Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

nợ công hy lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.79 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ

Tiểu luận
NỢ CÔNG HY LẠP
GVHD: Lê Văn Lạng
Kinh tế Quốc tế
Năm học 2013 - 2014
Bảng phân công nhiệm vụ thành viên
Họ và tên MSSV Công việc
1. Nguyễn Xuân Việt 11120077
Chương II, Chương III
Nguyên nhân khủng hoảng nợ công Hy
lạp và các giải pháp cứu trợ.
2. Bùi Văn Tài 11120012
Mở đầu đề tài
Chương II. Tình hình nợ công thế giới
và Hy lạp
3. Trần Duy 11120127
Cơ sở lý thuyết và thực tiễn Việt Nam
(Chương I và Chương V)
MỤC LỤC
Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu 1
3. Nguồn thông tin 2
Chương I: NỢ CÔNG
1.1. Tổng quan về nợ công
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. Cơ cấu nợ công: 3
1.1.3. Những biểu hiện của vấn đề nợ công 4


1.2. Nguyên nhân của nợ công
1.2.1. Bù đắp thâm hụt ngân sách 6
1.2.2. Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ kém 6
1.2.3. Khả năng tích lũy trong nước thấp dẫn đến phải vay nợ nước ngoài 7
1.2.4. Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng7
1.3. Các biện pháp kiểm soát nợ công
1.3.1. Xây dựng chiến lược quản lý nợ công 8
1.3.2. Xây dựng quỹ bình ổn tiền tệ 9
1.3.3. Giảm chi tiêu công đồng thởi tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước 9
1.3.4. Tái cấu trúc nền kinh tế sau khủng hoảng 13
1.3.5. Huy động tiết kiệm trong dân cư 13
1.3.6. Kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài 14
Chương II. TÌNH HÌNH NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Vương quốc Anh 16
2.2. Đức 16
2.3. Pháp 17
2.4. Mỹ 17
2.5. Bỉ 18
2.6. Bồ Đào Nha 18
2.7. Ireland 19
2.8. Italy 19
2.9. Hy Lạp 20
2.10.Nhật Bản 20
Chương III. CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HY LẠP
3.1. Thực trạng nợ công Hy Lạp
3.1.1. Quy mô nợ 23
3.1.2. Cơ cấu nợ 27
3.1.3. Hiệu quả sử dụng khoản vay 28
3.1.4. Khả năng trả nợ 29
3.2. Nguyên nhân nợ công Hy Lạp 30

3.3. Những hệ lụy có thể xảy ra nếu Hy Lạp vỡ nợ 37
CHƯƠNG IV: NHỮNG NỖ LỰC CỨU TRỢ GIÚP HY LẠP THOÁT KHỎI
NGUY CƠ VỠ NỢ VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
4.1. Các tổ chức tham gia cứu trợ Hy Lạp 40
4.2. Những gói cứu trợ cho Hy Lạp 42
4.3. Những “đơn thuốc khủng” hàng trăm tỷ Euro có giúp Hy Lạp “giảm đau”
hiệu quả? 46
4.4. Chính sách ‘thắt lưng buộc bụng’ của Hy Lạp và ảnh hưởng của nó tới tình
hình chính trị xã hội trong nước 48
4.5. Moody’s tuyên bố Hy Lạp vỡ nợ 55
Chương V. VẤN ĐỀ NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC RÚT RA TỪ NỢ
CÔNG HY LẠP
5.1. Tình hình nợ công ở Việt Nam
5.1.1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam 57
5.1.2. Nguyên nhân nợ công của Việt Nam 63
5.2. Bài học cho Việt Nam rút ra từ cuộc khủng hoảng ở Hy Lạp 65
KẾT LUẬN 70
Tài liệu tham khảo: 71
Phần I: Mở đầu
4. Lý do chọn đề tài:
Có thể nói hầu hết các quốc gia đều có nợ công, dù ít hay nhiều, tạm thời hay mãn
tính. Nợ công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nhưng sẽ trở thành quốc
nạn khi bắt đầu gây tổn hại đến nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến lạm phát, làm cho
quốc gia mất khả năng thanh toán và các nhà đầu tư mất niềm tin, đồng thời gây ra
hàng loạt hệ lụy khác có ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ cho bản thân chính quốc
gia đó mà còn cho các quốc gia khác có liên quan.
Như chúng ta đã biết cuối năm 2009 đầu năm 2010 “người khổng lồ” Hy Lạp đã
bị lung lay bởi cuộc khủng hoảng nợ công với mức thâm hụt ngân sách nặng nề. Hệ
quả của nó là chính phủ Hy Lạp không những phải chịu sức ép với nhà đầu tư nước
ngoài mà còn phải gánh chịu hậu quả mà nó gây ra đối với đời sống kinh tế, chính trị,

xã hội của đất nước này. Không những thế cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đã
làm rung chuyển thị trường tài chính Châu Âu và của toàn cầu. Việt Nam là một
nước có quy mô nền kinh tế nhỏ, đang phát triển vì thế việc chính phủ đi vay nợ để
đầu tư phát triển nền kinh tế và cho chi tiêu chính phủ là điều khó tránh khỏi. Mặc dù
nợ công của Việt Nam được công bố là vẫn đang ở giới hạn an toàn tuy nhiên đằng
sau những con số vẫn đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Vì vậy cần có sự tìm hiểu về cuộc
khủng hoảng nợ công của Hy Lạp để rút ra kinh nghiệm nhằm tránh những rủi ro mà
Hy Lạp đã gặp phải.
Nhận thức được đây là một đề tài lớn, rộng và mang tính kỹ thuật, từ những tư liệu
tham khảo và sưu tầm trên các tạp chí và mạng internet, chúng tôi chọn đề tài “NỢ
CÔNG HY LẠP”
5. Mục tiêu:
• Hiểu rõ bản chất của nợ công và các vấn đề liên quan đến nợ công.
• Tìm ra nguyên nhân khiến nợ công Hy Lạp tăng cao và sự ảnh hưởng của Hy Lạp
với khu vực Châu Âu.
• Phân tích các chính sách của Hy Lạp để đối phó với tình hình nợ công tăng cao.
• Tìm hiểu tác động các gói cứu trợ của các nước khác để cứu Hy Lạp khỏi khủng
hoảng, đề ra các giải pháp cứu trợ mới.
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 6
• Liên hệ tới vấn đề nợ công tại Việt Nam và biện pháp kiềm chế nợ công tăng cao.
6. Nguồn thông tin:
• Các thông tin, số liệu đều là thứ cấp.
• Nguồn: Các trang web chính phủ, báo điện tử của Việt Nam và Thế giới.
• Số liệu từ WorldBank.
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 7
Chương I: Các khái luận chung về nợ công.
1.4. Tổng quan về nợ công
1.4.1. Khái niệm
Nợ công là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương
đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách.

