Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI THÔNG QUA VIỆC PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ ĐẠI BIỂU CỦA TRIẾT HỌC Ở HY LẠP TRONG THỜI KỲ CỔ ĐẠI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.06 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
THƠNG QUA VIỆC PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ ĐẠI BIỂU CỦA TRIẾT
HỌC Ở HY LẠP TRONG THỜI KỲ CỔ ĐẠI.

Giảng Viên: TS. BÙI XUÂN THANH
Họ tên học viên: LÂM VĂN DƯỠNG
Lớp: Triết Học_Tối T3_ A308_22D1PHI61000409
MSHV: 52210207480

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2022


Mục lục

1. Mở đề..............................................................................................................................3
2. Nội dung chính: Đặc Điểm Và Các Trường Phái Triết Học Cổ Đại Hy Lạp...................3
2.1.

Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại.......................................................................3

2.2.

Các Trường Phái Triết Học Cổ Đại Hy Lạp..............................................................4

2.2.1.

Trường phái Milê...............................................................................................4



2.2.2.

Trường phái Hêraclít..........................................................................................6

2.2.3.

Trường phái đa nguyên......................................................................................6

2.2.4.

Trường phái nguyên tử luận...............................................................................7

2.2.5.

Trường phái Pytago............................................................................................9

2.2.6.

Trường phái Êlê................................................................................................10

2.2.7.

Trường phái duy tâm khách quan.....................................................................10

2.2.8.

Triết học nhị nguyên của Arixtốt......................................................................12

3. Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại.....................................................16

3.1. Ưu điểm.....................................................................................................................16
3.2. Hạn chế...................................................................................................................... 16
4. Kết luận......................................................................................................................... 16


1

1. Mở đề
Triết học Hy Lạp cổ đại là một thời kì phát triển rực rỡ của triết học nhân loại với
nhiều thành tựu lớn. Những thành tựu thời kì này có thể nói là hết sức to lớn nếu
so với nền khoa học cụ thể. Nổi bật trong số các giá trị đạt được trong thời kì này
có thể nói là “thuyết nguyên tử” và phép biện chứng. Với những giá trị này triết
học Hy Lạp cổ đại đã trở thành một nền tảng để phát triển triết học sau này. Cụ
thể thấy hầu hết các trường phái triết học hiện đại đều có mầm mống của triết học
Hy Lạp cổ đại để lại. Triết học Hy Lạp cổ đại nảy sinh những học thuyết, những
tiên đoán tuyệt vời. Đó là lý do tơi chọn đề tài: “Những Đặc Điểm Cơ Bản Của
Triết Học Hy Lạp Cổ Đại Thông Qua Việc Phân Tích, Đánh Giá Một Số Đại
Biểu Của Triết Học Ở Hy Lạp Trong Thời Kỳ Cổ Đại”
2. Nội dung chính: Đặc Điểm Và Các Trường Phái Triết Học Cổ Đại Hy Lạp
2.1.

Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Nhìn chung triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc trưng sau:
- Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh
vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh
thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật
- duy tâm, biện chứng - siêu hình, vơ thần - hữu thần.
- Đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác, hoang sơ.
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô

thống trị.
- Coi trọng vấn đề về con người.
- Triết học cổ Hy Lạp mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Tách ra
khỏi yếu tố thần linh thống trị con người từ xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp
là triết gia Socrate. Ông đã đề cập đến thân phận con người. Đa phần các triết gia
có xu hướng hướng ngoại thì Socrate quay về hướng nội, ơng đã đề cập đến đạo
đức con người.


