Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Tình hình tiêu thụ các mặt hàng sản xuất ở Cty Phú Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.32 KB, 72 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với
người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời sống cho người lao
động và gia đình họ trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng
lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. Chính sách BHXH ở nước ta
được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước, 60 năm qua, trong
quá trình tổ chức thực hiện, chính sách BHXH ngày càng được hoàn thiện và
không ngừng đổi mới, bổ xung cho phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước.
Cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (12/1986), chính sách BHXH và tổ chức quản lí hoạt động cũng
có nhiều đổi mới tích cực.
Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mới của BHXH tôi nhận thấy BHXH thực sự
là một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước.
BHXH không những góp phần ổn định đời sống của người lao động mà còn
khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải cho xã hội, xây dựng đất
nước. Trong quá trình thực hiện BHXH đã không ngừng phát triển cả về chất
lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng tăng lên, mở rộng cho các đối
tượng tham gia, hoàn thiện dần hệ thống chính sách BHXH tiến tới thực hiện đủ
các chế độ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế
quản lí từ cơ chế quản lí kế hoạch hoá, tập chung, bao cấp, hoàn toàn do NSNN
đảm bảo đã chuyển sang cơ chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc
cân bằng thu chi. Cách thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho
NSNN mà còn thể hiện trách nhiệm của cả người sử dụng lao động đối với người
lao động. Nhà nước nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí thông qua
BHXH Việt Nam, là hệ thống ngành dọc được tổ chức từ Trung ương đến địa
phương.
1
Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH Việt Nam cũng còn rất nhiều tồn tại cần
sớm được khắc phục cả về nội dung chính sách, tổ chức quản lí hoạt động. Đây là
những đòi hỏi cấp thiết cần được nghiên cứu để góp phần dân hoàn thiện chính
sách và tổ chức quản lí hoạt động của BHXH Việt Nam. Trong đó quản lí tài chính


BHXH Việt Nam là một mảng lớn, cần được chú trọng và quan tâm vì tài chính
BHXH có vững thì các chế độ trợ cấp mới được đảm bảo thực hiện tốt mà không
dẫn đến tình trạng thâm hụt NSNN.
2
CHƯƠNG 1 :CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.Tổng quan về Bảo Hiểm Xã Hội
1.1.1. Khái niệm bào hiểm xã hội
Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn bắt nguồn
từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con người để chống lại
những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ
lẫn nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy mô nhỏ, thường
là trong một nhóm người chung quan hệ huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự
phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó
là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi đó
tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con người hướng
thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau
trong cuộc sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này
đã mang tính có tổ chức và quy mô rộng rãi hơn.
Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ
mang tính chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì
chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bước phát triển rộng khắp.
BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ
3
tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước
theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ,

đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.”
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
- Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động,
giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như đã
nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình
họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi quốc
gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế
của mỗi nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng
bảo đảm ổn đình đời sống của người lao động.
- Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao
động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng
BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan tâm,
trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài
ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để gắn
bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và đây
cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một cách
hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế
( ILO) cũng đã đưa ra một định nghĩa khác như sau:
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một
loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để
chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu
nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa,
BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia
4
đình khi cần thiết.”
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển
của mỗi cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối
với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội đó.

1.1.2. Bản chất và chức năng, nguyên tắc hoạt động của bào hiểm xã hội
a. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao động
khi gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc
tuổi già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn định cuộc sống của bản
thân người lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay được coi là một chính sách xã
hội lớn của mỗi quốc gia, được nhà nước quan tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét
về bản chất bao gồm những nội dung sau đây:
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của nền kinh
tế. Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối
quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày càng phát triển. Do
vậy trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự đa dạng và tính hoàn thiện
của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới hệ thống
BHXH của mỗi nước.
BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối quan hệ
của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử dụng lao động
(bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, thông thường thì do cơ
quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ, bên được BHXH chính là người
lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo
những nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động có thể
là những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp...), cũng có thể là
5
các rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, thai sản, ...). Đồng thời các biến
cố này có thể xảy ra trong quá trình lao động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập
của người lao động bị giảm hay mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù
đắp từ nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và
có thêm sự hỗ trợ của NSNN.
b. Chức năng của bảo hiểm xã hội
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của người

lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay
mất việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay dài hạn thì
mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao động và
cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho người lao động
khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân
phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa người lao động khoẻ mạnh
với người lao động ốm đau, già yếu..., giữa những người có thu nhập cao phải
đóng nhiều với người có thu nhập thấp phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng
này BHXH còn có ý nghĩa góp phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu
quan trọng trong chính sách kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc,
nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội,
tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu
trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển,
việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự
bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa người lao động và xã hội và càng thúc
đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã hội.
Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu
6
thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... BHXH đã
gắn bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ
hiểu nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, người lao
động thì được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân
hăng hái, tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất
song hiệu quả nhất vì đã giải quyết những khó khăn về đời sống của người lao
động và góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.
c. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:

Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của
người đang làm việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên
tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm là quỹ góp chung của số đông bù cho số
ít là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao
động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong
BHXH không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà còn
có cả những rủi ro không mang tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,...
Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng
phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc
quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nước,
song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi
nước trong mỗi thời kì khác nhau.
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính
sách BHXH của các nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước
(NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách năm 1995 của nước ta thì đây thực sự
là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các bên tham gia
BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có
thể quản lí theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù
thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước khác nhau.
7
1.1.3. Các chế độ bào hiểm xã hội
Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên
BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác nhau. BHXH được
xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống nhất trên toàn thế giới và
phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về hệ thống
chính sách BHXH. Trong Công ước 102 được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có
quy định những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:
q Chăm sóc y tế.
CTrợ cấp ốm đau.
T Trợ cấp thất nghiệp.

T Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
T Trợ cấp tuổi già.
T Trợ cấp thai sản.
T Trợ cấp tàn tật.
T Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế độ nói
trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
t Trợ cấp tuổi già.
T Trợ cấp thất nghiệp.
T Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
TTrợ cấp tàn tật.
T Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở điều
kiện kinh tế, thu nhập, tiền lương, ... Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn phải tính
đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, ... để quy định
các mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối tượng hưởng cho hợp lí. Các
chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
8
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu
quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay
đổi của điều kiện kinh tế -xã hội.
1.1.4. Quỹ bào hiểm xã hội

Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ BHXH là một
bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ BHXH là một quỹ tài
chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được hình thành từ các nguồn sau
đây:
đ Người sử dụng lao động đóng góp,
NNgười lao động đóng góp,
NNhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
NCác nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các hoạt động
đầu tư quỹ nhàn rỗi).
Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho
cả người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều
9
này không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Sự đóng góp một phần
quỹ của người sử dụng lao động cho người lao động sẽ tránh được những thiệt hại
kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao
động mà mình thuê mướn. Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến
tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ
vừa thể hiện sự tự gánh chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa
ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn
nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước. Hiện nay mức đóng góp
BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương cơ
quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập
cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước lại có những quy
định khác nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ
chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình,
các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp

mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy định, Chính phủ
bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí BHXH ....
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau: thứ nhất là
chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn lại là chi trả cho
chi phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì khoản chi thứ nhất là
quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các khoản trợ cấp này cũng được
quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng một cách cụ thể và có sự khác biệt đối
với từng chế độ. Tại những nước khác nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được
quy định khác nhau.
10
1.1.5. Phân loại quỹ BHXH:
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên thế giới mà
quỹ BHXH được phân loại khác nhau:
q Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.
v Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả cho các chế
độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động
tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho các chế độ như hưu trí, tử tuất.
t Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà nước,
quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh nghiệp, quỹ cho
các đối tượng còn lại.
Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh những tình
trạng phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có sự bổ xung và hỗ
trợ lẫn nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới những ảnh hưởng xấu đến
việc chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa
trên các cách tổ chức thực hiện các chế độ mà mỗi nước lại có những quy định
khác nhau về các quỹ thành phần. Các quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ
thống BHXH đó.
1.2. Tổng quan về cơ quan quản lý tài chính Bảo Hiểm Xã Hội
1.2.1. Khái niệm chung về quản lí tài chính Bảo Hiểm Xã Hội

Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động
nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một đối
tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con
người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lí ở
đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính
chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài
chính BHXH tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính
11
nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó
đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí
tài chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội
của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục
tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước những rủi
ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động yên
tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính
ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí
tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ
yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện
một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là
những biến động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi
trường sống, môi trường kinh tế ..., những biến động tác động trực tiếp đến đời
sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa
chọn và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp
lí và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện mục
tiêu của Nhà nước đặt ra.
Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ yếu sau:
KQuá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân đối
trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế độ trợ
cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động một cách thường xuyên nên trong

quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới vấn đề này. Đây cũng là
một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính đảo
ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy có sự
hỗ trợ của NSNN, song quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho
NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này một cách tốt nhất.
NQuỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành Bảo
hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng có thể
12
kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn và tăng
trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ quan BHXH phải tăng
cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu tư phần
quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau:
+An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH
cho người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo
an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về
danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng có ý nghĩa quan
trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực
để giảm thiểu rủi ro.
+ Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc
này rất quan trọng và phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không
chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản chi mà còn góp phần cho
phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
+ Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù
của nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư
phải đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc
biệt tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn khoản. Các hình
thức đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước.
+ Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội,
do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân,
phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. Các hình

thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt
động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục
tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ
thống An sinh xã hội của mỗi nước.
1.2.2. Nội dung quản lí tài chính Bảo Hiểm Xã Hội
13
Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản sau:
NQuản lí thu BHXH.
QQuản lí chi BHXH.
QQuản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
QQuản lí cân đối quỹ BHXH.
a. Quản lí thu BHXH.
Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình
thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi trả
cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm được nội dung thu gồm hai
khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là khoản thu lớn nhất
và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các quỹ của
các tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ bù đắp
cho những trường hợp cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức BHXH
cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà công tác
quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao động và
người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối tượng
chính sau đây:
Quản lí đối tượng tham gia BHXH:Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH
khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động
trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số ít nên việc tham
gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối
tượng tham gia cần thực hiện các công việc sau:
+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.

+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.
+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình đóng góp,
14
ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và một số thông tin
khác.
Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp:Theo những quy định hiện hành như
ngày nay thì phí thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của
doanh nghiệp và tiền lương tháng của người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở
để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của doanh nghiệp BHXH có
thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng
BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện thu
và chi trả trực tiếp cho một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí nói
riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH nói chung.
Quản lí tiền thu BHXH:Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông
qua tài khoản của BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm
bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ
thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp. Việc nắm bắt tình
hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho công
tác chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu BHXH, tất
cả các đóng góp BHXH sẽ được quản lí chung một cách thống nhất, dân chủ, công
khai trong toàn hệ thống.
b. Quản lí chi BHXH.
Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi
khác. Trong đó có thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế độ,
hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện sự bảo đảm cuộc sống của chính sách
BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính sau:
Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ:Mục tiêu của hoạt động quản lí chi
không với mục đích giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để
tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không đúng đối tượng vừa tránh lãng phí lại
đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để đảm bảo chi trả

15
trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp lí, tổ
chức thực hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí hoạt
động thu trước tiên chúng ta phải quản lí những đối tượng được hưởng các chế độ
BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản thân người lao động hoặc
người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp là những
người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm mất hoặc
giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các điều kiện
hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, thường thì mức trợ cấp, loại trợ cấp
và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng góp, mức độ
hay tỉ lệ thương tật,...và chính biến cố mà người lao động gặp phải. BHXH Việt
Nam muốn quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp lí về các điều
kiện hưởng của các loại chế độ, dựa trên cơ sở đó để xử lí các trường hợp cho công
bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm tránh tình trạng chi sai
hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được phân loại và phân
cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện.
Quản lí chi hoạt động bộ máy:Sau chi cho các chế độ thì đây là khoản chi lớn
thứ hai cần được quản lí. Chi quản lí có thể hiểu đơn giản là khoản chi cho bộ máy
tức là trả lương cho cán bộ, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm thiết bị
và những tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức BHXH. Mức chi này
có thể được quy định trong điều lệ BHXH hoặc cũng có thể được lập trong NSNN.
Khoản chi này cần được quản lí tránh những lãng phí không cần thiết. Một số nước
khoản chi này được NSNN chi trả, một số nước lại do quỹ BHXH đảm bảo. Song
nhìn chung thì chi phí quản lí là phải phù hợp tránh những lãng phí không cần
thiết, song chi phí quản lí cũng phải đủ lớn để đảm bảo cơ sở cho hoạt động quản lí
của BHXH được thực hiện dễ dạng. Hơn nữa lương cho cán bộ nhân viên của
ngành BHXH phải cân bằng với các ngành khác.
c. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của
những yêu cầu cần bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu

