
các dân tộc phải cùng nhau khơi phục, củng cố, phát triển tình đồn kết có lý, có
tình trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin về tinh thần quốc tế vô sản. Nhân dân Việt
Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập tự do cho dân tộc mình mà cịn vì độc lập tự
do của các nước khác” [9, tr.97].
Ba là, xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc
và các lực lượng cách mạng, hồ bình, dân chủ trên thế giới. “Xây dựng tình hữu
nghị hợp tác, đồn kết giữa các quốc gia dân tộc và các lực lượng cách mạng, hồ
bình, dân chủ trên thế giới, là điều kiện quan trọng để tranh thủ, khai thác sức
mạnh từ bên ngoài vào củng cố giữ vững nền độc lập cho dân tộc, xây dựng đất
nước vững mạnh. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề đó, sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới việc mở
rộng xây dựng tình hữu nghị, quan hệ hợp tác với các lực lượng cách mạng, hồ
bình, dân chủ trên thế giới” [8, tr.88]. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong chủ
trương, đường lối, chính sách của Nhà nước ta: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ
trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với chính phủ nước nào tơn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ
và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam để cùng nhau bảo vệ hồ bình và xây

đắp dân chủ thế giới” [6, tr.618].
“Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện
với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hồ bình. Nước Việt Nam độc
lập có quyền bình đẳng với mọi quốc gia, dân tộc khác trên thế giới. Các nước
9


khác trên thế giới cũng phải tôn trọng quyền độc lập của Việt Nam, xây dựng tình
hữu nghị đồn kết với Việt Nam. Để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt
Nam với các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã có nhiều cuộc đi thăm hữu nghị
chính thức một số nước ở châu Á như Ấn Độ, Miến Điện, Inđơnêxia... hình thành
trục hữu nghị Hà Nội - Niuđêli - Giacácta và đón tiếp nhiều đồn đại biểu cấp cao
từ các nước Á, Phi; nhiều tổ chức quốc tế sang thăm Việt Nam. Từ năm 1963 Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước ta đã chủ trương vận động nhân dân thế giới, các tổ
chức của nhân dân Á, Phi, Mỹ la tinh có hành động phối hợp mạnh mẽ hơn đòi đế
quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Kết quả là ở nhiều nước đã thành lập
Uỷ ban đoàn kết với Việt Nam và Hồ Chí Minh cũng khơng qn gửi điện cảm ơn
kịp thời tới vị đứng đầu các tổ chức đó” [8, tr.100].
Như vậy, “theo Hồ Chí Minh Việt Nam muốn kết hợp được sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại thì phải mở rộng mối quan hệ hữu nghị với tất cả các
nước, các lực lượng hồ bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Mặt khác chúng ta chủ
trương xây dựng tình hữu nghị đồn kết hợp tác lẫn nhau nhưng phải trên cơ sở
hợp lý và hợp tình. Về lý, phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền,
tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi. Về tình, mở rộng quan hệ với các nước
nhưng ln chú ý tới đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, coi trọng đặc điểm của dân
tộc mình nhưng khơng làm hại đến lợi ích của dân tộc khác. Quan điểm đó là
phương hướng hành động cho Đảng ta xác định đường lối, chủ trương, chính sách
ngoại giao trong lịch sử và đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ
quốc tế hiện nay” [9, tr.86].
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC KẾT HỢP SỨC MẠNH

DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH
MẠNG HIỆN NAY
2.1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại
Giữ vững dịnh hướng xã hội chủ nghĩa trong kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại là “u cầu có tính ngun tắc chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn.
Ngày nay sức mạnh dân tộc là sức mạnh của độc lập, tự do, sức mạnh của lòng dân
kết tinh những phẩm chất cao quý con người Việt Nam (như đồn kết, cần cù,
thơng minh, sáng tạo). Đó là sức mạnh của văn hóa giữ nước Việt Nam; sức mạnh
của những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực mà nhân dân ta đã đạt được trong công
cuộc đổi mới đất nước những năm vừa qua. Trước những biến động phức tạp của
tình hình chính trị thế giới, sức mạnh của thời đại là sức mạnh của quy luật phát
triển xã hội loài người quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi tồn thế giới nhưng có những nội dung và hình thức mới. Đó là sức mạnh của
10