2

2.2. Các Trường Phái Triết Học Cổ Đại Hy Lạp
2.2.1. Trường phái Milê
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Talet, Anaximăngđrơ và
Anaximen. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng do
sự hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và
làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu
tranh của các mặt đối lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất
phát từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời
nguyên vật chất duy nhất.
Trường phái triết học Milê là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie,
một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á,
nằm giữ huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm
kinh tế, văn hóa của thời kỳ chiếm hữu nơ lệ. Nơi đây được xem là quê hương của
nhiều trường phái triết học của triết gia nổi tiếng.
Talet là một nhà triết học duy vật. thành tựu nổi bật của ông là quan niệm triết
học duy vật. Ông cho rằng là nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật
trong thế giới. Mọi vật đèu sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại trở thành nước.
Theo Talet vật chất (nước ) tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra đều biến
đổi khơng ngừng, sinh ra và chết đi. toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất

mà nền tảng là nước. Quan niệm triết học của ơng giới thiệu thế giới tuy cịn thơ
sơ mộc mạc, nhưng đã có ý nghĩa vơ thần, chống lại thế giới quan tôn giáo đương
thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát. Song nhà khoa học đầu tiên
này chưa thể thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên
thuỷ, điều này thể hiện ở chỗ; ông cho rằng thế giớ đầy dãy những vị thần linh và
khi không thể giải thích được hiện tượng từ túnh của nam châm thì ông khẳng
định rằng nó là linh hồn.
Anaximăngđrơ là nhà triết học duy vật là bạn của Talet. Khác với Talet khi giải
quyết vấn đề bản thể luận triết học, ông cho rằng, cơ sở của sự hình thành vạn vật
trong vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại một cách
vĩnh viễn: đó là Apeiron. Các triết gia thời cổ đại đã có những giải thích khác


3

nhau về Apeiron: đó là vật mang tính vật chất; là hỗn hợp của các yếu tố như đất,
nước, lửa, khơng khí; là cái trung gian giữa lửa và khơng khí; là cái khơng xác
định (Arixtơt). Apeirơn khơng chỉ là nguồn gốc sinh ra mọi vật mà còn là cơ sở
vận động của vạn vật. Apeirôn là nguồn gốc sinh ra mọi cái, đồng thời là nguồn
gốc và sự thống nhất của các sự vật đối lập nhau: nóng-lạnh, sinh ra- chết đi,...
toàn bộ vũ trụ tồn tại như một vịng tuần hồn biến đổi khơng ngừng. So với
Talet, Anaximăngđrơ có một bước phát triển xa hơn trong sự khái quát trừu tượng
về phạm trù vật chất. ở Talet, vật chất đầu tiên là nước mang tính ít trừu tượng
hơn so với ở Anaximăngđrơ là Apeirôn - một chất vô định hình mà người ta
khơng thể trực quan thấy được. Lần đầu tiên trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, vật chất
khơng bị đồng nhất với vật cụ thể. Đó là bước tiến mới trong tư duy trừu tượng
của người Hy Lạp. Cũng như Talet, chịu ảnh hưởng các quan niệm thần thoại và
tôn giáo, khẳng định điểm tận cùng giới hạn của thế giới. mọi sinh vật theo ông
đèu sinh ra từ Apeirơn và có lỗi lầm với nhau những lỗi lầm của chúng phá vỡ các
chuẩn mực và giới hạn của chúng. Mọi cái cuối cùng đều trở thành Apeirơn.theo

nghĩa này, Apeirơn trở thành một cái ít nhiều mang tính thần bí.
Anaximen là học trị của Anaximăngđrơ, đứng trên quan điểm duy vật chất phác,
ông nghiên cứu thiên văn học và triết học. Ông cho rằng, mặt trời, mặt trăng và
các vì tinh tú đều từ trái đát mà ra, do trái đất quay nhanh mà bắn ra xa, điều này
đến nay đã bị bác bỏ nhưng ở thời ấy có giá trị lớn trong việc đấu tranh chống lại
những quan điểm duy tâm, tôn giáo về vũ trụ về cuộc sống xã hội.Ơng cũng có
những tiên đốn: trái đất có hình cái trống, tự xoay quanh mình nó, mưa đá là
kết quả đóng thành băng của các tia nước trên cao, khi băng bị khơng khí làm tan
ra thì thành tuyết. Theo ơng, khơng khí là nguồn gốc là bản chất của mọi cái là
bản nguyên của thế giới, vì nó giữ vai trị quan trọng trong đời sống của tự nhiên
và con người. ngay cả các vị thần cũng được sinh ra từ khơng khí. ơng cho rằng,
hơi thở chính là khơng khí, người ta khơng thể sống nếu không thở, tâm hồn con
người rung động theo hơi thở mạnh, yếu. Khơng khí là cái vơ định hình, mà bản
thân Apeirơn cũng chỉ là một thuộc tính của khơng khí. khơng khí sinh ra mọi vật