16
trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những cơ hội
cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát triển
quỹ lại trở thành nhu cầu bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có
thể sẽ đứng trước tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu
tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ để
đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để hoạt động đầu tư
thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn,
tránh rủi ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội.
d. Quản lí hoạt động cân đối quỹ.
BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo hiểm thương mại,
BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục đích lớn nhất là ổn định
cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng thu chi là trạng thái mong muốn
của mỗi nước khi triển khai thực hiện BHXH. Để cân đối thu chi trên thực tế
thường phải có sự hỗ trợ của NSNN, đồng thời thì quỹ phải tìm cho mình những
nguồn thu khác để đảm bảo cân bằng quỹ. Trong đó các khoản chi và nguồn thu đã
được trình bày ở trên. Quản lí cân đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng nhằm
phát hiện ra những thay đổi dẫn đến mất cân đối để có những biện pháp khắc phục
kịp thời.
1.2.3. Sự cần thiết của cơ quan nhà nước quản lý tài chính Bảo hiểm xã hội
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm tồn tại thể hiện thông qua các mối quan hệ giữa
nhà bảo hiểm và người mua bảo hiểm, giữa nhà bảo hiểm đối với người thứ ba
khác nhau trong quá trình thiết lập, hoạt động, giải thể, phá sản,... Cũng như các
hoạt động, các mối quan hệ trong các lĩnh vực KT-XH. Môi trường pháp lý hoàn
thiện càng tạo ra được một hành lang cho hoạt động nghề bảo hiểm này phát triển
tốt phát huy cao độ tác dụng tích cực đối với đời sống KT-XH.
Nhà nước cần có sự kiểm tra đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm vì 2 lý do
chính sau đây:
17
- Do những đặc trưng riêng có của hoạt động kinh doanh bảo hiềm. Nhả bảo

hiểm bán sản phẩm bảo hiềm thật ra là bán lời hứa, lời cam kết của mình về nghĩa
vụ bù đắp tổn thất cho người bán. Giá cả của sản phẩm bảo hiềm - phí bảo hiền
được xác định hoàn toàn dựa trên kĩ thuật tính toán, phán đoán của nhà bảo hiểm.
Việc giao kết hợp đồng gần như dựa trên mẫu diều khoản
- Trong quá trình quản lý quĩ BHXH cần phải tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc tập trung thống nhất
+ Nguyên tắc phù hợp
+ Nguyên tắc lấy số đông bù số ít
+ Nguyên tắc mức trợ cấp phải thấp hơn mức tiền lương đang đi làm nhưng
thấp nhất phải đảm bảo mức sống tối thiểu
+ Nguyên tắc bắt buộc kết hợp tự nguyện
Do đó CP cần thành lập hệ thống tổ chức BHXH thống nhất để quản lý quỹ và
thực hiện các chế độ, chính sách về BHXH theo qui định của pháp luật đối với
người lao động.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lí tài chính BHXH
Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lí tài chính BHXH nói riêng
thì việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới hoạt động của đối tượng
quản lí là rất cần thiết. Các tác động của môi trường có thể mang đến những thách
thức cũng như những cơ hội cho chính bản thân các hoạt động tài chính của
BHXH. Muốn quản lí tốt, nhà quản trị cần nắm rõ những yếu tố này để đưa ra
những quyết định hợp lí và có lợi nhất cho đối tượng quản lí. Các tác động của môi
trường thường được chia làm hai loại là tác động của môi trường ngoài hệ thống và
tác động từ môi trường trong hệ thống.
18
a. Nhân tố khách quan
Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ môi trường
kinh tế- chính trị- xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra thì có thể là cả những ảnh
hưởng của môi trường thế giới. Khi chúng ta xem xét các yếu tố của BHXH dưới
giác độ của các công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) đã quy
định. Nhưng các nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. BHXH không