Thâm hụt ngân sách là sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi
tiêu quá nhiều (tăng chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động của bộ
máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình to, các chương trình kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng không
ngừng tăng…đặc biệt là các gói kích thích cầu của chính phủ đối với nền kinh tế sau
cuộc khủng hoảng tài chính đã buộc nhiều nước chi rất nhiều để khắc phục), trong khi
đó các nguồn thu mà chủ yếu là từ thuế không tăng kịp với nhu cầu chi, một số thuế còn
bị cắt giảm do yêu cầu của thị trường quốc tế. Không đáp ứng nổi chính phủ phải đi vay
tiền thông qua nhiều hình thức (như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín
dụng…) để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ.Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ
công gia tăng.Nợ không trả sớm để lâu “lãi mẹ đẻ lãi con” và ngày càng chồng chất
thêm.
1.4.2. Cơ cấu nợ công:
Nợ công bao gồm:
-Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước).
-Nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
-Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài
hạn (trên 10 năm).
Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu
chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ
được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ vì có thể tăng thuế thậm chí in thêm
tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng
nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu
lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán,
thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 8
Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có thể vay
tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế, chẳng hạn Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF)… Hình thức vay này thường được chính phủ của các nước có độ
tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái

phiếu chính phủ của họ không cao.
Khi nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế
làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Nợ nước ngoài lớn thì
chính phủ buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu
dùng giảm sút.
1.4.3. Những biểu hiện của vấn đề nợ công
Ở mọi quốc gia vay nợ là rất cần thiết tuy nhiên nếu vay nợ quá nhiều mà không
có kế hoạch trả nợ thì quốc gia đó sẽ lâm vào tình trạng vỡ nợ. Vậy thì, để biết được
mức độ an toàn của khoản nợ thì cần dựa vào những biểu hiện nào của nợ công?
Sau đây là bốn biểu hiện của vấn đề nợ công liên quan đến mức độ an toàn hay nguy
hiểm của khoản nợ:
* Quy mô nợ
Quy mô của khoản nợ được biểu hiện bằng tỷ lệ nợ công trên GDP.Hiện nay để
đánh giá mức độ nợ công của mỗi quốc gia WB sử dụng tiêu chí này để so sánh nợ
công giữa các quốc gia với nhau.Nước nào có tỷ lệ này lớn thì thường khoản nợ công
lớn và đang ở mức độ nguy hiểm và ngược lại nếu tỷ lệ này nhỏ thì mối đe dọa từ nợ
công sẽ ít hơn. Và để rút ra tình trạng nợ công của quốc gia nào đến mức độ nguy hiểm
các chuyên gia kinh tế của WB và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã đưa ra
một giới hạn nợ tham khảo, đó là tỷ lệ nợ công trên GDP không vượt quá 60% thì nợ
công được gọi là an toàn.
Tuy nhiên, về bản chất để đánh giá mức độ an toàn của nợ công thì không thể chỉ dựa
vào tỷ lệ nợ công trên GDP mà còn phải xem xét khoản nợ đó là khoản nợ nào, hiệu quả
sử dụng nguồn vay nợ đó ra sao?
* Cơ cấu vay nợ
Như trên đã phân tích theo đối tượng vay nợ, nợ công bao gồm nợ trong nước và nợ
nước ngoài. Tùy vào từng quốc gia mà tỷ trọng các khoản nợ chiếm ít hay nhiều, đồng
thời độ rủi ro của nợ công cao hay thấp.
- Đối với khoản nợ vay trong nước: Nhà nước huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong
nhân dân nhằm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khi nợ trong nước
lớn chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi cho khoản vay.

Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 9
- Đối với khoản nợ vay ngoài nước: Độ rủi ro cao hơn so với khoản vay trong
nước do phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài. Khi khoản vay nước ngoài
lớn thì chính phủ phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ.
* Hiệu quả sử dụng khoản vay
Một khoản nợ công được gọi là an toàn và hiệu quả nếu nó được sử dụng đúng
cách và đúng mục đích. Vì vậy việc cần thiết để hạn chế mức độ nghiêm trọng của
khoản nợ công thì quốc gia đi vay nợ cần phải có cơ chế quản lý sử dụng nguồn vốn đi
vay một cách có hiệu quả.Hiệu quả của nguồn vốn được đánh giá thông qua khả năng
sinh lời của đồng vốn đó. Thông thường người ta sử dụng hệ số ICOR để đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn, đó là nếu sử dụng thêm một đồng vốn đi vay thì sẽ tăng thêm được
mấy đồng thu nhập (
K
Y
k


