Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vận dụng vào thực tiễn cách mạng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN
THÔNG KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

-------------o0o------------

BÁO CÁO TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT
Đề tài:
“TỪ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC, VẬN DỤNG VÀO
THỰC TIỄN CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”

Năm 2021-2022
1


Mục lục

Chương 1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lenin
4
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm

4

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin

6

1.2.1. Vật chất quyết định ý thức

6


1.2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất

7

1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận

9

Chương 2. Vận dụng vào xây dựng CNXH ở Việt Nam

10

2.1. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới

10

2.2. Vận dụng vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa ở Việt Nam

14

TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI CẢM ƠN

22
23

2


Lời nói đầu

Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất
của Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục tiêu này, chúng ta
mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam mà theo cách nói của Hồ Chí Minh
là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Và cũng chỉ xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới có thể làm thoả mãn ham muốn
tột cùng, ham muốn cuối đời của Người đó là: “Làm sao cho dân ta ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành …”. Vậy chúng ta phải làm thế nào để thực hiện
mục tiêu trên? Từ thực tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu
tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải: dùng lập
trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những kinh
nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có
như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu được quy luật phát triển của Cách
mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách
mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình nước ta.
Làm đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, một công dân của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt tơi muốn cùng mọi người tìm hiểu
sâu hơn và kĩ hơn về Triết học Mác – Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Mặt khác, tơi
cũng muốn góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn
lao của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay- sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội- mà
nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là, mọi sách lược, chiến lược cách
mạng của chúng ta phải được xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy được tính
năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. Đây được coi là một
vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó quyết định sự thành cơng hay thất bại trên con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong
phần nội dung của đề tài.

3



TỪ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC, VẬN DỤNG VÀO
THỰC TIỄN CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chương 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THEO QUAN ĐIỂM
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm gồm: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách
quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thc con ngưi.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng
coi đó là là th tinh thn khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.
Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau
như ý niệm, tinh thn tuyệt đ i, lý tính th" gi#i, v.v…
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra
giới tự nhiên. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một
lực lượng siêu nhiên nào đó đối với tồn bộ thế giới. Vì vậy, tơn giáo thường sw
dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của
mình, tuy có sự khác nhau đáng kể giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa
duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tơn giáo, lịng tin là cơ sở chủ yếu và đóng
vai trị chủ đạo đối với vận động. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phym
của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và năng lực mạnh mẽ của tư duy.
Về phương diện nhận thức luận, sai lầm cố ý của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ
cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào
đó của q trình nhận thức mang tính biện chứng của con người.


4


Bên cạnh nguồn gốc nhận thức, chủ nghĩa duy tâm ra đời cịn có nguồn gốc xã hội.
Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí
óc đối với lao động chân tay trong các xã hội trước đây đã tạo ra quan niệm về vai
trò quyết định của nhân tố tinh thần. Trong lịch sw, giai cấp thống trị và nhiều lực
lượng xã hội đã từng ủng hộ, sw dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho
những quan điểm chính trị – xã hội của mình.
Học thuyết triết học nào thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh
thần) là bản nguyên (nguồn gốc) của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới
được gọi là nh$t nguyên luận (nhất nguyên luận duy tâm).
Trong lịch sw triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả hai
bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có
thể cùng quyết định nguồn gốc và sự vận động của thế giới. Học thuyết triết học
như vậy được gọi là nh' nguyên luận, điển hình là Descartes (Đề-các). Những
người nhị nguyên luận thường là những người, trong trường hợp giải quyết một
vấn đề nào đó, ở vào một thời điểm nhất định, là người duy vật, nhưng ở vào một
thời điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người duy tâm. Song, xét
đến cùng nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Các nhà triết học duy tâm, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm
chủ quan, từ thời cổ đại đến hiện đại tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự
vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của
chúng. Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại hiện thực của giới tự
nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của nó là do “sự tha hoá” của “tinh thần thế
giới”. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật,
hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của
ý thức. Do đó về mặt nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm cho rằng con người hoặc
là không thể, hoặc là chỉ nhận thức được cái bóng, cái bề ngồi của sự vật, hiện
tượng. Thậm chí q trình nhận thức của con người, theo họ, chẳng qua chỉ là quá

trình ý thức đi “tìm lại” chính bản thân mình dưới hình thức khác mà thơi. Như
vậy, về thực chất, các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách
quan của vật chất. Thế giới quan duy tâm rất gần với thế giới quan tôn giáo và tất
yếu dẫn họ đến với thần học.