4

bằng hai cách lỗng ra và cơ đặc lại: khơng khí lỗng thành lửa; đặc thành gió,
mây; đặc nữa thành nước; đặc nữa thành đất, đá.
2.2.2. Trường phái Hêraclít
Ơng sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc chủ nơ ở thành phố Ephetdơ.
Ơng sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng
chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa. Vũ trụ không
phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã” và
“đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn
lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình.
Ơng xem thế giới “vừa tồn tại vừa khơng tồn tại”, “khơng ai tắm hai lần trong
một dịng sơng”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính
hài hịa vừa xung đột”.

Như vậy, Hêraclit là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu.
Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Hêraclit vào kho tàng
tư tưởng của nhân loại.
2.2.3. Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagoras ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua
quan niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milet - trường phái
Héraclite xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa
dạng. Empedocles thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước,
lửa và khơng khí. Anaxagorax cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là
“những hạt giống”. Anaxagorax xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái”.
Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng cịn mang tính sơ khai, nghĩa là cịn hạn chế.
Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết
này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.


5

2.2.4. Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện
trong trường phái nguyên tử luận. Lơxíp là người sáng lập và Démocrite là người
kế thừa và phát triển.
Lơxíp là người đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại nêu lên học thuyết nguyên tử. Các tác
phẩm trình bày học thuyết cảu ông không được lưu giữ, người ta biết đến qua
người học trị Đêmơrít hoặc những trích dẫn ở các tác phẩm của các nhà triết học
khác. Tán thành quan niệm về tồn tại của Pácmênít nheng khác với Pácmênít ở
chỗ, ơng khơng phủ nhận cái khơng- tồn tại. theo ơng, cái khơng -tồn tại chính là
khoảng chân khơng -“khơng gian rỗng” nhờ có khơng gian rỗng này mà mà các
nguyên tử và các vật thể có thể vận động, kết hợp và phân tán. ông hiểu sự vận

động là sự thay đổi vị trí trong khơng gian. Lơxíp cho rằng, mọi sự vật được cấu
thành từ những nguyên tử. đó là những hạt vật chất tuyệt đối khơng thể phân chia
được, nó vơ hạn về số lượng và vơ hạn về hình thức: nó vơ cùng bé, khơng thể
thẩm thấu được, khơng có chất lượng. Các ngun tử chỉ khác nhau về kích thước
và hình thức, sở dĩ có những sự vật khác nhau là vì có những hình thức sắp xếp
khác nhau của các nguyên tử. Lơxíp đã đè cập đén tính nhân quả tất yếu trên quan
điểm luận duy vật, chống lại mục đích luận của chủ nghĩa duy tâm. ông khẳng
định: “không mọt sự vật nào phát sinh một cách vô cớ mà tất cả đều phát sinh trên
một căn cứ nào đấy, và do tính tất nhiên”.
Đêmơcrit là học trị giỏi của Lơxíp. ông đã đén Aicập, Babilon, Ânđộ tìm hiểu và
đã tiếp xúc với những tri thức triết học xuất hiện ở phương đông cổ đại. ông hiểu
xâu rộng nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức học, mỹ học, ngôn ngữ học, kỹ thuật,
âm nhạc. Ơng cho rằng, mỗi ngun tử có một hình thức nhất định, ngun tử
khơng những vơ hạn về số lượng mà cịn vơ hạn về hình thức; mọi sự vật đều
được cấu thành từ các nguyên tử, sự kết hợp đó khơng phải lad tuỳ tiện, ngẫu
nhiên mà kết hợp theo quy luật trật tự, cũng như bảg chữ cái, từ đó thực hiện sự
kết hợp theo thứ tự nhất định tạo thành từ. Nguyên tử cũng khác nhau về tư thế,
giống như tư thế của các chữ cái.sự vật khác nhau là do sự vật được cấu tạo từ
những hình thức khác nhau; sự sắp xếp theo trật tự khác nhau; và được xoay đặt