=
). Nếu nguồn vốn đi vay được sử dụng có hiệu quả thì thu
nhập tạo ra sẽ tăng lên dẫn đến khả năng trả nợ dễ dàng hơn. Ngược lại, nếu khoản vay
sử dụng kém hiệu quả, không được đầu tư đúng mục đích không thúc đẩy được nền
kinh tế phát triển sẽ làm cho khoản nợ ngày càng trầm trọng hơn và có nguy cơ lâm vào
tình trạng không trả được nợ.
* Khả năng trả nợ
Tùy vào từng khoản nợ mà 1 quốc gia dựa vào từng tiêu chí khác nhau để xem
xét khả năng trả nợ.Tuy nhiên, bất kể là khoản nợ nào thì “sức khỏe” của nền kinh tế là
yếu tố quyết định đến khả năng trả nợ của quốc gia đó. Nếu nền kinh tế tăng trưởng tốt,
ổn định thì khả năng trả nợ cao.
Với khoản vay nợ nước ngoài khả năng trả nợ được đánh giá dựa vào khả năng xuất
khẩu của quốc gia. Nếu quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn, mặt hàng xuất khẩu có

giá trị cao thì khả năng trả nợ lớn hơn và ngược lại.
1.2. Nguyên nhân của nợ công
1.2.1. Bù đắp thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách trong kinh tế học vĩ mô và kinh tế học công cộng là tình
trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 10
thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các khoản
thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, trên thế giới ngân
sách của hầu hết các quốc gia là thâm hụt.Trong lịch sử, phát hành thêm tiền đã từng là
một cách tài trợ cho thâm hụt ngân sách, nhưng do hậu quả nghiêm trọng của nó là dẫn
đến lạm phát ở mức cao nên ngày nay cách này hầu như không được chính phủ của bất
cứ quốc gia nào sử dụng nữa. Do đó chính phủ bù đắp khoản thâm hụt ngân sách bằng
cách đi vay. Thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn đến các khoản vay nợ ngày càng chồng
chất thêm. Vay nợ từ năm này qua năm khác nếu không có kế hoạch trả nợ dẫn đến tình
trạng “lãi mẹ đẻ lãi con” làm cho quốc gia có nguy cơ vỡ nợ. Mặt khác, chi tiêu công
ngày càng tăng (đặc biệt là các nước đang phát triển) do việc phát triển cơ sở hạ tầng,
nâng cao chất lượng hệ thống an sinh xã hội…Trong khi đó, các khoản thu của chính
phủ (chủ yếu là thuế) thì ngày càng bị thu hẹp do thất thoát hay do các cam kết đối với
các tổ chức quốc tế…Vì vậy cán cân ngân sách ngày càng bị thâm hụt nặng nề.
1.2.2. Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ kém
Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm
chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu,
cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước cũng là một trong số những nguyên
nhân quan trọng làm cho khoản nợ công ngày càng tăng. Hậu quả của việc tăng chi liên
tục đã khiến các quốc gia phải vay nợ nhiều hơn để bù đắp vào khoản chi còn thiếu.
Trong khi đó, việc quả lý nợ còn gặp phải nhiều tồn tại. Quản lý nợ có thể là việc quản
lý phân bổ nguồn vốn vay, là việc quản lý hiệu quả sử dụng khoản vay, đó là việc dựa
vào các chỉ tiêu để kiểm soát khoản nợ nằm trong ngưỡng an toàn, hay đó là quản lý,
xem xét xem những đối tượng nào sẽ được Chính phủ đứng ra bảo lãnh để vay nơ. Khi
việc quản lý nợ kém sẽ dẫn đến phân bổ khoản tiền đi vay sai đối tượng; xuất hiện hiện

tượng đầu tư tràn lan làm cho hiệu quả của khoản vay giảm sút vì vậy khó thu hồi lãi để
hoàn trả khoản nợ. Ngoài ra, sự yếu kém trong quản lý nợ công còn thể hiện ở việc tính
thiếu các khoản được coi là nợ công, làm cho các nhà quản lý “lầm tưởng” về một tỷ lệ
nợ công an toàn do đó “mất cảnh giác” với nợ công. Cùng với đó việc thiếu minh bạch
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 11
trong công bố các con số về vấn đề nợ công gây khó khăn cho việc đưa ra những chính
sách, quy định nhằm quản lý nợ công tốt hơn.
1.2.3. Khả năng tích lũy trong nước thấp dẫn đến phải vay nợ nước ngoài
Có thể nói có ba biểu hiện cho vấn đề này, đó là:
- Khi nhu cầu chi tiêu công tăng cao, vượt quá so với khoản thu (mà chủ yếu là
thuế) thì cần phải có một khoản vay để đáp ứng cho khoản chi tiêu gia tăng đó. Khi đời
sống xã hội ngày càng nâng cao thì đòi hỏi của con người về cuộc sống hoàn thiện hơn
ngày càng lớn hơn. Vì thế với vai trò đảm bảo cuộc sống cho người dân, Chính phủ
phải có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công tốt hơn cho công dân của mình, khoản tiền
lấy từ ngân sách cũng nhiều lên. Từ đó làm cho gánh nặng chi tiêu công ngày càng
nhiều hơn.
- Do nguồn thu trong nước hạn chế, do tỷ lệ tiết kiệm, lợi tức trái phiếu giảm.
- Ngoài ra vay nợ nước ngoài là cần thiết là bởi vì nếu những khoản đi vay trong
nước không phảilà những khoản tiền nhàn rồi thì dễ dẫn đến hiện tượng thoái lưu đầu tư
trong nước.
1.2.4. Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng
Như chúng ta đã biết sau các cuộc khủng hoảng nền kinh tế bị tổn thất nặng nề,
nếu không có những biện pháp hỗ trợ của Chính phủ thì nền kinh tế ko thể tự nó vực
dậy được. Những biện pháp hỗ trợ của chính phủ có thể là hỗ trợ về tài chính, pháp lý,
lao động hay công nghệ. Nhưng nhìn chung chủ yếu nhất vẫn là hỗ trợ về mặt tài chính.
Việc hỗ trợ của Chính phủ có thể bằng cách tăng chi tiêu chính phủ (G) từ đó dẫn đến
việc tăng thu nhập (Y), kéo theo sự phát triển của nền kinh tế. Hoặc chính phủ có thể
giảm lãi suất để kích thích đầu tư. Thế thì, khoản tiền đó sẽ lấy từ đâu?Đó chính là từ
ngân sách nhà nước.Khi ngân sách nhà nước không đủ thì chính phủ bắt buộc phải sử
dụng đến khoản tiền vay được.