5


1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và
thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục
đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. Vấn đề dân tộc là một bộ
phận của những vấn đề chung về cách mạng vơ sản và chun chính vơ sản. Do đó,
giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét
và giải quyết vấn để dân tộc phải đáp ứng vững trên lập trường giai cấp cơng nhân.
Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở
và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc. V.I.Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh dân tộc"
với ba nội dung cơ bản:
- Các dân tộc hồn tồn bình đẳng: Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người,
có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, khơng
có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc
nào.
- Các dân tộc được quyền tự quyết: Quyền làm chủ, tự quyết định con đường kinh
tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình.
- Liên hiệp cơng nhân tất cả các dân tộc: "Cương lĩnh dân tộc" của V.I.Lênin. Tư
tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp cơng nhân, phong trào cơng
nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp.

Đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải
phóng dân lộc. Nó có vai trị quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình
đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức
mạnh bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

1.2.1. Vật chất quyết định ý thức
- Vật tồn tại khách quan độc lập với ý thức, là nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức là
một thuộc tính của bộ phận con người, phụ thuộc và hoạt động của bộ não.
- vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều, qua lại và tác động lẫn nhau, trong đó
VẬT CHẤT quyết định Ý THỨC, song ý thức thì khơng hồn toàn thụ động mà
6


tác động trở lại thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người. Mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng.
- Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức
là sự phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu khơng
có vật chất trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ khơng có ý thức nên ý
thức là thuộc tính, là sản phym cuy vật chất, chịu sự chi phối, quyết định của vật
chất. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này có cơ
sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật chất.
Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa
là ý thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Những thơng tin này
có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ tác
động của vật chất lên bộ óc con người.
- Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo. Như vậy, vật chất quyết định cả nội
dung và khuynh hướng vận động, phát triển của ý thức. Vật chất cũng cịn là
điều kiện, mơi trường để hiện thực hoá ý thức, tư tưởng.
1.2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất

Nếu vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung phản ánh và sự vận động, phát triển
của ý thức thì:
Ý thức cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Điều này được
thể hiện thơng qua 4 khía cạnh:
+ Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Ý thức có tính độc lập tương đối nghĩa là vật chất ln là cái có trước và quyết
định ý thức, nhưng ngược lại ý thức
cũng có tác động trở lại đối với vật chất
- Hay nói cách khác ý thức chính là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc
- Xét về một mặt nào đó tương tự như mối quan hệ nhân quả.
Bên cạnh đó, Ý thức song hành với hiện thực. Ý thức có thể lạc hậu hoặc vượt
trước hơn so với sự biến đổi
của đối tượng trong thế giới vật chất.
Ví dụ: Con người trong thời kì CN 4.0 – xã hội thông tin đã mong muốn, mơ ước
vượt lên trên thành tựu thời đại để
dự định về 1 thời kì 5.0. Xã hội siêu thơng tin (Máy móc, vi máy tính vượt trội,
đỉnh cao của mọi thời kì). Đó là sự vượt trội của nhận thức loài người.
7


Nhưng trong một diễn biến khác về sự song hành chậm hơn của ý thức ta lại thấy
mặc dù chế độ pk đã được xóa bỏ từ
rất lâu nhưng tư tưởng “Trọng nam khinh nữ” vẫn tồn tại ở đâu đó trong xã hội.
- Và hơn hết, thơng qua những trải nghiệm, nhìn nhận về cuộc sống, ta nhận thấy
rằng nhìn chung, ý thức
thường thay đổi chậm hơn so với vật chất. Hay chúng ta vẫn thường nói với nhau:
“Người tính khơng bằng trời tính”.
+ Sự tác động của ý thức đối với thế giới vật chất thông qua các hoạt động
thực tiễn của con người:
- Phương thức phản ánh của ý thức là thông qua hoạt động thực tiễn của con người,

