HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III
…………***…………
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ K44D
TIỂU LUẬN
Chuyên đề bắt buộc số: 02
Thuộc khoa: Xây dựng Đảng
Đề tài:
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẬN THANH KHÊ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG, GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
Người thực hiện: NGUYỄN THANH HIẾU
Đà Nẵng, tháng 10 năm 2016
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh Khê là một quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, gồm 10
phường, là quận có diện tích tự nhiên nhỏ nhất trong các quận huyện của thành
phố (9,44 km2). Tuy vậy, tồn quận có 197.940 nhân khẩu, 44.770 hộ dân cư trú
trong 1.273 tổ dân phố, mật độ dân số là hơn 20 ngàn người trên km2, chiếm tỷ lệ
cao nhất thành phố. Là quận ở vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, an
ninh quốc phòng. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng bình quân ngành
dịch vụ hàng năm đạt 20%, chiếm tỷ trọng 55% trong tổng giá trị kinh tế của
quận, thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2013 là 56,3 triệu đồng, trên
mức thu nhập bình quân của thành phố Đà Nẵng (55,98 triệu đồng), tổng thu ngân
sách bình quân hàng năm tăng 11%, đảm bảo tự cân đối ngân sách và đóng góp
với thành phố. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì quận Thanh Khê cịn
những tồn tại, yếu kém cần khắc phục. Tồn tại trên có nhiều nguyên nhân, song
nguyên nhân chủ yếu được Đại hội lần thứ XI Đảng bộ quận Thanh Khê nhiệm
kỳ 2015 - 2020 chỉ rõ đó là: “Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt chưa thật sự
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; đội ngũ cán bộ cịn hụt hẫng, cơng
tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ có lúc chưa thật mạnh mẽ, tích cực”.
Để xây dựng phát triển quận Thanh Khê xứng đáng là đô thị trung tâm
của thành phố Đà Nẵng, Đảng bộ quận đã thường xuyên quan tâm chăm lo về
các mặt trong đó đặc biệt xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó, tơi chọn vấn đề: "Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, giai
đoạn 2016 - 2020" làm tiểu luận chuyên đề bắt buộc theo khung chương trình
cao cấp lý luận chính trị khóa K44.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”. Người cũng cho rằng cơng việc có thành cơng hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã rút ra nhiều kết luận
khẳng định và đánh giá rất cao vai trò đội ngũ cán bộ. Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa VII) nêu rõ: "Cán bộ có vai trị
cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới". Chính vì
vậy, cơng tác chăm lo và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo luôn được Đảng ta
quan tâm hàng đầu. Do tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức, đối với
1
vận mệnh phát triển của đất nước nên đã có rất nhiều cơng trình, đề tài, bài viết về
cơng tác cán bộ hoặc từng khâu của công tác cán bộ. Điển hình đề tài được in
thành sách như Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003) do tác giả Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm đồng
chủ biên. Các tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và phương pháp luận nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đã đưa ra các khái niệm về cán bộ, công chức, về đội ngũ cán bộ,
chỉ ra những nội dung cơ bản về tiêu chuẩn cán bộ, yêu cầu chung đối với đội
ngũ này. Đây là nhưng tư liệu quan trọng và đáng tin cậy cho tác giả kế thừa,
tham khảo để đi sâu nghiên cứu tình hình cơng tác cán bộ của quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng, giai đoạn 2016-2020
3. Mục đích của đề tài
Mục đích chính của đề tài là khảo sát thực tế, phân tích, đánh giá thực
trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quận Thanh Khê, từ đó đề xuất mục tiêu, phương
hướng và những giải pháp chủ yếu mang tính khả thi nhằm xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quận Thanh Khê đến năm 2020 đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo của Quận
ủy Thanh Khê trong q trình lãnh đạo cơng tác cán bộ nói chung, nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt của quận, đồng thời giúp các cơ quan tham mưu, giúp việc tham
mưu, đề xuất với Ban Thường vụ Quận ủy Thanh Khê về công tác cán bộ.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nghiên
cứu về công tác cán bộ quận Thanh Khê, phục vụ giảng dạy tại Trung tâm Bồi
dưỡng chính trị quận Thanh Khê.
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 03 chương, phần mở đầu, phần kết luận.
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CÁN BỘ
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Từ trước đến nay, khái niệm “cán bộ” thường được dùng ở các nước xã
hội chủ nghĩa. Ở nước ta, xung quanh khái niệm này cịn có nhiều ý kiến khác
nhau. Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Đà Nẵng,
cán bộ có hai nghĩa: “1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ
quan Nhà nước. 2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với người thường, khơng có chức vụ.”.
Với nghĩa thứ nhất, cán bộ không chỉ bao gồm những người làm công tác
có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước, mà trong cả hệ thống chính
trị. Bộ phận cán bộ nghiệp vụ chun mơn trên đây thường được hình thành
thơng qua con đường đào tạo từ nhà trường. Đây là bộ phận cán bộ đông đảo và
thường ổn định nhất.
Với nghĩa thứ hai, để chỉ người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức. Đây chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người
có chức vụ, phân biệt với người khơng có chức vụ. Bộ phận cán bộ này được
hình thành thơng qua việc bầu cử dân chủ hoặc đề bạt, bổ nhiệm.
Công trình nghiên cứu khoa học của Nguyễn Phú Trọng "Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, định nghĩa: "Cán bộ
là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong
một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ
trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển
của tổ chức."