chủ nghĩa xã hội đang hồi sinh và đổi mới; sức mạnh đồn kết của giai cấp cơng
nhân, của các lực lượng tiến bộ và nhân dân lao động các nước đấu tranh chống sự
áp đặt cường quyền của các nước đế quốc, chống mặt trái của tồn cầu hóa, phấn
đấu vì mục tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; là sức mạnh
của đường lối và chính sách ngoại giao đúng đắn và sáng tạo của Đảng và nhà
nước ta: Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình độc lập và phát triển; là sức mạnh của khoa học
công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, cùng với nguồn lực trí tuệ
của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đang hướng về Tổ quốc. Để phát huy
được sức mạnh tổng hợp đó phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền,
bình đẳng cùng có lợi, bảo đảm cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa” [11, tr.56-57].
Giữ vững định hướng xã hội trong công cuộc đổi mới là “một nội dung quan

trọng. Trước những biến đổi sâu sắc của tình hình quốc tế hiện nay việc giữ vững
định hướng phát triển của đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội là một vấn đề có
ý nghĩa quyết định, đó là phương hướng chính trị và quan điểm chỉ đạo cơ bản,
được Đảng ta quán triệt sâu sắc và nhất quán trong mọi hoạt động thực tiễn”. Ngay
từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại
hội VII, Đảng ta đã nhận định “lịch sử đang trải qua những bước quanh co, song loài
người cuối cùng nhất định sẽ tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch
sử” [1, tr.8]. Đồng thời Đại hội cũng đi đến chủ trương: “phải giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và
chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái
mới. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu ở nước ta…Điều kiện cốt yếu để
công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là
trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trị lãnh đạo xã hội” [3, tr.102].
2.2. Giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự
cường và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Đây là “một một quan điểm, phương châm chiến lược đúng đắn sáng tạo của
Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trở thành một vấn đề mang
tính quy luật của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Một dân
tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng
đáng được độc lập. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Đảng ta luôn coi
trọng việc phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc. Chỉ có bằng sức mạnh của nội
lực thì chúng ta mới có nền tảng vững chắc để bồi bổ lực lượng vượt qua mọi hy
11


sinh, gian khổ mọi tình huống phức tạp, đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
Hiện nay, xuất phát từ bối cảnh quốc tế và cục diện cách mạng trong nước kế thừa
và phát triển những bài học kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại trong điều kiện mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định phải khơi dậy phát huy
cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững và xác định rõ nội lực là
quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để
phát triển đất nước” [11, tr.45].
Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng “trong quá trình kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, trước hết phải nêu cao ý chí tự lực tự cường, phát huy cao
nhất các yếu tố nội lực dựa vào nguồn lực trong nước là chính, bao gồm nguồn lực
con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống (lịch sử, văn hóa của dân tộc).
Kinh nghiệm cho thấy, nếu không nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, không phát huy đầy đủ nội lực thì khơng thể đứng vững, đi lên một cấch
lâu bền và cũng không thể hội nhập quốc tế một cách bình đẳng. Ngược lại để hội
nhập một cách chủ động, tránh đánh mất mình hay hịa tan mình vào cuộc hội nhập
đầy phức tạp và tiềm tàng những bất trắc thì khơng thể khơng xây dựng và phát
triển một nội lực mạnh mẽ đủ khả năng giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường,
tiếp thu và sử dụng có hiệu quả ngoại lực để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn cách mạng nước ta, nhất là sau hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh rằng
tư tưởng độc lập, tự chủ, tự lực tự cường là hồn tồn đúng đắn. Chỉ có trên cơ sở
độc lập tự chủ chúng ta mới có sự sáng tạo trong đường lối cách mạng, luôn luôn
chủ động và năng động trong thực tiễn. Có nêu cao tinh thần tự lực tự cường thì
trong khi cách mạng gặp khó khăn, hồn cảnh quốc tế bất lợi, chúng ta mới có thể
đứng vững và xử lý các tình huống một cách tự tin, và do đó mới vượt qua được thử
thách đưa cách mạng tiến lên. Có biết phát huy cao độ các tiềm năng nội sinh, khơi
dậy một cách sáng tạo và năng động của các nguồn lực cả về vật chất và tinh thần,
mới có điều kiện và khả năng tiếp nhận, sử dụng sứcmạnh thời đại có hiệu quả. Độc
lập tự chủ tự lực tự cường không chỉ là phát huy các tiềm năng vốn có của đất nước,
mà cịn tích cực chuẩn bị, bổ sung không ngừng các điều kiện, khả năng để tiếp
nhận và sử dụn có hiệu quả cao nhất sức mạnh của thời đại” [11, tr.46].
Nhận tức sâu sắc về mối quan hệ giữa sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
của thời đại, Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm “Phải chủ