biến sức mạnh tinh thần thành sức
mạnh vật chất
- Ý thức có thể biến đổi điều kiện sống, hồn cảnh vật chất, thậm chí tạo ra một
“thiên nhiên thứ hai”. Chẳng hạn như việc toàn thế giới đang khơng ngừng bảo vệ
các lồi động vật q hiếm thơng qua việc nhân giống, đưa chúng tới một
môi trường an tồn, v.v
- Chính vì thế mà điều quan trọng trong việc phát huy được vai trị tích cực của ý
thức, con người cần phán ánh đúng và khách quan về thực tại, phải vận dụng và
sáng tạo những tri thức tích lũy đc vào thực tiễn. Hơn hết ý thức phải
được vật chất hóa trong thực tiễn bằng các đường lối chủ trương đúng đắn, phù
hợp.
+ Vai trò của ý thức:
- Ý thức chính là lăng kính phản ánh hiện thực, vật chất, nó chỉ đạo hoạt động,
hành động của con người, quyết định tính đúng sai của hành động đó.
- Tính năng động đó của ý thức đem lại cho giới vật chất 2 chiều tác động:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, nó có để dự báo thậm chí là tiên đốn chính
xác, đưa ra những lý luận
định hướng đúng đắn => Từ đó thúc đyy thế giới vật chất phát triển và chỉ đạo hoạt
động thực tiễn hành động
+ Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lạc, xun tạc hiện thực thì nó sẽ biến những
hành động của con người
trở nên vô nghĩa, xấu xa và thậm chí dẫn tới kìm hãm sự phát triển của cả xã hội
- Chúng ta đều biết rằng, dịch bệnh COVID 19 đang ngày càng diễn biến phức tạp
với những chủng loại mới mà đến cả vaxin cũng ko thể nào ngăn chặn đc triệt để.
Hãy thw hình dung, nếu như các địa phương không trung thực trong việc thống kê
số liệu kiểm sốt tình hình dịch bệnh thì liệu rằng chính phủ, TW có thể đưa ra.
8


+ Ý thức tác động vật chất:

- Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Tuy nhiên, tính
năng động sáng tạo của ý
thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá những quy định của những tiền
đề vật chất đã xác định. Ý
thức phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể
hành động.
- Cơ thể người, những gì có thể cầm nắm và di chuyển cũng chỉ có hai chân và hai
tay. Dù sáng tạo hay năng
động đến đâu ta cũng ko thể ép con người bay bằng tứ chi đó cả. muốn bay thì ta
buộc phải sáng tạo ra
phương tiện, cơng cụ hỗ trợ. Tất cả phải dựa vào điều kiện khách quan từ mơi
trường Trái đất và năng lực của lồi người.
1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, ta rút ra
Nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính
năng động chủ quan.
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi kế hoạch, chính sách, mục
tiêu cần:

Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khác quan

Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức
+Cần chống quan điểm chủ quan duy ý chí, lấy ý muốn chủ quan lầm điểm xuất
phát
Ví dụ: vì 1 người tốt với chúng ta mang lại lợi ích cho chúng ta thì khi đánh giá về
người đó, dù năng lực chỉ có 1
nhưng lại nâng lên thành 2,3 hoặc có khi năng lực của 1 người rất tuyệt vời nhưng
cản đường bước đi của chúng ta, ở
phe đối trọng với chúng ta thì lại bơi đen thậm chí vu khống,
Ngồi ra, ta cũng cần

+ Nhận rõ vai trị tích cực của nhân tố ý thức, tinh thần trong việc sw dụng 1 cách
hiệu quả nhất những điều kiện
phương tiện vật chất hiện có.
9