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của Luật cán bộ, công chức năm 2008
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Theo quy định này, tiêu chí xác định
cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
3
theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà
được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội thơng qua con đường bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Như vậy, có thể nhận
diện được những đặc điểm cơ bản của cán bộ là i) bộ khung, là nịng cốt, ii)
có tác động lớn đến sự phát triển của tổ chức, iii) hoạt động lãnh đạo, quản lý,
chỉ huy và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung, cán bộ được
hiểu là những cơng chức, viên chức nhà nước, có chức vụ trong một cơ quan,
làm việc trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị; là những người trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Từ những đặc điểm chung đó,
cán bộ được phân chia trên nhiều lĩnh vực, nhiều chức danh, cấp độ khác nhau.
Trong từng loại cán bộ đều có quy định tiêu chuẩn, tiêu chí, chức năng và nhiệm
vụ khác nhau.
Vì vậy, "khái niệm "cán bộ" được hiểu một cách tổng thể, theo nghĩa rộng
là cán bộ, công chức, viên chức; không phân biệt cán bộ và công chức theo Luật
Cán bộ, công chức"1.
Như vậy, khái niệm cán bộ sử dụng trong các văn kiện của Đảng được
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các cán bộ, công chức, viên chức làm việc
trong các tổ chức của hệ thống chính trị, các lực lượng vũ trang, các doanh
nghiệp nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập; cả những người được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và những người làm
công tác chuyên môn, nghiệp vụ.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ bao gồm bốn loại chính: Cán bộ lãnh đạo đảng,
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội; cán bộ lãnh đạo
lực lượng vũ trang; cán bộ tham mưu, khoa học, chuyên gia (ở các cơ quan tham
mưu, các đơn vị sự nghiệp công lập); cán bộ quản lý kinh doanh.
Trong thực tế, do yêu cầu của hoạt động lãnh đạo, quản lý, cán bộ được
chia thành các loại: cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chủ chốt; cán bộ chủ trì;
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu; cán bộ diện một cấp nào đó quản
lý; cán bộ chuyên môn nghiệp vụ; v.v..
Đối với cấp quận, huyện, có thể xác định cán bộ lãnh đạo của quận là
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị
quốc gia, H., 2009, tr. 197.
4
những cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể theo
phân cấp quản lý cán bộ, gồm: Bí thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ cấp uỷ, ủy
viên Ban chấp hành đảng bộ quận, trưởng, phó trưởng ban Đảng, Bí thư, Phó bí
thư các đảng ủy khối cơ quan trực thuộc, chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân,
trưởng, phó các phịng, ban, ngành, đồn thể chính trị xã hội của quận và bí thư,
phó bí thư cấp ủy; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân quận và các phường,
thuộc quận.
1.1.2. Vai trò của cán bộ
Ngay từ năm 1844, C. Mác đã khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì
cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn"2.
Trong thời kỳ lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, V.I. Lênin khẳng
định: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị
nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" 3. Sau
khi giành được chính quyền, nước Nga tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Người tiếp tục khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản
lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định
sẽ chỉ là mớ giấy lộn"4.
Hai năm sau khi giành được chính quyền, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" 5; "công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" 6; "cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng"7.
Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ,
là khâu then chốt trong công tác xây dựng đảng" 8. Kết luận của Hội nghị Trung
2
C. Mac và Ph. Ăngghen: Tồn tập, t. 2, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2002, tr. 181.
V.I. Lênin: Toàn tập, t. 4, Nxb Tiến bộ, M., 1974, tr. 473.
4
V.I. Lênin: Toàn tập, t.4 4, Nxb Tiến bộ, M., 1974, tr. 499.
5
Hồ Chí Minh: Tồn tập, t. 5, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2002, tr. 269.
6
Hồ Chí Minh: Tồn tập, t. 5, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2002, tr. 273.
7
Hồ Chí Minh: Tồn tập, t. 5, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2002, tr. 269.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, H., 1997, tr. 66.
3
5
ương 9 khóa X một lần nữa khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng"9.
Vai trò của cán bộ thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Với đường lối, chính sách, pháp luật - bao gồm Cương lĩnh, Chiến lược,
Nghị quyết của Đảng; các chính sách, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; chủ
trương, nghị quyết, kế hoạch công tác của cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị cán bộ tham gia xây dựng, hồn thiện và giữ vai trị quyết định trong tổ chức
thực hiện.
Với tổ chức - bao gồm cấp ủy, tổ chức đảng; tập thể lãnh đạo chính
quyền, chun mơn, cơ quan, đơn vị…- cán bộ là nhân tố cấu thành tổ chức,
chất lượng cán bộ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của tổ chức; đồng thời,
cán bộ tham gia vào việc sắp xếp, kiện toàn và nâng cao chất lượng của tổ chức.
Với nhân dân - bao gồm các tầng lớp nhân dân ở địa phương; cán bộ,
công chức, viên chức ở các cơ quan, đơn vị; hạ sĩ quan, chiến sĩ trong các đơn vị
lực lượng vũ trang; người lao động ở các đơn vị sản xuất… - cán bộ là "cầu nối"
giữa Đảng, Nhà nước, các đồn thể với nhân dân; là người làm cơng tác tư
tưởng và công tác dân vận.
Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo của quận là những người vừa chịu trách
nhiệm trước thành phố, vừa chịu trách nhiệm trước nhân dân quận, những người
trực tiếp lĩnh hội mọi nghị quyết, chủ trương chính sách của cấp Trung ương,
thành phố để triển khai quán triệt và tổ chức chỉ đạo thực hiện ở địa phương; có
vai trị quan trọng trong xây dựng chủ trương, chương trình, kế hoạch phát triển
tồn diện hoặc trong phạm vi từng ngành, từng lĩnh vực ở địa phương; chịu
trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát mọi lĩnh vực hoạt động diễn ra trên địa bàn theo
đúng đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đó là những
người giữ vai trị trụ cột, quyết định các hoạt động ở đơn vị do mình phụ trách.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quận là những người vừa chỉ đạo thực hiện đường
lối, chính sách của Trung ương, vừa vận dụng năng động, sáng tạo trong cách làm
cụ thể để thực hiện đường lối đó phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, từng
ngành, vừa tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm, qua đó, có thể
khái quát thành lý luận góp phần cùng các địa phương khác và Trung ương hoàn
thiện đường lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể nói, đội ngũ cán bộ, công
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị
quốc gia, H., 2009, tr. 271.
6
chức chủ chốt quận là nhân tố quyết định nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu và hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ đảng và uỷ ban nhân dân
của quận, phường. Đội ngũ này vừa là người lãnh đạo, vừa là người quản lý mọi
hoạt động của một bộ máy, một tổ chức, một cơ quan, đảm bảo cho bộ máy ấy vận
hành đồng bộ, đúng chức năng, thực hiện tốt nhiệm vụ, góp phần quan trọng làm
cho mọi nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được
triển khai thực hiện một cách sinh động trên địa bàn quận. Họ có trách nhiệm to lớn
trong xây dựng tổ chức, bộ máy, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán
bộ đồng bộ bảo đảm thực hiện nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của các tổ chức trong
hệ thống chính trị của quận và các phường.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quận cũng là hạt nhân, trung tâm đồn kết, tập
hợp, quy tụ đội ngũ cán bộ, cơng chức trong đơn vị thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan, đơn vị, địa phương. Vị trí này cũng địi hỏi họ phải là người trong sáng về
phẩm chất đạo đức, có quan hệ đúng mức với quần chúng và có năng lực nổi trội
hơn để cán bộ trong đơn vị học tập, noi theo. Đây còn là một trong những nguồn
quan trọng cung cấp cán bộ của thành phố. Thực tế cho thấy, nhiều đồng chí cán
bộ, cơng chức chủ chốt có q trình cơng tác ở quận, khi được điều động lên
thành phố cơng tác đã có những đóng góp quan trọng.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ lãnh đạo của quận là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Quận uỷ, Thường trực Ủy ban nhân dân, các phòng, ban ngành, đoàn thể,
các phường, các đảng uỷ trực thuộc quận uỷ. Đội ngũ cán bộ đó có trách nhiệm
rất nặng nề, vai trị hết sức quan trọng trong q trình lãnh đạo xây dựng và phát
triển quận trong công cuộc đổi mới và nhất là trong điều kiện chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế. Quận Thanh Khê có sánh vai cùng các địa phương
khác và cùng với thành phố hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả hay không phụ
thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ này.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.2.1. Khái niệm công tác cán bộ
Công tác cán bộ của Đảng là toàn bộ các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện của cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền nhằm phát huy cao nhất
mọi tiềm năng cán bộ của toàn Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị và
tồn xã hội, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng.
1.2.2. Vai trị của cơng tác cán bộ
7
Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, giữa các khâu có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Các khâu đó bao gồm: 1) đánh giá, 2) quy hoạch, 3) đào tạo,
4)bồi dưỡng, 5) luân chuyển, 6) bố trí, 7) sử dụng và 8) thực hiện chính sách
cán bộ. Tương đương với đó là sự phân định tương đối rạch rịi các nội dung
trong cơng tác quản lý cán bộ gồm 1) Tuyển chọn, bố trí, phân cơng, điều động,
ln chuyển và phân cấp quản lý cán bộ; 2) Đánh giá cán bộ; 3) Quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; 4) Bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; 5) Khen thưởng, kỷ
luật cán bộ; 6) Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ; 7) Kiểm tra, giám sát công
tác cán bộ và giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ. Ở mỗi khâu trong cơng tác cán
bộ thì có những cách thực hiện khác nhau. Nhưng chúng lại có mối quan hệ biện
chứng với nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau. Chất lượng và hiệu quả của
mỗi khâu lại chịu sự quy định chặt chẽ của các khâu khác. Tạo nguồn cán bộ là
việc thực hiện công tác chuẩn bị, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức kế cận
cho đội ngũ hiện có. Vì vậy, tạo nguồn cán bộ là một quy trình trong cơng tác
cán bộ nói chung, khơng nằm trong một khâu cụ thể nào trong công tác cán bộ.
Tùy theo từng yêu cầu về nguồn cán bộ, công chức, tùy theo đối tượng khác
nhau, tạo nguồn có thể là sự kết hợp của nhiều khâu nêu trên hoặc chỉ tập trung
vào một hoặc hai khâu cụ thể. Ví dụ: để tạo nguồn vào vị trí lãnh đạo cấp phó bí
thư phường, xã, các chủ thể trong công tác cán bộ sẽ phải thực hiện tất cả các
khâu từ đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và thực hiện chính
sách cán bộ; để tạo nguồn cho cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, nhất thiết phải
thực hiện qua các khâu tuyển dụng cán bộ nữ, lao động nữ có trình độ; bồi
dưỡng phát triển đảng viên nữ cân đối giữa các khu vực và bố trí, phân cơng
cơng tác để đảng viên nữ có điều kiện phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành.