chỉ là thể hiện tính ưu việt của mỗi Nhà nước mà chính Nhà nước cũng là chủ sử
dụng lao động lớn nhất trong xã hội. Các chính sách, quyết định của Nhà nước tác
động trực tiếp tới hoạt động quản lí. Môi trường kinh tế như GDP, thu nhập bình
quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức
sống tối thiểu, các dịch vụ công cộng... . Đây là các yếu tố tác động tới thu chi, cân
đối quỹ BHXH sao cho phù hợp đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.
Bên cạch đó còn có các yếu tố như văn hoá, lối sống, truyền thống, trình độ nhận
thức,... nó tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá nhân
trong xã hôi. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “lá lành đùm là rách, lá
rách ít đùm lá rách nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai BHXH nên được
mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những yếu tố kể trên tác động tới nội dung
của những quy định trong các quy chế quản lí tài chính BHXH Việt Nam.
b. Nhân tố chủ quan
Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý thức tự giác
của các đối tượng tham gia là người lao động và đặc biệt là chủ sử dụng lao động.
Yếu tố trình độ của các cán bộ trong ngành BHXH, điều kiện làm việc, trang thiết
bị phục vụ công tác,....cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lí tài chính
BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cang đầy đủ và hiện đại
thì công tác quản lí tài chính BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả.
19
1.3. Kinh nghiệm về quản lí tài chính Bảo Hiểm Xã Hội ở một số nước trên
thế giới
Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH,
trong đó số các nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là
nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có
khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực hiện các chế độ là tuỳ thuộc vào điều kiện
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung hiện nay
là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối với lịch sử phát triển của
ngành BHXH trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như vậy chúng ta cần
học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước.

1.5.1. Kinh nghiệm của Đức
So với các nước trên thế giới, Cộng hoà Liên bang Đức là nước có lịch sử phát
triển được coi như sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện từ
những năm 1850. Cho đến nay, chính sách BHXH ở Đức bao gồm 6 chế độ sau:
+ Bảo hiểm thất nghiệp.
+ Bảo hiểm y tế.
+ Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người già và người tàn tật.
+ Bảo hiểm ốm đau.
+ Bảo hiểm tai nạn lao động.
+ Bảo hiểm hưu trí.
Hoạt động BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức thực hiện theo ba trụ cột chính
là:
l Hệ thống BHXH bắt buộc.
20
Hệ thống BHXH tư nhân.
HHệ thống BHXH ở các xí nghiệp.
Trong đó hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự quản, bảo đảm
tài chính theo phương pháp lấy thu bù chi. Hệ thống BHXH tư nhân và hệ thống
BHXH ở các xí nghiệp hoạt động theo Bộ luật Lao động của Liên bang. Tự chịu là
hình thức quản lí tương đối độc lập với sự chỉ đạo của cơ quan quản lí Nhà nước
cao nhất. Có thể hiểu rõ thông qua cơ chế quản lí chung của Quỹ hưu trí sau. Cơ
quan quản lí cao nhất là một Hội đồng, hội động này bổ nhiệm Ban điều hành, từ
Ban điều hành sẽ điều hành mọi hoạt động của tổ chức. Hoạt động tài chính trong
năm của Quỹ hưu trí viên chức Liên bang diễn ra như sau:
Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của Chính phủ Liên bang, tổ chức
BHXH, Tổng cục Thống kê sẽ dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới theo phương
pháp ước tính. Từ đó đưa ra dự kiến số thu, dự kiến số chi, trên cơ sở này xác định
tỉ lệ thu cho năm tới và tiến hành đưa ra bằng một văn bản có hiệu lực pháp luật.
Quỹ thu thường là đủ dùng chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ, chi hoạt động
của bộ máy quản lí và còn một khoản để dự trữ gọi là khoản dự trữ trần. Do sự ổn

định của nền kinh tế mà khoản dự trữ này thường chỉ ở mức đủ chi cho các đối
tượng do quỹ đảm bảo trong một tháng, từ năm 2001 đã rút xuống khoản 0,8 tháng.
Cách này có những ưu điểm như: hạn chế được những tác động của môi trường
kinh tế, dễ dàng cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh
nặng cho NSNN,... .
Cộng hoà Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng một lúc
nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm thu, chi cho một
loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở nước này là những công chức Nhà nước (
những người được đề cử vào bộ máy quản lí Nhà nước) không phải đóng BHXH,
nhưng họ được nhận lương hưu khi hết tuổi lao động. Khoản chi này được lấy từ
nguồn thu thuế để trả. Có nhiều tổ chức cùng tham gia thực hiện các chế độ
BHXH, đặc biệt là sự có mặt của các tổ chức BHXH tư nhân, có thể mang lại sự
cạnh tranh giúp cho hoạt động ngày càng hiệu quả.
21
1.5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Ngay sau khi thành lập nước, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng một
hệ thống an toàn xã hội, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội,
trợ giúp xã hội. Trong các chế độ đó BHXH giữ vai trò quan trọng nhất. Đến năm
1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Luật Lao động, trong đó chương
IX có những quy định cải cách hệ thống BHXH. Các chế độ BHXH chỉ được áp
dụng ở các khu vực thành thị và trong các doanh nghiệp. Tại các địa phương ở
Trung Quốc đã cụ thể hoá các chế độ, trong đó hai chế độ là hưu trí và thất nghiệp
đã được xây dựng thành Điều lệ, các chế độ khác về cơ bản còn là quy định tạm
thời song có hiệu lực khá cao.
Về nguyên tắc mỗi chế độ có một quỹ riêng. Nguồn quỹ gồm hai khoản: Một
khoản do chủ sử dụng lao động nộp và một khoản do người lao động đóng. Riêng
quỹ bảo hiểm tai nạn lao động thì chỉ do chủ sử dụng lao động đóng. NSNN sẽ hỗ
trợ khi mất cân đối thu chi do các nguyên nhân bất khả kháng, còn các trường hợp
khác tự người lao động và người sử dụng lao động bảo đảm. Các quỹ nhìn chung
được chia làm hai phần: Phần thứ nhất được đưa vào tài khoản cá nhân gồm toàn