6

theo những tư thế khác nhau. Mọi sự biến đổi của sinh vật thực chất là sự bién đổi
trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng, còn bản thân nguuyên tử - hạt
vật chất nhỏ nhất thì khơng thay đổi gì cả. Ở đây một mặt, Đêmơcrit tán thành lý
thuyết “tồn tại” duy nhất bất biến của Patmênit, coi nguyên tử là bất biến; mặt
khác ông kế thừa quan điểm của Hêraclit cho rằng mọi sự vật khơng ngừng biến
đổi. Đêmơcrít đồng quan điểm với Lơxíp - người thầy của mình và phát triển học
thuyết nguyên tử lên một trình độ mới. ơng cho rằng, ngun tử và khoảng không

là cơ sở cấu tạo nên mọi vật; ngun tử là hạt vật chất cực nhỏ, khơng nhìn thấy,
không phân chia được, không mùi vị, không âm thanh, khơng màu sắc khơng có
sự khác nhau về chất mà chỉ có sự khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế.
Đêmôcrit và các nhà nguyên tử luận khẳng định sự tồn tại của cái không - tồn tại.
theo nhận xét của Arixtơt thậm chí cịn cho rằng “cái tồn tại có thực khơng hơn gì
cái khơng tồn tại, bởi vì sự vật tồn tại khơng mảy may hơn gì khoảng khơng và cả
hai đều có ngun nhân vật chất”. Cái khơng - tồn tại chính là khoảng khơng
trống rỗng, nó khơng chịu ảnh hưởng gì các sự vật (tức cái tồn tại) trong nó cả.
Do các vận động đó các ngun tử có cùng một kích thước, cùng một hình thức
kết hợp với nhau tạo thành: lửa, đát, nước, khơng khí. Trong thế giới mọi sự vật
đều ln luôn quy tụ về trung tâm do trọng lượng của chúng. Đemôcrit khẳng
định: vũ trụ vô tận và vĩnh viễn, có vơ số thề giới vĩnh viễn phát sinh phát triển và
bị tiêu diệt.
+ Quan niệm về sự vận động: Quan điểm của Đemôcrit về vận động, gắn liền với
vật chất là một phốn đốn thiên tài có giá trị đặc biệ. Theo ông vận động của
nguyên tử là vĩnh viễn, và ơng đã cố gắng giải thích ngun nhân vận động của
nguyên tử ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó, cịn khoảng trống chân
khơng là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên, Đêmơcrit đã không lý giải được
nguồn gốc của sự vận động.
+ Quan điểm về tất nhiên và ngẫu nhiên: Dựa trên học thuyết nguyên tử,
Đêmôcrit đã đi tới quan điểm quyết định luận. đó là sự nhận thức sự ràng buộc
theo luật nhân quả, tính tất nhiên và tính khác quan của các hiện tượng tự nhiên.
đay là quan điểm có giá trị của ơng đóng góp cho nền triết học Hy Lạp cổ đại.