Trong công tác cán bộ, cũng cần thấy rõ sự khác biệt giữa “tạo nguồn cán
bộ” với “quy hoạch cán bộ”. Nếu công tác cán bộ được khu biệt thành cơng tác
bố trí cán bộ vào một vị trí cụ thể ở một thời điểm đã xác định trước (Ví dụ: ở
đảng bộ quận, việc bố trí (bầu chọn) cán bộ chủ chốt của quận thường được thực
hiện tại mỗi đại hội đại biểu đảng bộ quận thông qua nội dung bầu cử các ủy
viên Ban chấp hành quận; đối với một cơ quan, đơn vị cụ thể, việc bố trí cơng
chức chủ chốt là việc bổ nhiệm, phân cơng cơng chức đó thơng qua các quyết
định), thì có thể chia ra làm hai giai đoạn chính là giai đoạn trước và sau bố trí
cán bộ, cơng chức. Công tác tạo nguồn cán bộ là tổng thể những hoạt động được
thực hiện trước giai đoạn bố trí cán bộ nhằm tạo ra nguồn cán bộ để “cung cấp”
8
đầy đủ, kịp thời, có đầy đủ phẩm chất, độ tuổi, thành phần cho yêu cầu của công
tác nhân sự. Trong khi đó, cơng tác quy hoạch là việc chủ động chuẩn bị nguồn
nhân sự từ xa cho công tác cán bộ, bao gồm cả khâu đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện để chuẩn bị bố trí, bổ nhiệm cán bộ trong tương lai.
Như vậy, quy hoạch cán bộ chỉ là một trong những biện pháp, một trong
những khâu để góp phần tạo nguồn cán bộ. Nói đúng như Nghị quyết 42NQ/TW của Bộ Chính trị, mục đích của cơng tác quy hoạch cán bộ là “chuẩn bị
từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng
đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ
thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về
chun mơn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực
tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.”
Về đối tượng nằm trong cơng tác tạo nguồn, tùy theo tình hình, u cầu
cụ thể của tập thể, cấp ủy, cơ quan, địa phương và đặc thù hoạt động của mỗi
đơn vị đó, sẽ có những hoạt động tạo nguồn dành cho các đối tượng khác nhau
như tạo nguồn cán bộ nữ, tạo nguồn cán bộ trẻ, tạo nguồn cán bộ, công chức chủ
chốt, tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, tạo nguồn cán bộ phong trào, tạo nguồn
cán bộ, công chức cấp xã.
Về phạm vi tạo nguồn cán bộ, tùy theo mục đích là tạo nguồn cho cán bộ,
cơng chức trong lãnh vực nào thì xác định “nguồn” của cán bộ, cơng chức ở
mức độ đó. Ví dụ, ở cấp thành phố, nếu tạo nguồn cho cán bộ, công chức trẻ thì
có thể xác định nguồn từ cán bộ phong trào đồn thể, từ nguồn sinh viên tốt
nghiệp, từ nguồn cơng nhân, nếu tạo nguồn cho cán bộ nữ thì phạm vi thu hẹp
xuống từ nữ công nhân, sinh viên, nữ cán bộ hoạt động đoàn thể, nếu tạo nguồn
cán bộ chủ chốt của một thành phố thì xác định nguồn cán bộ từ đội ngũ cán bộ,
cơng chức hiện có, từ đội ngũ cán bộ, công chức đã được quy hoạch.
Về chủ thể lãnh đạo công tác tạo nguồn cán bộ, cũng giống như chủ thể
trong công tác cán bộ, chủ thể lãnh đạo công tác tạo nguồn được xác định như
sau: chủ thể lãnh đạo là cấp ủy, tổ chức đảng ở các đợn vị, cơ quan, địa phương;
chủ thể chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện là đội ngũ cán bộ chủ trì, là các
cơ quan chức năng cấp trên. Từ đó có thể xác định, chủ thể lãnh đạo công tác
tạo nguồn đội ngũ cán bộ, cơng chức chủ chốt quận bao gồm: Thành ủy, trong
đó trước hết là Ban Thường vụ Thành ủy, Ban Chấp hành đảng bộ quận mà trực
9
tiếp là Ban Thường vụ quận ủy và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống
chính trị của quận đó. Qua đó, thấy rõ vai trị cơng tác cán bộ gồm:
Một là, cơng tác cán bộ có vai trị quyết định đến việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ.
Hai là, công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng,
tức là "khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt" trong công cuộc đổi mới.
Ba là, công tác cán bộ là một nội dung quan trọng trong phương thức
lãnh đạo của Đảng.
1.2.3. Nội dung công tác cán bộ
Công tác cán bộ của Đảng bao gồm nhiều nội dung.
Một là, Đảng xác định quan điểm, chiến lược, đường lối, chủ trương,
chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và công tác
cán bộ. Đây là những nội dung đặc biệt quan trọng, tạo cơ sở để tiến hành các
công việc cụ thể trong công tác cán bộ.
Hai là, các khâu của công tác cán bộ, bao gồm: Đánh giá cán bộ; quy
hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí,
sử dụng cán bộ (bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, bầu cử, giới thiệu ứng cử, chỉ định,
phân công phụ trách, miễn nhiệm…); quản lý cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán
bộ; thực hiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ; kiểm tra, giám sát cán bộ; bảo
vệ chính trị nội bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ; kiện tồn tổ chức,
nâng cao chất lượng cán bộ làm cơng tác cán bộ. Các khâu trong cơng tác cán bộ
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, góp phần thực hiện
tốt cơng tác cán bộ của Đảng.
Ba là, lãnh đạo và tổ chức các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân
dân tham gia phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
Bốn là, nghiên cứu khoa học, sơ kết, tổng kết, phát triển lý luận về công
tác cán bộ.