1.3. Các biện pháp kiểm soát nợ công
1.3.1. Xây dựng chiến lược quản lý nợ công
Để việc quản lý nợ công có hiệu quả thì mỗi quốc gia cần phải xây dựng một
chiến lược quản lý nợ công hợp lý cho từng quốc gia đó. Trước hết, Chính phủ phải có
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 12
kế hoạch vay nợ và trả nợ rõ ràng. Đối với vấn đề vay nợ thì phải xác định công cụ vay
cần thiết và giới hạn vay nợ cho phép. Còn vấn đề trả nợ thì phải xem xét khoản nợ nào
đến hạn phải trả và lãi của các khoản nợ khác. Theo luật quản lý nợ trên thế giới thì nên
giao trách nhiệm cho một cá nhân thường là Bộ trưởng Tài chính trong việc: lựa chọn
các công cụ cần thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác định giới
hạn nợ (nếu luật không quy định rõ) - thường là dựa vào chiến lược nợ bền vững; thiết
lập và kiểm soát cơ quan/tổ chức có trách nhiệm quản lý nợ (thuộc quyền hoặc nằm
ngoài) và thiết lập quy chế quản lý nợ. Đồng thời phải có sự công khai, minh bạch về
các khoản nợ, các đối tượng vay nợ…Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải
xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả
số liệu về bảo lãnh nợ của chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công
chúng, mặc dầu vẫn mong muốn báo cáo thường xuyên hơn. Nên tiến hành kiểm toán
độc lập các hoạt động quản lý nợ hàng năm. Pháp luật về quản lý nợ công phải đặt ra
yêu cầu bao quát hết tất cả các giao dịch và bảo lãnh nợ, kể của chính quyền địa
phương, các quỹ ngoài ngân sách và các thiết chế công (public corporations). Minh
bạch tài khóa đòi hỏi quản lý nợ công phải được điều chỉnh bởi pháp luật và văn bản
dưới luật dưới dạng hướng dẫn thủ tục chính thức và quy định chi tiết về quy trình quản
lý nợ, các thủ tục kiểm tra và báo cáo. Nó có thể bao gồm các hạn chế về những vấn đề
như các loại công cụ để quản lý nợ, các thông số rủi ro, nội dung của chiến lược nợ
trung hạn, phương pháp phân tích nghĩa vụ nơ dự phòng và rủi ro bảo lãnh chính phủ
cũng như các chuẩn mực kế toán và yêu cầu báo cáo và kiểm toán. Nếu luật quy định
giới hạn nợ bảo lãnh thì các văn bản dưới luật phải quy định tiêu chí cụ thể để xác định
và phê chuẩn bảo lãnh. Văn bản pháp luật cũng phải xác định trách nhiệm của đơn vị
quản lý nợ dù nó đặt ở đâu, cũng như xác định rõ mục tiêu của đơn vị đó, kể cả giảm
thiểu chi phí trả nợ và quản lý các rủi ro liên quan. Người đứng đầu đơn vị này có thể

được bộ trưởng tài chính giao nhiệm vụ quản lý nợ trong và ngoài nước. Ở một số nước
như Anh hoặc Ireland cơ quan quản lý nợ có quyền hạn và tính độc lập khá rộng do cơ
quan lập pháp ấn định thông qua hậu kiểm.
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 13
Nói tóm lại, trong chiến lược quản lý nợ công cần phải xác định rõ những vấn đề
sau: Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nợ công; sau đó là xác định các hình thức vay
nợ; xác định kế hoạch vay và trả nợ; đưa ra những văn bản pháp luật có liên quan và
cuối cùng là thống kê và công khai các con số liên quan đến nợ công.
1.3.2. Xây dựng quỹ bình ổn tiền tệ
Nhằm kiểm soát nợ công của các quốc gia trong khu vực thì việc hình thành quỹ
bình ổn tiền tệ là điều cần thiết.Bởi vì, khi quốc gia nào đó đang trong tình trạng nợ
chồng chất thì quỹ này sẽ thực hiện vai trò là người cho vay đối với quốc gia đó.Quỹ
bình ổn sẽ giống như một hợp đồng bảo hiểm đối với các quốc gia trước cuộc khủng
hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Không những là người cho vay mà các quỹ này còn
hoạt động giống như một người giám sát tình hình vay nợ của các quốc gia thành viên.
Với việc hình thành Quỹ bình ổn tiền tệ này thì Chính phủ của những nước đang gặp
khó khăn trong vấn đề nợ công sẽ có thêm một giải pháp nữa cho đất nước đó.Tuy
nhiên để các quốc gia không sử dụng đây như một cơ chế vay dễ dàng thì cần đặt ra
những điều kiện vay chặt chẽ cho quốc gia đi vay. Đặc biệt cần phải sử dụng Quỹ này
một cách có trách nhiệm, đảm bảo tính giám sát cao.
1.3.3. Giảm chi tiêu công đồng thởi tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Để giảm thiểu khoản nợ công thì bản chất của nó là phải giảm thâm hụt ngân
sách nhà nước, muốn như vậy cần phải tăng nguồn thu và giảm chi cho ngân sách nhà
nước.
Đối với khoản chi, theo phương thức quản lý chi ngân sách bao gồm:
* Chi đầu tư phát triển kinh tế: Một trong các chức năng quan trọng của nhà nước là
chức năng tổ chức kinh tế. Chức năng này trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay
được thể hiện bằng vai trò của nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Ngân sách nhà nước với các vai trò của nó được coi là một công cụ quan trọng trong
việc thực hiện chức năng nói trên của nhà nước.