7

theo Arixtôt: “Đêmôcrit”sau khi đã gạt bỏ [cái nguyên nhân] có tính mục đích,
bèn đem tất cả những mà tự nhiên sử dụng về tính tất yếu.
+ Nhận thức luận:

Đêmơcrit cho rằng trên thực tế chỉ tồn tạ các sinh vật khác quan do nguyên tử tạo
ra, còn tất cả những ccái như mùi vị, màu sắc, âm thanh.. chỉ tồn tại trong cảm
nhận của con người, là kết quả tác động của các nguyên tử lên các giác quan của
chúng ta.
2.2.5. Trường phái Pytago
Pitago sinh tại Xamốt, thuộc vùng Iôni, sau di cư sang Cơrôtôn, miền nam Ý. Là
nhà tốn học, Pitago đưa ra nhiều định lý có giá trị. Trong triết học Pitago là nhà
duy tâm tôn giáo, xây dựng những tư tưởng huyền bí về ý nghĩa cuộc sống và bản
nguyên vũ trụ, mang đậm dấu s61n huyền học phương Đơng. Bản tính con người,
theo Pitago, có tính chất nhị nguyên - thể xác khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao
cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái nhơ bẩn, những điều ác trong
lịng, hịa mình vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luân hồi. Triết lý, vì vậy, là hành
trình của sự giải thoát.
Trong tư tưởng của Pitago những con số chiếm vị trí đặc biệt. Triết lý về con số ở
Pitago bắt đầu bằng mệnh đề “cái gì đo được thì tồn tại, cái gì tồn tại thì đo
được”, vì thế những con số định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm chí là bản
chất và chuẩn mực của chúng. Triết lý là nhận thức quy luật vận động của vũ trụ
thông qua những con số. Khi ta nói “linh hồn hịa điệu”, thì đó chính là quan hệ
hòa điệu của các con số. Pitago dùng tương quan chẵn - lẽ, bộ mười và bộ bốn để
giải thích tính thống nhất và đa dạng của tự nhiên, xã hội, con người, trong đó số
1 là đơn vị cơ sở, sau số 1 (lẽ) là số đối lập - số 2 (chẵn); lẽ là cái hữu hạn, chẵn là
cái vô hạn. Số 1 là con số năng động nhất, Bản nguyên hoạt động, chi phối tất cả,
nhưng con số kỳ diệu nhất là số 10, bao gồm 10 mối quan hệ của các mặt đối lập:
hữu hạn - vô hạn, chẵn - lẽ, đơn - đa, phải - trái, nam - nữ, động -tĩnh, thẳng cong, sáng - tối, tốt - xấu, tứ giác - đa diện. Trong sự liệt kê đơn giản, ngây thơ,
ngẫu hứng và không mấy sắc sảo này đã thể hiện những phạm trù đầu tiên của tư
tưởng, sự nỗ lực lý giải thực tại của Pitago - ơng đã nâng con số lên trình độ khái


8


niệm, hiểu nó như tồn tại tự thân “trong nó, cho nó và cho cái khác” (Hêghen). Từ
các con số hình thành nên những vật thể, những hành chất (nước, khơng khí, lửa)
và tồn thể vũ trụ. Vũ trụ được cấu thành từ 10 thiên hà, tạo nên sự hòa điệu
thiêng liêng. Tuy nhiên không thể đưa lẽ công bằng, tự do về những con số, vì đó
là những khái niệm trừu tượng, khó được cụ thể hóa, hiện thực hóa hồn tồn
trong cuộc sống. Lẽ cơng bằng khơng đo bằng các con số.
Bản tính con người, theo Pitago, có tính chất nhị ngun, trong đó thể xác khả tử,
linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái nhơ
bẩn, những điều ác, hóa thân vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luận hồi. Cách tiếp
cận như thế cho thấy triết lý nhân sinh của Pitago mang đậm dấu ấn của huyền
học phương Đông.
2.2.6. Trường phái Êlê
Pácmênit cho rằng: Tồn tại là bản chất chung của vạn vật. Khơng có gì được sinh
ra từ hư vơ (khơng tồn tại); khơng có gì mất đi mà không để lại dấu vết-tồn tại.
Trong thế giới vạn vật biến đổi nhưng bản thân tồn tại ln bất biến, đồng nhất
với chính nó. Bản chất của tồn tại là bất biến, vĩnh hằng và đơn nhất.
Tư tưởng biện chứng phủ định của Pácmênít và Dênơn đối lập với tư tưởng biện
chứng khẳng định của Hêraclít. Tư tưởng biện chứng của Pácmênít thể hiện ở ba
quan niệm 1) vận động, biến đổi là hư ảo, khơng có không gian rỗng thuần tuý. 2)
tồn tại và tư duy đồng nhất với nhau vừa như là quá trình, vừa như là kết quả. 3)
trong thế giới khơng có sự sinh thành, xuất hiện và diệt vong. Tư tưởng biện
chứng của Dênôn thể hiện ở quan niệm về vạn vật đồng nhất thể và vạn vật bất
biến. Bằng phương pháp chứng lý và nghịch lý, ơng giải thích mối quan hệ giữa
vận động với đứng im; giữa liên tục với gián đoạn; giữa hữu hạn với vô hạn. Các
nghịch lý (aporia) của Dênơn đã khuyến khích các cuộc tranh luận để đi tới chân
lý.
2.2.7. Trường phái duy tâm khách quan
Pla-tôn xuất thân trong một gia đình chủ nơ q tộc ở A-ten. Tên thật của ông là
Aristôclơ. Theo Arixtốt, lúc đầu Platơn là học trị của Cratin (người theo thuyết
tương đối), sau đó là học trị của Xơcrát (nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa).