10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. ƯU ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN
Từ khi quán triệt và tập trung lãnh đạo hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Quận uỷ Thanh Khê về cơ
bản đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông về số lượng và chất lượng ngày
càng được nâng lên
2.1.1. Ưu điểm chung đội ngũ cán bộ lãnh đạo quận
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Quận uỷ đã tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, khơng
ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn, tiêu chí
cán bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Qua
hơn 15 năm xây dựng và phát triển, đến nay, đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức chủ chốt quận Thanh Khê đã có nhiều chuyển biến đáng kể.
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ, công chức này giữ vai trị quan trọng trong hệ
thống chính trị của quận Thanh Khê. Họ có q trình rèn luyện, phấn đấu và
trưởng thành từ nhiều nguồn khác nhau: là cán bộ hoạt động nội thành, cán bộ
thoát ly tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chiến tranh biên giới phía Tây
Nam, cán bộ công tác, học tập tại miền Bắc trở về, cán bộ được hình thành từ
nguồn sinh viên, từ con em giai cấp công nhân, ngư dân trong nội thị quận, cán
bộ hình thành từ những nhân tố tích cực trong hoạt động phong trào và hoạt
động ở cấp cơ sở. Do là một quận lưu trú của nhiều nguồn dân cư cho nên, cán
bộ, công chức ở đây thực sự có tinh thần đồn kết, tương trợ lẫn nhau, không
cục bộ địa phương. Điều kiện và môi trường cơng tác thuận lợi, đội ngũ cán bộ
nói trên n tâm cơng tác, gắn bó với cơng việc được phân cơng.
Thứ hai, về phẩm chất chính trị, cán bộ, cơng chức của quận đại đa số có
bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc
đổi mới đất nước, họ cần cù, chịu khó, có khả năng tiếp cận cái mới nhanh, nhiệt
tình, tâm huyết vì sự phát triển của quận. Tuy nhiên, cũng có trường hợp có biểu
hiện suy thối về tư tưởng đạo đức và lối sống, bị xem xét kỷ luật. một số cán bộ
thiếu nhiệt tình và ý thức trách nhiệm, chưa gương mẫu, và nghiêm khắc với bản
11
thân, thiếu tu dưỡng và rèn luyện mình. Có những đồng chí lo vun vén lợi quyền
cho cá nhân, gia đình, đơn vị mình hơn là chăm lo việc tập thể, việc cơ quan,
việc dân, chỉ lo đời sống vật chất, coi nhẹ đời sống tinh thần, chỉ lo trước mắt
không quan tâm đến những vấn đề cơ bản lâu dài, cịn quan liêu, sống xa cách
dân, khơng sát cơ sở. Cũng phải kể đến tình trạng phổ biến là cán bộ có tư tưởng
lựa chọn vị trí cơng tác, khơng muốn làm việc ở khối cơ quan Đảng, đồn thể
mà muốn chuyển sang công tác ở khối quản lý Nhà nước để vừa có chức, có
quyền, vừa có lợi ích cá nhân.
Về trình độ, đội ngũ này được đào tạo cơ bản, có trình độ kiến thức
chun mơn nghiệp vụ từ đại học trở lên. Ví dụ, trong tổng số 248 cán bộ, cơng
chức cấp quận, chưa tính đến đối tượng nhân viên, người lao động tại các cơ
quan cấp quận và cán bộ, cơng chức cấp phường, có 85,1% người có trình độ
cao đẳng - đại học trở lên. Bên cạnh đó, đối tượng này được quan tâm trang bị
thêm nhiều kiến thức tin học, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, kiến thức về
quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, một bộ phận còn thiếu và yếu về trình độ
ngoại ngữ, trình độ tin học để tiếp cận với kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ ba, trong trong điều kiện thành phố và đặc biệt là quận đang phát
triển năng động, tốc độ phát triển đô thị đã và đang diễn ra nhanh, đội ngũ cán
bộ quận đã tỏ ra khá năng động, ln tìm tịi, sáng tạo, có ý thức phấn đấu vươn
lên nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
quận. Tuy nhiên, cũng còn một bộ phận do có q trình gắn bó và cơng tác lâu
dài tại quận có tư tưởng “cơng thần”, “trâu già khơng sợ dao phay”, có sự trì trệ
trong nhận thức và tiếp thu với cái mới, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của
công việc mới.
Thứ tư, cơ cấu và thành phần xuất thân của đội ngũ cán bộ, công chức quận
tương đối đa dạng, đa số là cán bộ có q trình cơng tác tại thành phố Đà Nẵng, có
sự gắn bó với quận Thanh Khê. Tuy nhiên, có sự chênh lệch và mất cân đối lớn về
độ tuổi. Trong tổng số 248 cán bộ, công chức của tồn quận, xét về độ tuổi, có
54,1% cán bộ, cơng chức có độ tuổi dưới 40, 19,4% có độ tuổi từ 41 đến 50 và
26,6% có độ tuổi trên 50 [4]. Như vậy, cán bộ, cơng chức có độ tuổi dưới 40 chiếm
tỷ lệ áp đảo song độ tuổi kế cận cho đội ngũ cán bộ, chủ chốt hiện nay lại khá thấp.
Chính vì vậy, trong giai đoạn 2016-2020, cơng tác tạo nguồn kế thừa của đội ngũ
cán bộ, công chức chủ chốt của quận sẽ gặp nhiều khó khăn.
Những đặc điểm cơ bản trên đã đặt ra những yêu cầu cấp bách cho Ban
Chấp hành Đảng bộ quận thực hiện các biện pháp có tính khả thi để tạo nguồn
12
cán bộ, cơng chức vững vàng về chính trị, trong sạch về đạo đức lối sống, có tư
duy tốt, có năng lực, trở thành thành lực lượng kế cận xứng đáng, và đáp ứng
đúng được yêu cầu phát triển quận trong giai đoạn tới đây.