Chi đầu tư phát triển là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá
trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 14
và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực
cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. Nói khác đi, việc chi cho đầu tư phát
triển của ngân sách nhà nước nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động ban đầu, kích
thích qúa trình vận đông các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự tăng trưởng
Chi đầu tư phát triển được cấp phát chủ yếu từ ngân sách trung ương và một bộ
phận đáng kể của ngân sách địa phương và bao gồm các khoản chi cơ bản sau đây:
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản
- Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước
- Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần
thiết có sự tham gia của nhà nước
- Chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển
- Chi dự trữ nhà nước
* Chi thường xuyên: Bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức
năng quản lý xã hội của nhà nước, khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ
phận vốn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của dân cư về phát triển văn hóa xã hội, nó
có mối quan hệ trực tiếp đến thu nhập và nâng cao mức sống của dân cư và một bộ
phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước. Bằng vào các
khoản chi tiêu dùng thường xuyên nhà nước thể hiện sự quan tâm của mình đến nhân tố
con người trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời với các khoản chi này nhà nước
thực hiện chức năng văn hóa, giáo dục, quản lý, an ninh quốc phòng.
Chi tiêu dùng thường xuyên bao gồm các khoản chi sau đây:
- Chi quản lý nhà nước (quản lý hành chính)
- Chi An ninh quốc phòng
- Chi sự nghiệp
* Chi trả nợ các khoản vay
Để thực hiện chi có hiệu quả cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Gắn chặt các khoản thu để bố trí các khoản chi

- Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm hiệu quả
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 15
- Theo nguyên tác nhà nước và nhân dân cùng làm, nhất là các khoản chi mang tính phúc
lợi xã hội
- Tập trung có trọng điểm
- Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp theo quy định của luật
- Phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái
Nhằm giảm chi ngân sách nhà nước cần sử dụng các biện pháp như: khuyến
khích tiết kiệm trong nền kinh tế, sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước, khuyến
khích khu vực tư nhân tham gia vào các lĩnh vực đầu tư phát triển để giảm gánh nặng
cho NSNN, thực hiện cắt giảm các khoản chi không cần thiết và kém hiệu quả và tăng
cường công tác kiểm soát, thực hiện đánh giá chi tiêu công theo kết quả đầu ra đối với
khu vực công.
Còn đối với các khoản thu bao gồm:
* Thuế: là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thuế là một khoản đóng góp bắt
buộc cho nhà nước do luật pháp qui định đối với các pháp nhân và thể nhân thuộc đối
tượng chịu thuế nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế là hình thức phân
phối lại bộ phận nguồn tài chính của xã hội, không mang tính hoàn trả trực tiếp cho
người nộp. Do đó, tại thời điểm nộp thuế, người nộp thuế không được hưởng bất kỳ
một lợi ích nào mà xem như đó là trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước . Như vậy ,
thuế mang tính cưỡng chế và được thiết lập theo nguyên tắc luật định. Bằng quyền lực
chính trị của mình, nhà nước đã ban hành các loại thuế để tạo lập nguồn thu cho Ngân
sách nhà nước, các khoản thu này được bố trí sử dụng theo dự toán ngân sách nhà nước
đã được phê duyệt cho tiêu dùng công cộng và đầu tư phát triển nhằm thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy, thuế phản ảnh các quá trình phân phối lại thu
nhập trong xã hội, thể hiện các mối quan hệ tài chính giữa nhà nước và các chủ thể khác
trong xã hội.
* Phí và lệ phí: Lệ phí và phí là các khoản thu tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng
nguồn thu của ngân sách nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng vì nó liên quan đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.

Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 16
* Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tham
gia các hoạt động kinh tế bằng việc đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức
góp vốn vào các doanh nghiệp, công ty liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ
phần. Số vốn đầu tư của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nói trên sẽ
sinh lời và lợi tức thu được sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà nước, hiệu quả sản
xuất kinh doanh và cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.
Các giải pháp nhằm tăng thu ngân sách nhà nước bao gồm:
Một là, trong khi khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc gia
tăng thu cho ngân sách, nhà nước cần phải dành kinh phí thỏa đáng cho để nuôi dưỡng,
tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá hủy tài sản, tài
nguyên vì mục đích trước mắt.
Hai là, chính sách thuế phải vừa huy động được nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, vừa khuyến khích tích tụ vốn cho doanh nghiệp và dân cư.
Ba là, chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước phải được đặt
trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân.
Bốn là, dùng ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan
trọng trong những lĩnh vực then chốt, nhằm tạo ra nguồn tài chính mới.
Năm là, nhà nước cần có chính sách tiết kiệm, khuyến khích mọi người tiết kiệm
tiêu dùng, tinh giản bộ máy, cải cách hành chính để tích lũy vốn chi cho đầu tư.
Tuy nhiên, các biện pháp tăng thu và giảm chi khi sử dụng cần linh hoạt vì nếu
tăng thuế và bắt người dân thắt chặt chi tiêu sẽ gặp phải sự phản đối của nhiều tầng lớp
nhân dân.
1.3.4. Tái cấu trúc nền kinh tế sau khủng hoảng
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể hoạt động hiệu quả hơn sau khi vừa
trải qua một cuộc khủng hoảng mà cơ cấu của nền kinh tế của nó vẫn giữ nguyên như
cũ.Cần phải có một sự đổi mới trong cấu trúc nền kinh tế đó, vì vậy sau khủng hoảng
việc tái cấu trúc nền kinh tế là hết sức cần thiết.Tái cấu trúc nền kinh tế nghĩa là tổ chức
lại nền kinh tế, thanh đổi thành phần hay cấu tạo nền kinh tế.Việc này đòi hỏi các cơ
quan quản lý nhà nước phải xem xét tình hình nền kinh tế trước đó để tìm ra những yếu

Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 17
tố tạo động lực phát triển để tiếp tục phát triển chúng, còn những yếu tố kìm hãm sự
phát triển thì cần phải từ từ loại bỏ. Ngoài ra, phải có sự sáng tạo về một hướng đi mới,
mang tính đột phá cho đất nước. Hiện nay hầu hết nền kinh tế của các quốc gia trên thế
giới sau khủng hoảng không thể để thị trường tự điều tiết được mà cần phải có bàn tàn
hữu hình của nhà nước can thiệp. Việc tái cấu trúc nền kinh tế cần có Nhà nước hướng
dẫn, tổ chức cách thực hiện và ngoài ra Nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế của
mình để hướng nền kinh tế theo mục tiêu đã định.
Kinh nghiệm của các quốc gia đã cho thấy được sự thành công trong việc tái cấu
trúc nền kinh tế sau khủng hoảng, đó là: Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Nga…
1.3.5. Huy động tiết kiệm trong dân cư
Do khả năng tích lũy trong nước kém nên Chính phủ mới cần phải đi vay nợ
nước ngoài để phục vụ chi mà ngân sách không có khả năng chi trả. Tuy nhiên, khoản
tiền vay nước ngoài có rất nhiều rủi ro nên không an toàn cho người đi vay. Trong khi
đó, các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư vẫn chưa được huy động một cách tối đa. Có
thể do các lý do sau: Thứ nhất, người dân thích cho các doanh nghiệp vay hơn là cho
nhà nước cao vì họ sẽ được một khoản lãi suất cao hơn; thứ hai, họ tìm đến các công cụ
khác an toàn hơn là các công cụ nợ của Chính phủ như vàng, ngoại tệ…; thứ ba, các
khoản tiền tiết kiệm bị đẩy vào thị trường bất động sản… Vì vậy, nhà nước cần có
chính sách hợp lý để huy động khoản tiền nhàn rỗi này từ dân cư, có như vậy mới giảm
thiểu được rủi ro từ khoản tiền vay nợ. Mặt khác, khi tăng thêm nguồn vốn đầu tư từ
dân cư vào các hoạt động phát triển kinh tế sẽ làm giảm gánh nặng lên NSNN. Để tăng
khoản tiền huy động được từ dân cư, các biện pháp mà Chính phủ nên thực hiện như:
Sử dụng linh hoạt nhiều loại công cụ vay nợ để có thể vay được tối đa nguồn vốn từ
nhân dân; Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn để tăng thêm niềm tin của nhân dân
vào Chính phủ; Hoàn thiện hệ thống pháp lý về các hoạt động đầu tư, góp vốn, cho
vay…
1.3.6. Kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài
Khi mọi biện pháp trong nước đã được sử dụng mà tình trạng nợ công của quốc
gia vẫn trong tình trạng “nguy kịch” thì việc kêu gọi sự giúp đỡ của nước ngoài là cần

Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 18
thiết và cấp bách. Tuy nhiên, đối với một quốc gia mà nguy cơ vỡ nợ đang rình rập thì
khả năng vay được từ các quốc gia, các tổ chức tài chính quốc tế là rất khó. Bởi vì:
- Không phải quốc gia nào cũng có sẵn tiền để cho vay.
- Nếu có tiền thì người cho vay cũng phải tính toán xem liệu người đi vay có đáng
tin cậy không, khả năng trả nợ của họ như thế nào và nếu cho vay thì lợi ích của quốc
gia cho vay là gì?
- Để vay được thì đương nhiên người đi vay phải chấp nhận những điều kiện nhất
định của người cho vay đặt ra mà trong số đó làm cho người đi vay phải trả giá.
- Xét cho cùng đây cũng là một khoản đi vay, những hậu quả của việc đi vay vẫn
đeo đẳng, bởi vì gánh nặng nợ nần sẽ tiếp tục chồng chất, nếu khoản đi vay này không
được sử dụng hiệu quả, quản lý kém thì nguy cơ vỡ nợ sẽ còn lớn hơn và nguy hiểm
hơn, các thế hệ sau sẽ chịu hậu quả nặng nề hơn.
Trước đây, trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 người dân Châu
Á rất hưởng ứng khi Chính phủ nhận gói cứu trợ từ các tổ chức quốc tế như IMF,
ADB… và các gói cứu trợ đó cũng phát huy tác dụng cứu nguy cho nền kinh tế của các
quốc gia thoát khỏi khủng hoảng. Trong khi đó, ở Hy Lạp người dân dường như phản
đối kịch liệt khi Chính phủ nhận sự giúp đỡ từ các tổ chức (IMF, EU). Vì sao chính phủ
Hy Lạp phải nhận các gói cứu trợ từ các tổ chức tài chính, tình hình nợ công của Hy
Lạp như thế nào; sau đây tôi xin trình bày cụ thể cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra ở
Hy Lạp.
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 19
Chương II. Tình hình nợ công các quốc gia trên thế giới
Khi xem xét bản chất của vấn đề nợ công, nếu chỉ xét tỷ lệ nợ công /GDP thì
chưa đủ bởi tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức độ an toàn hay
rủi ro của nợ công. Nếu xem xét tỷ lệ đó mà khẳng định nợ công an toàn thì chưa có cơ
sở. Ta sẽ xem xét ví dụ cụ thể từ dữ liệu của hãng định mức tín nhiệm Moody’s liệt kê
10 quốc gia có tỷ lệ nợ công/GDP cao nhất thế giới hiện nay. Các dữ liệu đều được tính
ở thời điểm cuối năm 2011, trong khi GDP/đầu người là số liệu tính đến năm
2010. Chiếm ưu thế áp đảo trong danh sách là các nền kinh tế của châu Âu.