9

Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật
đương thời. Tư tưởng triết học của Platôn chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy
tâm trong triết học của Pitago và Xơcrát.
Ngồi những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý
thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông
tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.
+ Học thuyết về ý niệm
Như đã nói ở trên, Pla-tôn chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong
triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về
con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xơcrát). Vì vậy ơng
xem nhẹ vai trị của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hố vai trị của nhận thức lý
tính, của khái niệm. Từ đó ơng chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý
niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.
Theo ơng, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất
biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Cịn thế giới các sự vật
cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm, nó là
cái bóng của ý niệm.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platôn cho rằng
ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Cịn sự vật chỉ là
cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
Từ thế giới quan trên đây, Platôn đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh
hồn. Theo ơng, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và khơng
khí, nó chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản
phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi
linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần gian và
nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người thì nó qn hết mọi

q khứ, do đó nhận thức của con người chỉ là sự hồi tưởng lại những gì mà linh
hồn đã có nhưng bị lãng qn.
+ Lý luận về nhận thức


10

Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ bản
của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Platôn cũng
rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí.
Theo ơng, đối tượng của nhận thức khơng phải là các sự vật cảm tính khách quan
bên ngồi, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính khơng phải là nguồn gốc
của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính, được
thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự vật có
thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật khơng bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có thể sụp
đổ, hư nát, khơng cịn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì
khơng mất.
+ Học thuyết về chính trị – xã hội
Để duy trì trật tự xã hội, Platôn cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết,
nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua
chúa xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai
là, nhà nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đơng, đưa đến tội
ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đơng; đó là một nhà nước
tồi tệ.
Platơn nêu lên mơ hình một nhà nước mà ơng cho là lý tưởng, đó là nhà nước
cộng hồ. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải
được duy trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự
tồn tại của nhà nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và
sự phân cơng hài hồ giữa các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia giàu
nghèo, cần xoá bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan

giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở
thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh
này.
2.2.8. Triết học nhị nguyên của Arixtốt
Arixtốt là nhà triết học lớn nhất, bộ óc bách khoa của triết học Hy Lạp cổ đại. ông
sinh ở Stagirơ, năm 17 tuổi đến Aten học ở viện hàn lâm của Platơn, sau đó trở
thành thầy giáo của viện. ông rất yêu người thầy của mình Platôn, nhưng cái mà