2.1.2. Số lượng, cơ cấu và chức danh cán bộ lãnh đạo
Đội ngũ cán bộ, công chức này gồm những cán bộ lãnh đạo hiện nay đang
công tác tại các cơ quan tham mưu của Quận ủy, Ủy ban nhân dân quận, các
đảng ủy phường, xã, các đảng ủy trực thuộc Quận ủy, các phòng ban của quận,
Mặt trận tổ quốc Việt Nam quận và các tổ chức chính trị - xã hội cấp quận và lực
lượng vũ trang đóng trên địa bàn quận.
TT KHỐI
Người
I.
Khối Đảng
22
1.
Bí thư Quận uỷ
1
2.
Phó Bí thư Thường trực Quận uỷ
1
3.
Trưởng các cơ quan tham mưu, giúp việc
10
4.
Phó các cơ quan tham mưu, giúp việc
10
II.
Khối chính quyền
48
5.
Chủ tịch UBND quận
1
6.
Phó Chủ tịch UBND quận
3
7.
Trưởng phịng và tương đương
16
8.
Phó Trưởng phịng và tương đương
28
III. Mặt trận, đồn thể
16
9.
Chủ tịch UBMTTQVN quận
1
10. Phó Chủ tịch UBMTTQVN quận
2
11.
Trưởng các đồn thể quận
5
12. Phó các đồn thể quận
8
IV.
PHƯỜNG
54
1.
Bí thư Đảng uỷ phường
10
2.
Phó Bí thư Đảng uỷ phường
14
3.
PBT, Chủ tịch UBND phường
10
4.
Phó Chủ tịch UBND phường
20
TỔNG CỘNG
140
Đội ngũ cán bộ, cơng chức chủ chốt có trách nhiệm thực hiện tốt chức
trách và nhiệm vụ là: lãnh đạo các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể chính trị - xã hội của quận thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
pháp luật của nhà nước và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ thành phố Đà
Nẵng thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế xã hội, an ninh, quốc phòng; xây dựng đảng và hệ thống chính trị trên lĩnh
vực được phân cơng phụ trách.
13
2.1.3. Về đội ngũ cán bộ
2.1.3.1. Ở cấp quận
Tổng số cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hiện nay là 321
người. Trong đó, biên chế: 188 người; hợp đồng có thỏa thuận: 03 người; sinh
viên khá, giỏi: 06 người; hợp đồng lao động của quận: 97 người; cán bộ Đề án
89 (Đề án "Tạo nguồn cán bộ cho chức danh Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân phường, xã trên địa bàn thành phố Đà Nẵng"): 21 người; các đơn vị tự
hợp đồng: 06 người.
- Về tỷ lệ cán bộ nữ: tổng số cán bộ là nữ 107 người, tỷ lệ 33%, trong đó,
giữ chức danh lãnh đạo, quản lý là 18/79 người (tỷ lệ 22,8%)
- Về độ tuổi cán bộ: dưới 30 tuổi: 95 người (tỷ lệ 29,1%); từ 30-50 tuổi:
162 người (tỷ lệ 50,8%); trên 50 tuổi: 64 người (tỷ lệ 20,1%)
- Về trình độ chun mơn, nghiệp vụ: sau đại học: 11 người (tỷ lệ 3,4%); đại
học: 195 người (tỷ lệ 60,7%), trong đó đại học chính quy: 76 người (tỷ lệ 23,7%);
cao đẳng: 07 người (tỷ lệ 2,2%); trung cấp và tương đương: 24 người (tỷ lệ 7,5%);
sơ cấp: 45 người (tỷ lệ 14,1%); chưa qua đào tạo: 39 người (tỷ lệ 12,2%)
Đối với chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt 68/79 người (tỷ lệ 86,1%) có
trình độ đại học trở lên.
Nhìn chung, số cán bộ có trình độ đại học trở lên chiếm tỷ lệ khá: 64%.
Tỷ lệ cán bộ, cơng chức, viên chức có trình độ sơ cấp và chưa qua đào tạo số
lượng còn nhiều, chủ yếu là nhân viên bảo vệ, tạp vụ, lực lượng thanh niên xung
kích, ...
- Về trình độ lý luận chính trị: Cử nhân, cao cấp: 54 người (tỷ lệ 16,9%);
trung cấp và tương đương: 58 người (tỷ lệ 18,2%). Trong đó số cán bộ lãnh đạo
chủ chốt có trình độ cao cấp là 44/79 (tỷ lệ 55,7%), trung cấp và tương đương là
28/79 (tỷ lệ 35,4%)
- Về trình độ quản lý nhà nước: 141/321 người (tỷ lệ 43,9%) đã qua đào
tạo, trong đó cán bộ lãnh đạo quản lý: 64/79 người (tỷ lệ: 81%)
- Về trình độ ngoại ngữ, tin học: ngoại ngữ: 205/321 người (tỷ lệ 63,9%);
tin học 211/321 người (tỷ lệ 65,7%)
Số cán bộ chưa qua đào tạo ngoại ngữ, tin học đa số là nhân viên hợp
đồng, tạp vụ, lực lượng xung kích và một số ít là cán bộ lớn tuổi.
2.1.3.2. Ở cấp phường
14
Tổng số cán bộ của 10 phường là: 400 người, trong đó biên chế: 192
người, người hoạt động khơng chun trách: 205 người. Ngồi ra cịn có sinh
viên theo chính sách thu hút cán bộ là 38 người và cán bộ diện Đề án 89 (được
tính theo biên chế sự nghiệp quận nhưng đang công tác tại phường) là 21 người.