+Đồng thời, khái quát tổng kết thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực chỉ
đạo thực tiễn, chống tư tưởng thụ
động ngồi chờ ỷ lại vào hoàn cảnh và điều kiện vật chất.
Chương 2: VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM
2.1. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống chủ nghĩa phát xít, quân đội và nhân
dân Liên Xô đã chịu nhiều tổn thất cả về người và của. Theo số liệu công bố tại
Liên Xô, chiến tranh đã cướp đi sinh mạng gần 27 triệu người Nga (hơn 9 triệu
chiến sĩ hy sinh, hơn 17 triệu dân thường thiệt mạng). Nhưng vượt lên tất cả, Hồng
quân Liên Xô đã đảm trách được sứ mệnh lịch sw mang tính thời đại: Chiến đấu vì
sự nghiệp giải phóng ách nơ dịch của chủ nghĩa phát xít, đấu tranh bảo vệ hịa
bình, dân chủ, bảo vệ nhân phym con người trước nạn diệt chủng và truy bức của
các thế lực phản động. Chiến thắng chủ nghĩa phát xít đã trực tiếp và gián tiếp tạo
điều kiện cho một loạt các quốc gia ở nhiều châu lục vùng lên giành độc lập thắng
lợi. Chính điều đó góp phần giúp Đảng Cộng sản các nước được giải phóng hồn
thành cách mạng dân chủ nhân dân và chuyển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa,
trong đó có Việt Nam. Một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hình thành để đối
trọng với chủ nghĩa tư bản, giữ thế cân bằng lực lượng, bảo vệ hịa bình thế giới.
Đứng đầu hệ thống XHCN là Liên Xô, một cường quốc đủ sức mạnh đối trọng với
các cường quốc tư bản, và là chỗ dựa vững chắc của các phong trào cách mạng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm
các nước Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hunggari, Rumani,
Tiệp Khắc, Anbani, Mông cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cuba. Năm

1960, tại Mátxcơva, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước trên
thế giới đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội loài người".
+ Thành tựu:
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Đức Quốc xã đã tàn phá nặng nề hệ thống giáo
dục quốc dân của Liên Xô. Vì vậy, sau chiến tranh Liên Xơ chú trọng đặc biệt đến
phát triển khoa học và giáo dục quốc dân qua các kế hoạch 5 năm. Năm 1958 Liên
Xơ có 2,2 triệu sinh viên, trong đó 45% là tại chức. Năm 1981, Liên Xơ đạt
787/1.000 người dân có trình độ đại học và trung học (trên ¾ dân số), tăng gần 9
lần so với năm 1939. Năm 1980, Liên Xô có 1.373,3 nghìn tiến sĩ, phó tiến sĩ và
10


nghiên cứu sinh, tăng gần 8,5 lần so với năm 1950. Nhờ đó mà khoa học, kỹ thuật
của Liên Xơ đạt nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là chế tạo vũ khí ngun tw
để phịng thủ quốc phịng. Tiếp theo là xây dựng nhà máy điện nguyên tw đầu tiên
trên thế giới vào năm 1954 công suất 5.000 kW, năm 1958 xây dựng nhà máy thứ
hai công suất 100.000 kW. Thành tựu này của Liên Xô vượt qua Mỹ.

Ngày 23-7-1980, tàu Liên hợp 37 của Liên Xô chở nhà du hành vũ trụ
đầu tiên của Việt Nam Phạm Tuân và nhà du hành vũ trụ Liên Xô Gorơ-bát-cô đã bay vào vũ trụ, đánh dấu mốc trong quan hệ hợp tác giữa
hai nước trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học vũ trụ. Ảnh tư liệu
Những thành tựu quan trọng về khoa học của Liên Xô cũng được ứng dụng vào
công cuộc chinh phục vũ trụ bao la. Từ năm 1957 đã phóng thành cơng nhiều vệ
tinh nhân tạo vào vũ trụ; năm 1961 phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành đầu tiên trên
thế giới là Gagarin bay vòng quanh Trái đất. Cùng với đó là chế tạo và phóng các
tên lwa vũ trụ thám hiểm Mặt trăng, sao Kim; phóng tàu vũ trụ đưa các nhà khoa
học nghiên cứu tìm kiếm sự sống ngồi Trái đất… Tính đến 31-3-1978, Liên Xơ đã
phóng thành cơng lên quỹ đạo Trái đất 1.000 vệ tinh nhân tạo để nghiên cứu khoa

học phục vụ các lĩnh vực đời sống của con người.