11

ơng u nhất chính là chân lý. Vì thế ơng đã bác bỏ nhiều quan điểm của Platôn.
su khi Platôn qua đời ông đã dời bỏ viện hàn lâm. ông đã để lại cho nhân loại
nhiều tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực: lôgic học, triết học, vật lý học, khoa học xã
hội...
+ Quan điểm về đối tượng của triết học:
Arixtot coi giới tự nhiên với những sự vật vô cùng đa dạng là đối tượng của vật lý
học (Phisica - thuyết về giới tự nhiên) đây được coi là “triết học thứ hai”. Nó
nghiên cứu dạng cụ thể của thế giới vật chất. để khám phá bản chất đích thực của
tồn tại nói chung, lý giải cụ thể các vấn đề nguồn gốc, bản chất của thế giới.. thì
cần có triết học thứ nhất tức siêu hình học. Theo cách hiểu của Arixtot, siêu hình
học là một khoa học ít nhiều mang tính thần thánh vì đối tượng nghiên cứu của nó
là những cái thần thánh, trong đó có cả thượng đế.
+ Học thuyết về sự tồn tại:
Arixtốt đã nêu ra lý thuyết về sự tồn tại. ông cho rằng, tồn tại nói chung xuất phát
từ 4 nguyên nhân cơ bản:


Ngun nhân vật chất




Ngun nhân hình dạng



Ngun nhân vận động



Ngun nhân mục đích

Theo ơng, vật chất và hình dạng là cái mà từ đó tạo thành sự vật. Vật chất là “vật
liệu” gia nhập vào thành phần của sự vật từ đó sự vật phát sinh, giống như đồng
đối với những bức tượng, bạc đối với cốc chén. Trong đó hình dạng, là cơ bản
nhất, là thực chất của tồn tại, là bản chất của sự vật, bởi chính nhờ hình dạng mà
các vật chất hiện thực hố thành các sự vật thực tế. Nếu thiếu hình dạng thì vật
chất chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng (khả năng)- ở trạng thái mà ông gọi là không tồn
tại, vo định hình. ví dụ: kiến trúc sư thiết kế nhà cửa và bản thân nghệ thuật kiến
trúc là nguyên nhan vạn động, bản đồ hoạ là hình dạng; vật liệu xây dựng là vật
chất; tồ nhà hình thành là mục đích. ông xem sự phát triển của tự nhiên giống
như hoạt động sản xuất của con người. Quan niệm đó đẫ đưa ơng đến sai lầm cho
rằng, trong tự nhiên, hình dạng (ngun nhân tích cực) là cái có trước vật chất


12

(nguyên nhân bị động). ông quan sát tự nhien phỏng theo hoạt động vật chất của
con người, không thấy được sự khác nhau về chất giữa tự nhiên và sinh hoạt xã
hội. Hơn nữa, quan niệm của ông đã xa vào chủ nghĩa duy tâm là thừa nhận “hình

dạng của tất cả mọi hình dạng” là xuất phát từ thần thánh- là thần thánh; đó là
nguyên nhân tận cùng, là mục đích của tất cả mọi hiện tượng tự nhiên. cuối cùng
với lập trường duy tâm đó, ơng đưa tồn bộ thế giới vào một cuộc vận động có
mục đích.
+ Học thuyết về linh hồn của Arixtốt:
Khi bàn đến linh hồn, Arixtot đứng trên quan điểm duy vật. ông cho rằng, khơng
có linh hồn bất tử, linh hồn khơng thể có trong cơ thể chết, nó chỉ tồn tại trong cơ
thể sống. Linh hồn phụ thuộc vào thể xác. ông nói “khơng htể có linh hồn nếu
khơng có vật chất”; hoặc “linh hồn khơng thể tồn tại, nếu khơng có cơ thể”...linh
hồn không phải là cơ thể mà là cái thuộc về cơ thể, cho nên nó ở trong cơ thể và ở
ngay trong một cơ thể nhất định”. Với con mắt trực quan của người cổ đại, ông
cho rằng linh hồn trú ngụ tại trái tim của con người.
Là một nhà triết học có xu hướng tổng kết và hệ thống hố các tri thức của lồi
người, trong lĩnh vực này ơng cho rằng linh hồn có các loại: linh hồn thực vật có
hoạt động sinh dưỡng và hoạt động sinh sản; linh hồn có cảm giác, có biểu tượng
cảm tính; linh hồn lý tính của con người. Phân loại như vậy chéng tỏ Arixtốt đã
cảm nhận sự khác nhau về trình độ của các loại hình thức phản ánh.
+ Lý luận nhận thức:
Theo ơng, q trình tư duy diễm ra như sau: cơ thể - tác động bên ngoài - cảm
giác - tưởng tượng - tư duy. Mỗi khâu trong quá trình này đèu quan hệ mật thiết
với nhau, khâu sau không thể thiếu khâu trước.
Lý luận nhận thức của Arixtot là một đóng góp và là một bước tiến quan trọng
trong lịch sử triết học.
Khác với Platôn, coi “ý niệm” là đối tượng của nhận thức, Arixtot coi thế giới
khách quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm và của cảm
giác; tự nhiên là tính thứ nhất cịn tri thức là tính thứ hai. Tri thức được lấy từ
cảm giác về những sự vật đơn nhất. ông cũng phê phán nhận thức luận của Platôn