2.11. Vương quốc Anh
Tỷ lệ nợ công/GDP: 80,9%
Tổng nợ chính phủ: 1,99 nghìn tỷ USD.
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 35.860 USD
GDP danh nghĩa: 2,46 nghìn tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 8,4%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Aaa
thứ 10 thế giới nhưng nước này vẫn nỗ lực duy trì được ổn định kinh tế. Anh
không sử dụng đồng tiền chung châu Âu Euro và có ngân hàng trung ương riêng.
Chính sự độc lập này đã giúp xứ sương mù ít chịu tác động hơn từ khủng hoảng
nợ châu Âu. Lợi suất trái phiếu chính phủ Anh cũng được duy trì ở mức thấp.
2.12. Đức
Tỷ lệ nợ công/GDP: 81,8%
Tổng nợ chính phủ: 2,79 nghìn tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 37.591 USD
GDP danh nghĩa: 3,56 nghìn tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 5,5%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Aaa
Đức là nền kinh tế lớn nhất trong Liên minh châu Âu (EU) và có sức mạnh lớn về
mặt tài chính trong khối này. Bởi vậy, Đức đặc biệt quan tâm tới việc duy trì sự ổn định
trên thị trường nợ của riêng mình cũng như của toàn khối Eurozone. Đó là lý do vì sao,
nước này đã đóng góp một phần không nhỏ vào gói giải cứu tài chính trị giá 45 tỷ Euro
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 20
mà IMF và EU dành cho Hy Lạp vào năm 2010. Tỷ lệ nợ công/GDP cao nhưng bù lại,
Đức là nền kinh tế mạnh và có tỷ lệ thất nghiệp gần như thấp nhất ở châu Âu.
2.13. Pháp
Tỷ lệ nợ công/GDP: 85,4%
Tổng nợ chính phủ: 2,26 nghìn tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 33.820 USD
GDP danh nghĩa: 2,76 nghìn tỷ USD

Tỷ lệ thất nghiệp: 9,9%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Aaa
Pháp là nền kinh tế lớn thứ nhì trong khối Eurozone, sau Đức. Tháng 1 vừa qua,
hãng định mức tín nhiệm Standard & Poor’s đã giáng cho nước Pháp một cú sốc khi
tước đi của nước này hạng mức tín nhiệm AAA. Chính phủ Pháp không đồng tình với
động thái này của Standard & Poor’s vì cho rằng nền kinh tế nước mình cũng ổn định
như kinh tế Anh. Cách đây ít hôm, hãng Moody’s cũng đã cảnh báo về khả năng hạ
điểm tín nhiệm của Pháp từ mức Aaa.
2.14. Mỹ
Tỷ lệ nợ công/GDP: 85,5%
Tổng nợ chính phủ: 12,8 nghìn tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 47.184 USD
GDP danh nghĩa: 15,13 nghìn tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 8,3%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Aaa
Tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, tăng lên từ 45,6% vào
năm 2001 lên mức 85,5% GDP vào năm 2011. Tỷ lệ chi tiêu công/GDP của nước
này tăng từ 33,1% vào năm 2001 lên 39,1% vào năm 2010. Năm 2005, Chính phủ
Mỹ nợ 6,4 nghìn tỷ USD. Đến năm 2011, mức nợ đã là 12,8 nghìn tỷ USD. Tình
trạng nợ nần gia tăng chóng mặt này là lý do khiến Standard & Poor’s hạ điểm tín
nhiệm của Mỹ từ AAA xuống AA+ vào tháng 8/2010.
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 21
2.15. Bỉ
Tỷ lệ nợ công/GDP: 97,2%
Tổng nợ chính phủ: 479 tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 37.448 USD
GDP danh nghĩa: 514 tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 7,2%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Aa1
Tỷ lệ nợ công/GDP của Bỉ đạt đỉnh 135% vào năm 1993, sau đó giảm liên tục

còn khoảng 84% vào năm 2007 rồi bật tăng lên 97% vào 4 năm 6 đó. Đầu năm nay,
Chính phủ Bỉ buộc phải cắt giảm 1,3 tỷ USD chi tiêu công để tránh nguy cơ bị rơi
vào vòng xoáy khủng hoảng nợ. Cuối năm ngoái, Moody’s hạ hai bậc tín nhiệm của
nước này.
2.16. Bồ Đào Nha
Tỷ lệ nợ công/GDP: 101,6%
Tổng nợ chính phủ: 257 tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 25.575 USD
GDP danh nghĩa: 239 tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 13,6%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Ba3
Một phần vì có GDP/đầu người thấp, Bồ Đào Nha chịu ảnh hưởng mạnh hơn từ
suy thoái toàn cầu so với nhiều nước khác. Năm 2011, Bồ Đào Nha phải nhận 104
tỷ USD tiền cứu trợ từ EU và IMF để tránh bị khủng hoảng nợ nhấn chìm. Chính
phủ Bồ Đào Nha hiện có kế hoạch hạ thâm hụt ngân sách từ 9,8% GDP vào năm
2010 xuống còn 4,5% vào năm 2012 và xuống còn 3% theo trần của Liên minh châu
Âu (EU) vào năm 2013. Theo xếp hạng tín nhiệm của Moody’s, trái phiếu của Bồ
Đào Nha hiện không còn nằm trong hạng được khuyến nghị đầu tư (junk bond).
2.17. Ireland
Tỷ lệ nợ công/GDP: 108,1%
Tổng nợ chính phủ: 225 tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 39.727 USD
GDP danh nghĩa: 217 tỷ USD
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 22
Tỷ lệ thất nghiệp: 14,5%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Ba1
Ireland từng có thời là một trong những nền kinh tế mạnh nhất của khối EU. Đầu
những năm 2000, nước này có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn bất kỳ một nước công
nghiệp phát triển nào, đồng thời GDP tăng trưởng hàng năm khoảng 10%. Khi suy
thoái toàn cầu diễn ra, kinh tế Ireland chuyển sang co cụm chóng mặt. Năm 2006,