bộ số tiền do người lao động đóng và một phần do chủ sử dụng lao động đóng;
Phần thứ hai được đưa vào quỹ chi chung trong trường hợp cần thiết là phần đóng
góp còn lại của chủ sử dụng lao động. Qua đây chúng ta nhận thấy hiện nay có khá
nhiều nước quản lí quỹ theo từng chế độ, đây là phương pháp quản lí mang tính
mở dễ thích nghi với nhiều điều kiện của từng khu vực, từng tầng lớp lao động.
Đặc biệt việc hình thành tài khoản cá nhân, bản thân người lao động có thể nắm bắt
được số dư cũng như họ được hưởng hoàn toàn nên có những sự điều chỉnh tránh
tình trạng mất công bằng. Cách quản lí quỹ như vậy đã phân định được rõ trách
nhiệm của mỗi bên do vậy tránh tình trạng lẫn lộn giữa các quỹ, sử dụng sai mục
đích hay thất thoát.
1.5.3. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc.
Qua tìm hiểu về tổ chức quản lí và hoạt động tài chính của hai hệ thống BHXH
22
trên ta nhận thấy một số những ưu điểm như khắc phục được sự ảnh hưởng từ môi
trường kinh tế. Đặc biệt là hệ thống BHXH của CHLB Đức hiện nay đang thực
hiện theo phương thức hàng năm sẽ thống kê ra số chi, trên cơ sở số liệu đó tính
toán số thu hợp lí cho năm đó. Thực hiện như vậy lạm phát không thể ảnh hưởng
tới quỹ BHXH cũng như việc chi trả các chế độ chính sách. Vì vậy, BHXH sẽ chủ
động hơn trong việc quản lí tài chính. Hiện nay dự trữ quỹ BHXH là rất nhỏ chứng
tỏ quỹ BHXH đảm bảo được khả năng chi trả một cách tương đối ổn định. Tuy vậy
việc triển khai thực hiện phương thức này đòi hỏi phải có những điều kiện nhất
định.
Thường là ở những nước phát triển, có tiềm năng kinh tế đủ mạnh thì mới có thể
áp dụng được phương pháp này. Việc triển khai phương thức này tại Việt Nam là
tương đối khó khăn, việc thống kê là rất khó chính xác, chi phí lớn. Hơn nữa điều
kiện kinh tế nước ta là nước đang phát triển, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.
Tuy vậy BHXH CHLB Đức hiện nay được tổ chức thực hiện thông qua cả tổ chức
BHXH tư nhân, như vậy sẽ có sự cạnh tranh và tất yếu của cạnh tranh là hiệu quả
hoạt động càng cao. Từ hoạt động của BHXH CHLB Đức có thể đưa việc triển
khai việc thực hiện một số chính sách thông qua hệ thống BHXH tư nhân là khả thi