Về tỷ lệ cán bộ nữ: tổng số cán bộ nữ là 156 người, tỷ lệ 39%, trong đó,
giữ chức danh lãnh đạo, quản lý là: 14/54 người, tỷ lệ 25,9%.
Về độ tuổi cán bộ: dưới 30 tuổi: 93 người (23%); từ 30-50 tuổi: 222 người
(55,5%); trên 50 tuổi: 85 người (21,5%). Trong đó, số cán bộ trẻ dưới 35 tuổi
giữ chức danh lãnh đạo, quản lý là 10/54 người (tỷ lệ 18,5%).
Về trình độ chun mơn, nghiệp vụ: đại học trở lên: 176 người (tỷ lệ
44%), trong đó sau đại học: 02 người, đại học chính quy: 33 người; cao đẳng: 23
người (tỷ lệ 5,8 %); trung/sơ cấp: 103 người (tỷ lệ 25,7%), chưa qua đào tạo: 98
người ( tỷ lệ 24,5%)
Về trình độ lý luận chính trị: cử nhân, cao cấp: 10 người (tỷ lệ 2,5%);
trung cấp và tương đương: 120 người (tỷ lệ 30%); chưa qua đào tạo 270 người
(tỷ lệ 67,5%). Trong đó, cán bộ lãnh đạo chủ chốt phường có trình độ cao cấp là
05/51 (tỷ lệ 9,8%), trung cấp và tương đương là 37/51 (tỷ lệ 72,5%).
2.1.4. Công tác cán bộ
2.1.4.1. Công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ
Công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ cơ bản đảm bảo nguyên tắc, đúng
quy trình, công khai, dân chủ; chất lượng cán bộ quy hoạch ở các cấp, các ngành
được nâng lên, số lượng và cơ cấu hợp lý; quy hoạch cho từng chức danh được
tăng lên nhằm từng bước khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ. Trong quy
hoạch, có sự quan tâm đúng mức đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ được đào tạo cơ
bản và có triển vọng phát triển.
Kết quả quy hoạch các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt phường,
nhiệm kỳ 2015-2020: 152 lượt đồng chí, trong đó có 66 lượt nữ (tỷ lệ 43,4%);
độ tuổi 30 trở xuống: 07 lượt đồng chí (tỷ lệ 4,6%); đại học, sau đại học: 151
lượt đồng chí (tỷ lệ 99,3 %); cử nhân, cao cấp chính trị: 10 lượt đồng chí (tỷ lệ
6,5%), trung cấp: 107 lượt đồng chí (tỷ lệ 70,4%).
2.1.4.2. Công tác tuyển dụng
Công tác tuyển dụng được tiến hành thường xuyên theo yêu cầu nhiệm vụ
của từng cơ quan, đơn vị. Đối với mỗi vị trí cơng tác, đều chú trọng tuyển chọn
người phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo, năng lực hồn thành nhiệm
15
vụ và phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức theo tiêu chí, tiêu
chuẩn cán bộ của Trung ương và Thành ủy Đà Nẵng.
Trong 05 năm gần đây, quận đã tuyển dụng 48 cán bộ, công chức và
người lao động, trong đó: sau đại học: 01 người; đại học: 35 người (27 người tốt
nghiệp hệ chính quy); cao đằng: 03 người; trung cấp: 07 người; sơ cấp: 01
người; chưa qua đào tạo: 01 người.
2.1.4.3. Công tác bổ nhiệm, điều động, luân chuyển
Công tác bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ nhìn chung được thực
hiện theo quy trình, về cơ bản đảm bảo ổn định bộ máy và phát huy được trình
độ, năng lực sở trường của cán bộ. Từ năm 2008 đến nay đã có 93 lượt cán bộ
được bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo chủ chốt ở quận và phường; 91 lượt
cán bộ được điều động, luân chuyển, trong đó điều động, luân chuyển giữa các
cơ quan thuộc quận là 45 đồng chí, từ quận về phường là 08 đồng chí, từ
phường về quận là 21 đồng chí, từ phường qua phường là 17 đồng chí.
2.1.4.4. Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng
Trên cơ sở quy hoạch, hàng năm, Ban Thường vụ Quận uỷ xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở từng cấp, từng ngành. Mỗi năm có khoảng
trên 100 lượt cán bộ được cử tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó chủ
yếu được cử đi học các lớp lý luận chính trị, bồi dưỡng quản lý Nhà nước, đại
học, cao học, các khóa đào tạo ngắn hạn.
Ngồi việc cử cán bộ đi đào tạo theo kế hoạch, cịn động viên, khuyến
khích, tạo điều kiện cả về thời gian và kinh phí cho cán bộ đi học để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao. Cơ bản đến nay đã đạt được mục tiêu đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ đề ra trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
Trung ương 3 (khoá VIII) của Đảng bộ quận Thanh Khê.
2.1.4.5. Công tác quản lý cán bộ
Ban Thường vụ Quận ủy ban hành Quy chế phân cấp quản lý cán bộ để
quản lý cán bộ theo thẩm quyền và phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy cơ
sở. Công tác quản lý cán bộ từ quận đến cơ sở cơ bản được thực hiện theo các
nội dung quy định trong phạm vi được phân cấp, bao gồm cơng tác tuyển chọn,
bố trí, phân cơng, điều động, luân chuyển; đánh giá; quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng; bổ nhiệm, miễn nhiệm; khen thưởng, kỷ luật; thực hiện chế độ, chính
sách; kiểm tra, giám sát cơng tác cán bộ, giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ.