thâm hụt ngân sách của Chính phủ Ireland là 2,9%, đến năm 2010, tỷ lệ này lên tới
32,4% GDP. Từ năm 2001 tới nay, nợ công của nước này tăng hơn 500%. Trái phiếu
của Ireland hiện cũng không còn nằm trong diện khuyến nghị đầu tư theo đánh giá
của Moody’s.
2.18. Italy
Tỷ lệ nợ công/GDP: 120,5%
Tổng nợ chính phủ: 2,54 nghìn tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 31.555 USD
GDP danh nghĩa: 2,2 nghìn tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 8,9%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: A3
Khối nợ công khổng lồ của Italy được so sanh với một quả bom hẹn giờ, khi mà
tăng trưởng GDP của nước này diễn ra hết sức chậm chạp. Năm 2010, GDP của
Italy chỉ tăng 1,3% sau 2 năm suy giảm liên tiếp. Vào tháng 12/2011, Chính phủ
Italy đã thông qua một kế hoạch ngân sách khắc khổ nhằm hạ lãi suất vay vốn. Tuy
nhiên, vào đầu tuần này, Moody’s vẫn hạ một bậc điểm tín nhiệm của Italy.
2.19. Hy Lạp
Tỷ lệ nợ công/GDP: 168,2%
Tổng nợ chính phủ: 489 tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 28.154 USD
GDP danh nghĩa: 303 tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 19,2%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Ca
Hy Lạp vẫn là tâm điểm của khủng hoảng nợ châu Âu, cho dù đã được EU và
IMF giải cứu. Athens đang tiếp tục phải đưa ra những kế hoạch cải cách và cắt giảm
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 23
chi tiêu ngặt nghèo mất lòng dân để được các nhà tài trợ quốc tế cứu thêm lần nữa.
Các nhà chức trách châu Âu đang đòi Hy Lạp phải cụ thể hóa hơn nữa kế hoạch
khắc khổ để thuyết phục họ. Chỉ trong vòng 1 năm tính từ cuối năm 2010, tỷ lệ nợ
công/GDP của Hy Lạp đã nhảy vọt từ 143% lên 168%.

2.20. Nhật Bản
Tỷ lệ nợ công/GDP: 233,1%
Tổng nợ chính phủ: 13,7 nghìn tỷ USD
GDP đầu người (đồng giá sức mua-PPP): 33.994 USD
GDP danh nghĩa: 5,88 nghìn tỷ USD
Tỷ lệ thất nghiệp: 4,6%
Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Aa3
Bất kỳ một nước phát triển nào cũng thua xa Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ nhì
thế giới, về tỷ lệ nợ công/GDP. Tuy nặng nợ, kinh tế Nhật hiện vẫn chưa đến mức bi
đát Hy Lạp, chủ yếu nhờ nước này có tỷ lệ thấp nghiệp thấp và trái phiếu chính phủ
chủ yếu do các chủ nợ trong nước nắm giữ. Theo Chính phủ Nhật, 95% dư nợ trái
phiếu của Tokyo hiện nằm trong tay của các nhà đầu tư trong nước, chỉ có 5% là
trong tay chủ nợ nước ngoài. Bên cạnh đó, Thủ tướng Nhật Yoshihiko Noda đang có
kế hoạch tăng thuế bán hàng để giảm nợ công.
Nợ công khoảng 168,2% GDP đủ để một nước như Hy Lạp rơi vào tình trạng phá
sản, trong khi đó nợ công lên tới hơn 200% như Nhật Bản vẫn được coi là an toàn
bởi vì nợ công của Nhật Bản chủ yếu là nợ vay trong nước. Vì vậy, khi xét đến nợ
công, điều cốt lõi không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả mà phải
quan tâm tới rủi ro và cơ cấu nợ.Nghĩa là phải tính tới khả năng trả nợ và rủi ro
trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Mức độ an toàn hay
nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn,
phụ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế.
Thách thức của các nước phát triển
Hiện nay, nền kinh tế các nước phát triển đang đứng trước những thách thức vô
cùng khó khăn đối với vấn đề nợ công.
Thứ nhất, Chính phủ các nước dễ tổn thương trước những thay đổi nhanh chóng
và bất ngờ trong hành vi của nhà đầu tư, và hệ quả là những chính sách cũng bị thay
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 24
đổi theo để kịp thời thích nghi. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất cao
hơn hoặc từ chối cho vay mượn trước nỗi lo về khả năng vỡ nợ ở các quốc gia rủi ro

cao. Hiện ba nước trong khu vực eurozone là Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha đang
phải gánh chịu áp lực này; tuy nhiên các nước lớn khác trong khu vực eurozone và
IMF đã cho các nước này vay mượn để tránh nguy cơ vỡ nợ.
Thứ hai, sự cạnh tranh vốn của chính phủ cho những khoản nợ vay sẽ đẩy lãi
suất lên cao, gây khó khăn cho khả năng tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp, nhà
đầu tư tư nhân.
Thứ ba, mức nợ công cao sẽ hạn chế khả năng ứng phó với những khủng hoảng
không mong muốn, ví dụ như thảm họa thiên nhiên. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả
năng hồi phục nhanh và bền vững của nền kinh tế trong nước. Theo các nhà kinh tế,
gánh nặng nợ công tăng cao như hiện nay chỉ mới là giai đoạn đầu của những vấn
đề nghiêm trọng hơn.
Cụ thể là mối quan ngại về sự già hóa dân số ở các nước phát triển sẽ làm cho nợ
công tăng vọt trong những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu
hẹp sẽ làm cho nguồn thu thuế của chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người
nghỉ hưu tăng lên sẽ gây áp lực cho việc tăng chi tiêu chính phủ trong các khoản
lương hưu và chăm sóc sức khỏe.
Theo thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), cứ 100 công
nhân ở các nước thành viên OECD thì có khoảng 27 người về hưu trong năm 2000.
Vào năm 2050, tổ chức này dự báo sẽ có đến khoảng 62 người về hưu cho mỗi 100
công nhân.
3.
Nợ Công Hy Lạp - GVHD: Lê Văn Lạng 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×