tại BHXH Việt Nam.
Đối với hệ thống BHXH Trung Quốc, đây là hệ thống BHXH được tổ chức như
một hệ thống mở, các chính sách được cụ thể hóa và thực hiện chưa thực sự thống
nhất trong cả nước song tính hiệu lực tương đối cao. Đây cũng là một điểm mạnh
mà BHXH Việt Nam cần xem xét vì hiện nay tính hiệu lực trong các quy định của
nước ta là chưa cao. Các đối tượng bắt buộc tham gia của BHXH Việt Nam thực
hiện chưa đầy đủ, việc trốn đóng hay nợ đọng vẫn là những vấn đề còn tồn tại.
Bên cạnh đó, việc tổ chức quỹ thành hai phần: phần thứ nhất là một phần phí do
người sử dụng lao động nộp để sử dụng chung, phần thứ hai bao gồm phần phí do
người lao động nộp và phần còn lại do người sử dụng nôp. Phần thứ hai này được
tổ chức thành tài khoản cho người lao động, họ có thể chủ động hơn trong các kế
hoạch tài chính của mình.
23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Bảo Hiểm Xã Hội ở Việt Nam
2.1.1. Lịch sử phát triển Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam
a. BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995.
Ngay từ đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù còn rất nhiều khó khăn và phải giải
quyết nhiều công việc hệ trọng của đất nước nhưng Nhà nước ta vẫn luôn dành sự
quan tâm tới việc tổ chức thực hiện BHXH. Trước tiên Chính phủ cách mạng đã áp
dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp để giải quyết quyền lợi cho một số công chức đã
làm việc dưới thời Pháp, sau đó đi theo kháng chiến nay đã già yếu. Sau cách mạng
tháng Tám thành công do còn khó khăn về nhiều mặt nên chế độ chỉ được thực
hiện đến năm 1949.
Năm 1950, Hồ Chủ Tịch kí Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế
công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy chế công nhân.
Theo các Sắc lệnh trên, công chức và công nhân đã có những quyền lợi về chế độ
hưu trí. Nhìn lai chính sách BHXH giai đoạn này chúng ta có thể nhận thấy các
chính sách được xây dựng và thực hiện ngay sau khi dành được độc lập tuy hoàn

cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn. Mặt khác các chính sách triển khai thực
hiện không đầy đủ, chỉ mới thực hiện được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp
thấp nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho bộ phận công nhân, viên chức Nhà
nước. Nguồc chi 100% lấy từ NSNN, chưa hề có sự đóng góp của các bên.
Đến ngày 27/12/1961, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH tạm thời về các chế
độ BHXH cho cán bộ, công nhân viên kèm theo Nghị định 218/ CP.
Tiếp theo đó là Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 ban hành Điêu lệ BHXH
tạm thời đối với quân nhân. Như vậy đối tượng được tham gia BHXH đã mở rộng,
và áp dụng cho 6 loại chế độ gồm: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất, ốm đau, thai
24
sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy là các chế độ của BHXH Việt
Nam được triển khai khá đầy đủ từ rất sớm. Hơn nữa tài chính thời kì này bắt đầu
quy định có sự đóng góp một phần của các xí nghiệp, phần còn lai vẫn do NSNN
cấp. Đến năm 1985 cùng với cải cách tiền lương Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định 236/HĐBT có những sửa đổi bổ xung quan trọng như tăng tỉ lệ đóng
góp của các đơn vị sản suất kinh doanh. Tuy vậy, thời kì này do nhiều nguyên nhân
khác nhau, chủ yếu là sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ cộng với cơ chế quản
lí bao cấp không hiệu quả nên BHXH hầu như không có thu và NSNN vẫn phải bù
cấp là chính. Đây cũng là giai đoạn tổ chức quản lí BHXH không ổn định, ro nhiều
Bộ ngành khác nhau đảm nhiệm ( Bộ nội vụ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi,
Bộ tài chính, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam). Song chịu trách
nhiệm quản lí chính là Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi và Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI ( tháng 12/1986) đề ra đường lối đổi mới
toàn diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù
hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Cùng với sự
đổi mới chung của đất nước, chính sách BHXH cũng có những chuyển biến. Nội
dung cải cách lần này tập trung vào cải cách cơ chế bao cấp trong quản lí, mở ra
loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Đến ngày 22/6/1993 Chính phủ
ban hành Nghị định 43/CP về những quy định tạm thời chế độ BHXH. Trong đó

có quy định tăng mức đóng BHXH và đặc biệt người lao động phải đóng BHXH.
Cơ chế hoạt động của BHXH được quy định trong chương XII của Bộ Luật lao
động do Quốc hội khoá IX thông qua ngày 23/6/1994, sau đó được cụ thể hoá
trong Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP và 45/CP ban hành năm 1995. Từ
đây ngành BHXH Việt Nam chuyển sang trang mới trong lịch sử phát triển của
mình.
b. BHXH Việt Nam giai đoạn sau 1995
Đây là giai đoạn chính sách và quản lí hoạt động BHXH có những đổi mới thực
sự từ cơ chế tập chung, bao cấp không đóng BHXH vẫn được hưởng BHXH sang
25

×