11


- Trong hơn bảy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa khác đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên quy mơ lớn với trình độ hiện đại, bảo
đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nước Nga
trước Cách mạng Tháng Mười so với nước phát triển khác bị lạc hậu từ 50 đến 100
năm. Khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thu nhập quốc dân tính theo đầu
người chỉ bằng 1/22 của Mỹ cùng thời. Nhưng, chỉ sau một thời gian ngắn, Liên
Xô đã trở thành một trong hai siêu cường của thế giới. Năm 1985, thu nhập quốc
dân của Liên Xô bằng 66% của Mỹ, sản lượng công nghiệp bằng 85% của Mỹ. Với
cơng cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, Liên Xơ đã trở thành một nước có trình độ
học vấn cao, thu được những thành tựu đáng kể trong việc chăm sóc sức khỏe, phát
triển y tế và bảo đảm phúc lợi xã hội cho nhân dân lao động. Trước Cách mạng
Tháng Mười, 3/4 nhân dân Nga mù chữ, chỉ sau 20 năm, nạn mù chữ đã bị xóa bỏ.
Vào cuối năm 1980, Liên Xơ là một trong những nước có trình độ học vấn cao
nhất thế giới (164 triệu nguời có trình độ trung học và đại học, số lượng các nhà
khoa học trên nhiều lĩnh vực cũng đứng vào hàng đầu thế giới). Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây đã đạt được những bước tiến lớn trong lĩnh
vực nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực qn sự và cơng nghiệp
quốc phịng hùng mạnh. Trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học và cơng
nghệ cũng có những thành tựu rất to lớn.

Cho đến nay, những thành tựu của Liên Xô về chinh phục vũ trụ mãi mãi là niềm
tự hào của nhân dân Liên Xơ nói riêng và nhân loại nói chung.
Tóm lại, từ tháng 11-1917 cho đến sự kiện tháng 8-1991, chủ nghĩa xã hội đã tồn
tại hơn 70 năm ở Liên Xô, hơn 40 năm ở các nước Đông Âu (kể từ năm 1945).

Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trải qua một thời kỳ phát triển rực rỡ, có những
thành tựu to lớn và đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong tiến trình phát triển lịch sw
của loài người.
Sự phát triển như vũ bão của ba dòng thác cách mạng trong suốt mấy thập kỷ đã
gắn liền với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực, với hệ thống xã
hội chủ nghĩa.

+ Sự sụp đổ:
- Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu dẫn đến hậu quả :
- Kết thúc sự tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
12


- Hội đồng tương trợ kinh tế chấm dứt hoạt động (6-1991)
- Tổ chức Hiệp ước Vac-sa-va tuyên bố giải thế (1-7-1991)
- Tổn thất nặng nề đối với phong trào cách mạng thế giới, các lực lượng tiến bộ và
các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập chủ quyền dân tộc, hịa bình, ổn định
và tiến bộ xã hội.
- Sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu tác động
đến quan hệ quốc tế là : Trật tự hai cực Ianta sụp đổ.Vì khi trật tự hai cực Ianta là
trật tự thế giới có sự đối lập giữa hai khối XHCN và TBCN đứng đầu là Liên Xô
và Mĩ. Với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước CNXH ở Đông Âu đồng nghĩa với
một trong hai cực Ianta sụp đổ.
Trong thời gian dài, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tuy đạt được những
thành tựu to lớn nhưng ngày càng bộc lộ nhiều sai lầm thiếu sót dẫn đến sự sụp đổ
hồn tồn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Có nhiều lý do dẫn
đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu:
 Thiếu tôn trọng đầy đủ các quy luật phát triển kinh tế – xã hội, duy ý chí chủ
quan, thực hiện cơ chế quan liêu, bao cấp thay cho cơ chế thị trường.
 Điều đó làm cho nền kinh tế đất nước thiếu năng động, sản xuất đình trệ, đời