động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và
phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệp quốc tế phù hợp Việt Nam” [4, tr.78].
12


2.3. Xây dựng một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ theo phương hướng
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài chủ động
hội nhập quốc tế
Đó là “nền kinh tế độc lập tự chủ đáp ứng nhu cầu xây dựng Tổ quốc giàu
mạnh, có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, đồng thời đáp ứng nhu cầu xây
dựng nền quốc phòng đủ mạnh để răn đe kẻ thù và đánh thắng chúng khi chúng
liều lĩnh xâm lược. Để xây dựng một nền kinh tế như vậy, trước hết chúng ta phải
phát huy nội lực của chính mình trên tinh thần đem sức ta để giải phóng cho ta.
Chúng ta phải bắt đầu từ xây dựng nền kinh tế, vì đó là đầu mối của mọi vấn đề,
xây dựng nền quốc phòng cũng phải như vậy. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; đồng thời phải xây dựng được tiềm lực kinh tế, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại, có năng lực nội sinh về khoa học cơng nghệ…đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển trên chính khả năng của mình và phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, an
tồn về tài chính, an ninh lương thực, năng lượng… đủ sức ứng phó với các tình
huống xấu xảy ra” [11, tr.67].
“Phát huy sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế là một chủ trương
lớn, một bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Việc phát huy nội lực gắn
với nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế càng trở nên quan trọng và bức thiết trong
công cuộc đổi mới đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Xây dựng nền kinh tế trong
thời kỳ mới Đảng ta luôn xác định phải tiếp tục thực hiện đường lối kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tức là giải quyết đúng đắn mối quan hệ nội
lực và ngoại lực trong xây dựng nền kinh tế ở nước ta. Nội lực là quyết định, ngoại
lực là quan trọng, hai nguồn lực đó gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để

phát triển đất nước. Phát huy nội lực gắn chặt với nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế trở thành nhu cầu tất yếu có tính quy luật. Chỉ có phát huy nội lực, phát huy sức
mạnh tiềm năng của đất nước mới nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Ngược lại
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế ngày càng cao, mới khai thác phát huy nội lực
ngày càng lớn” [11, tr.68]. Sự kết hợp đó khơng đơn thuần chỉ là sự cộng lại mà đó
chính là “sự thẩm thấu, hịa quyện chặt chẽ không tách rời tạo nên tổng lực sức
mạnh, trong đó phát huy nội lực có ý nghĩa quyết định” [2, tr.56].

13


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những tư tưởng của Người vẫn luôn
là kim chỉ nam cho ý chí và hành động của dân tộc. “Trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận rõ vai
trò, tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Thực tiễn quá trình vận động và biến
đổi của cách mạng nước ta cho thấy: ở giai đoạn cách mạng nào, thời kỳ nào tư
tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Hồ Chí Minh được
quán triệt và vận dụng đúng thì cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được
thắng lợi, ngược lại thời kỳ, giai đoạn cách mạng nào, xa rời tư tưởng đó, thì cách
mạng bị trở ngại và tổn thất. Vì vậy, việc nhận thức, quán triệt đúng tư tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình hiện
nay có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong bối cảnh diễn biến phức tạp của thế
giới đương đại và đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta
hiện nay” [11, tr.61].
Hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, “cách mạng Việt Nam đã vượt
qua mn trùng khó khăn thử thách giành được những thắng lợi vĩ đại, làm cách
mạng Tháng Tám thành công đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, tiến hành thắng
lợi hai cuộc chiến tranh giải phóng mang lại Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên

chủ nghĩa xã hội với hơn 30 năm đổi mới thành công rực rỡ. Thành công của cách
mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua đã để lại những bài học kinh nghiệm có
giá trị lịch sử và thực tiễn hết sức to lớn. Một trong các bài học đó là: Phát huy cao
độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại” [9, tr.89].

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
6. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
7. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
8. Trầng Hồng Minh (2015), Hồ Chí Minh với con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Nhung, Kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại của Đảng ta - Những bài học lịch sử, Tạp chí Lịch sử đảng, số 76/2017.
10. V.I.Lênin, toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
11. Trần Thế Yên, Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số
17/2019.


15



×