2.1.4.6. Thực hiện chế độ chính sách cán bộ
16
Ban Thường vụ Quận ủy luôn quan tâm thực hiện đầy đủ chế độ chính
sách cho cán bộ, cơng chức, viên chức theo quy định của Trung ương, thành
phố. Ngoài ra, đã chỉ đạo Uỷ ban nhân dân quận thực hiện chính sách hỗ trợ đối
với cán bộ cơng chức sau khi có bằng Thạc sĩ; cán bộ cơng chức nghỉ hưu trước
tuổi thuộc đối tượng tinh giản biên chế; cán bộ không đủ tuổi tái cử cấp ủy
nhiệm kỳ 2010-2015, tự nguyện nghỉ hưu trước tuổi.
Riêng đối với cán bộ phường, ngồi việc giải quyết đầy đủ các chính sách
của Trung ương, thành phố, Ban Thường vụ Quận uỷ cịn có một số chủ trương,
chính sách đối với cán bộ phường nghỉ chế độ thôi việc sau khi sắp xếp lại theo
Quyết định 6291/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố.
Tóm lại, sau hơn 18 năm thành lập, đội ngũ cán bộ, cơng chức quận đã
có những bước phát triển và trưởng thành về nhiều mặt, đảm bảo số lượng và
chất lượng. Trình độ chun mơn nghiệp vụ, lý luận chính trị ngày càng được
nâng cao, đa số cán bộ được phân cơng cơng việc phù hợp với trình độ và năng
lực chuyên môn, sở trường công tác. Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện
đúng quy trình, quan tâm quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ trẻ. Công tác điều động,
luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ được thực hiện thường xuyên, kịp thời, cơ bản
đáp ứng yêu cầu của từng địa phương, đơn vị, tạo điều kiện để cán bộ rèn luyện,
bồi dưỡng thử thách, nâng cao năng lực thực tiễn. Đội ngũ cán bộ, công chức có
bản lĩnh chính trị vững vàng, đồn kết thống nhất, nêu cao tinh thần trách nhiệm,
phấn đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong quá trình xây dựng và phát triển.
Những thành tựu đạt được trong công tác cán bộ trên đây bắt nguồn từ
những nguyên nhân:
Một là, những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn của công
tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ đề ra trong Nghị quyết Trung ương 3
khóa VIII là đúng đắn và kịp thời, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới và
nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quận Thanh Khê.
Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng từ quận đến phường đã ban hành nhiều
chủ trương, biện pháp, chương trình hành động, kế hoạch cụ thể để triển khai
thực hiện Chiến lược cán bộ.
Ba là, việc thực hiện Chiến lược cán bộ được tiến hành đồng thời với quá
trình đổi mới tổ chức bộ máy của của cả hệ thống chính trị
17
Bốn là, các cấp ủy, tổ chức đảng và đông đảo cán bộ, đảng viên có nhận
thức đúng đắn về ý nghĩa, tầm quan trọng của Chiến lược cán bộ và tính cấp
thiết của việc xây dựng đội ngũ cán bộ của quận Thanh Khê trong thời kỳ mới.
2.2. HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN
2.2.1. Những tồn tại, hạn chế trong đội ngũ cán bộ, công chức chủ
chốt của quận
Cơng tác cán bộ vẫn cịn hẫng hụt, chắp vá, trong nhiều nhiệm kỳ; cơng
tác quy hoạch chưa có tính chiến lược, còn bị động ở cả cấp quận và phường,
nhất là cấp phường, số đông chưa qua đào tạo, lớn tuổi nên đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý dự nguồn, kế cận cho các nhiệm kỳ rất hạn chế. Chưa thực hiện
đồng bộ các khâu đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm
Việc điều động, luân chuyển, bố trí cán bộ, nhất là đối với cán bộ trẻ, cán
bộ có đủ tiêu chuẩn cịn nhiều khó khăn, bị động, trong một số trường hợp cịn
mang tính tình thế, khơng theo quy hoạch, chưa phù hợp với năng lực sở trường,
nguyện vọng của cán bộ đã ảnh hưởng đến chất lượng cơng tác, ý chí phấn đấu
của cán bộ; có trường hợp chủ quan, nóng vội trong điều động cán bộ trẻ, được
đào tạo chính quy về cơng tác và phân công giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, được
cơ cấu vào cấp ủy, cử đi đào tạo, nhưng bản thân chưa chịu khó học hỏi, rèn
luyện tu dưỡng, phấn đấu, không phát huy được tác dụng, đảm đương được
nhiệm vụ phân cơng buộc phải thun chuyển cơng tác; có trường hợp công tác
ở cơ sở quá lâu nhưng không được điều động, bố trí cơng tác khác để giải quyết
cơng tác tư tưởng và phát huy năng lực sở trường của cán bộ.
Đối với cán bộ trẻ đào tạo cơ bản, được trưởng thành tại địa phương và số
cán bộ điều động, luân chuyển từ quận về công tác tại các phường, phần lớn các
đồng chí tiếp cận nhanh với công việc, phát huy được năng lực sở trường, song
do thiếu kinh nghiệm thực tiễn, chưa nỗ lực, phấn đấu để ngang tầm với cương
vị lãnh đạo, vì vậy có một số đồng chí biểu hiện nóng vội, giải quyết cơng việc
theo cảm tính, chưa có sự phối kết hợp; chưa thẳng thắn, kiên quyết trong đấu
tranh tự phê bình và phê bình; chưa thể hiện được vai trị trung tâm trong lãnh
đạo, điều hành. Đối với một số đồng chí trưởng thành tại chỗ, do năng lực hạn
chế, chưa chịu khó nghiên cứu, học tập, cịn nể nang, ngại va chạm, chưa mạnh
dạn đấu tranh phê bình, tự phê bình nên ảnh hưởng đến vai trị lãnh đạo trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
18