sống nhân dân không được nâng cao. Về mặt xã hội thiếu dân chủ, công
bằng, vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tình trạng đó kéo dài đã dấy lên
sự bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân.
 Khơng bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện
đại, dẫn đến khủng hoảng về kinh tế, chính trị. Chậm swa chữa, thay đổi
trước những biến động to lớn của tình hình thế giới và khi swa chữa. Thay
đổi thì làm trái những nguyên lý đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin.
 Khi tiến hành cải cách đã phạm sai lầm về nhiều mặt làm cho cuộc khủng
hoảng càng thêm trầm trọng. Sai lầm và sự tha hóa về phym chất chính trị,
đạo đức cách mạng của một số cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở một số
nước xã hội chủ nghĩa.
 Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngồi nước tác động
rất lớn làm cho tình hình càng thêm hỗn loạn.
Chính sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước khu vực Đông
Âu trong từ năm 1989 – 1991 đã gây ra những hậu quả nhất định. Đó là một tổn
thất lớn trong phong trào công nhân – cộng sản quốc tế. Làm cho hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới khơng cịn tồn tại. Trật tự thế giới lưỡng cực đã kết thúc.
13


Nhưng đây cũng chỉ là sự sụp đổ tạm thời của một mơ hình chủ nghĩa xã hội phi
khoa học, nhân văn và là bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội.
2.2. Vận dụng vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa ở Việt Nam

Trước đây, khi cịn Liên Xơ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn
đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng có gì phải bàn, nó mặc
nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mơ hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xơ và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thối trào thì
vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự
bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi

quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết
nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do
sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Có người cịn phụ họa với các luận điệu thù địch, cơng kích, bài bác chủ
nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản.
Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính tồn cầu như
ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải
phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư
bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành
được khơng ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, chủ
nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của
nó. Đặc biệt là, năm 2008-2009, chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài
chính, suy thối kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm
tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới.
Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương
thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường
sinh thái... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển
của nhân loại. Đó là hậu quả của một q trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi
nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày
càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó
14


cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư
bản chủ nghĩa. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay
không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát
triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế

chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo cơng thức «dân
chủ tự do» mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên tồn thế giới khơng hề bảo
đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố
bản chất nhất của dân chủ. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào
«99 chống lại 1» diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều
nước tư bản. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì
quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át.
Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị
tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất cơng, «cá lớn nuốt cá bé» vì lợi
ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Và chúng ta cần một hệ thống
chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích
của nhân dân, chứ khơng phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những
mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng
chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta
đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.

Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một q trình đấu tranh cách
mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm
lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng
liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần «Khơng có gì
q hơn độc lập, tự do». Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối
cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của
mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
15


Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại
cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân

tộc. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó
là điều mà chúng ta ln ln trăn trở, suy nghĩ, tìm tịi, lựa chọn để từng bước
hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng
quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vơ cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo
sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đương
nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa
học, phát triển. Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý
luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Đây không phải là nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa đầy đủ.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng
vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đyy phát triển kinh tế - xã hội. Một đặc trưng
cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế
thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế
với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt q trình phát triển.
Đây là một u cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền
vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng
tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của tồn xã hội hài
hịa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh
16



tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó, cần và có
điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Mơ
hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
nhân dân làm chủ. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ
thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân. Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát
triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống cịn đối
với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân
tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó, Đảng
là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy khơng có nghĩa là hạ thấp bản
chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng
một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp cơng nhân là giai cấp có lợi ích
thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và tồn dân tộc.
Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham
nhũng, quan liêu, thối hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng
Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan
liêu, lãng phí, thối hóa... trong nội bộ Đảng và trong tồn bộ hệ thống chính
trị. Cơng cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho

đất nước trong 35 năm qua. Trước Đổi mới, Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị
chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về
của và môi trường sinh thái.
17


Tơi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo
và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật bym sinh bởi tác động của chất độc da
cam/dioxin do quân đội Mỹ sw dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo
các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết
bom mìn cịn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt
cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Lương thực, hàng hóa nhu
yếu phym hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân
số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên
tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình
khoảng 7% mỗi năm. Quy mơ GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020, đạt
342,7 tỷ đô la Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Từ một nước bị
thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an
ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khyu gạo và nhiều nông sản khác
đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP.
Tổng kim ngạch xuất nhập khyu tăng mạnh, năm 2020, đạt trên 540 tỷ USD, trong
đó kim ngạch xuất khyu đạt trên 280 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng
ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương
diện quan hệ sở hữu, tổng sản phym quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng
27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế
tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện dân số của
Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân
sống ở nơng thơn.

Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Hiện nay, Việt Nam
có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm
cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho tồn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng
cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hồn
cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành
18


cơng.
Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt
hơn những người có cơng, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo
cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Hiện, Việt Nam có khoảng
70% dân số sw dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển cơng
nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong
những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm
2019, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước
có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X đã nhận định, sự nghiệp đổi mới
đã giành được «những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sw». Trên thực tế, xét trên
nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt
hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì
sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được
toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những
thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được
các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát
triển kinh tế.
Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 và suy thối kinh tế tồn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và

bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. « Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sw, phát triển mạnh mẽ, tồn diện hơn so với những năm trước đổi mới. » Bên cạnh
những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng cịn khơng ít khuyết
điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong q trình phát
triển đất nước. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong
quá trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thối về tư tưởng chính trị và đạo
đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các
19


thế lực xấu, thù địch lại ln tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn
định, thực hiện âm mưu «diễn biến hịa bình» nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ
nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố
phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực.
Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị
trường và mở cwa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ ln
có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xw lý
một cách kịp thời, hiệu quả. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá
trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để
các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại
là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Về xã hội, chúng ta tiếp tục đyy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao
chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ cơng ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống
văn hóa cho nhân dân. Tồn Đảng, tồn dân và toàn quân đang ra sức học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và

đyy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt
hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức Đảng và bộ
máy Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách
mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Cả lý luận và thực
tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về
chất, hồn tồn khơng hề đơn giản, dễ dàng. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ
trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh
mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân.
Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì
thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân
dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển. Mặt khác, Đảng lãnh đạo và
cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không
20


thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà cịn phải nghiên
cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới
tồn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt
lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục
diện của nó.
Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, tồn
vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi. Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền
tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách
mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị
bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ

cịn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong
thực tiễn phát triển của khoa học.
Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và
sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học
thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực
mới, mang hơi thở của thời đại, khơng rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc
sống.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
/> /> />“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam - Dư luận quốc tế và trong nước về bài viết của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng” - Cuốn tài liệu quý có giá trị tham khảo đặc biệt | Nghiên
cứu | Tạp chí mặt trận Online (tapchimattran.vn)
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam - VietNamNet
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (khanhhoa.gov.vn)
Những giá trị khoa học trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng (baothanhhoa.vn)
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (thinhvuongvietnam.com)
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (travinh.gov.vn)
/>“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam - Dư luận quốc tế và trong nước về bài viết của Tổng Bí
22



thư Nguyễn Phú Trọng" - Cuốn tài liệu quý có giá trị tham khảo đặc biệt
(tuyengiaokhanhhoa.vn)
LỜI CẢM ƠN
Em xin gwi lòng biết ơn sâu sắc đến những tâm huyết và tri thức mà thầy cô Khoa
CNTT đã chỉ bảo cho em. Đặc biệt em xin gwi lời cảm ơn tới cơ Trần Thùy Linh
người đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ về chuyên môn và theo dõi sát sao chúng em
trong quá trình học tập. Đồng thời, em xin gwi lời cảm ơn chân thành tới Ban lãnh
đạo trường đại học CNTT và TT cùng với các anh, chị nhân viên của trường đã tạo
điều kiện tốt nhất, nhiệt tình hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ và cung cấp đầy đủ
các thông tin để đợt học tập của chúng em diễn ra tốt đẹp.
Trong khoảng thời gian thực tập tại trường, em đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong
học tập nhưng vẫn khơng thể tránh khỏi các sai sót. Em rất mong sẽ tiếp tục nhận
được những ý kiến đóng góp q báu của cơ Trần Thùy Linh cũng như của ban
lãnh đạo khoa CNTT để em có thể hồn thiện mình hơn trong tương lai.
Sau cùng, em xin kính chúc quý thầy cô khoa CNTT ban lãnh đạo và tập thể nhân
viên của trường đại học CNTT và TT luôn dồi dào sức khỏe và công tác tốt!

23



×