13


là thoát ly cuộc sống và cho rằng, cần phải rút ra những tri thức từ việc nghiên
cứu cuộc sống và tự nhiên; nhiệm vụ của khoa học là phải phát hiện ra cái tất yếu
của tự nhiên và cái tất yếu đó phải trở thành những khái niệm chung. Ông coi cảm
giác là điểm khởi đầu trên con đường hìh thành tư duy và xuất hiện theo một quá
trình sau: cảm giác - biểu tượng - kinh nghiệm - nghệ thuật - khoa học. nhận thức
phải đi từ cảm giác dến khái niệm thơng qua q trình trừu tượng hoá, khái quát
hoá để nhận thức cái chung và nhờ đó mới có thể có được những tri thức khoa
học. Nếu ngưịi ta chỉ nhìn (bằng thị giác) vào một hình tam giác thì khơng thể
tìm ra định lý về tổng các góc trong một tam giác bằng hai góc vng; khơng thể
tìm thấy bản chất của hiện tượng nguyệt thực, nhật thực được. Lý tính giữ vai trị
nhận thức khái quát trừu tượng.
+ Vật lý học:
Vật lý học được coi là triết học thứ hai, được xây dựng trên nền tảng của triết học
thứ nhất. Mọi sự vật trong thế giới chúng ta, theo Arixtốt, đều vận động và phát
triển khơng ngừng. Vì thế, nghiên cứu vận động là điều cần thiết để hiểu thế giới
tự nhiên. chính “sự thiếu hiểu biết về vận động kéo theo sự không hiểu biết về
giới tự nhiên”. coi vận động là sự biến đổi nói chung Arixtot thường nhấn mạnh
rằng “khơng thể có vận động ngồi sự vật”.
Coi tự nhiên là sự thống nhất giữa hình dạng và vật chất, nhưng do sự thiếu triệt
để trong quan niệm của mình dẫn đến việc ơng cho rằng “hình dạng của hình
dạng” như là động cơ đầu tiên. động cơ đầu tiên nằm ngoài thế giới và đống vai
trị tựa như cú hích đầu tiên làm cho mọi vật vận động. ví tồn bộ vũ trụ như một
cơ thể sống nhưng hữu hạn về khơng gian’ vì cịn nhường chỗ cho thượng đế chi
phối mọi quá trình vận động của vật chất; ở đây nhà triết học chỉ thừa nhận cái vô
cùng tận một cách tiềm tàng. dưới con mắt của ông, mọi quá trình vận động trong
thế giới của chúng ta đều là có mục đích nhất định theo sự sắp đặt sẵn.
+ Quan điểm triết học về xã hội của Arixtot:
Về vấn đề nhà nước, ông cho rằng nhà nước là một hình thức giao tiếp cao nhất
của con người. Hình thức giao tiếp có nhiều loại: giao tiếp trong gia đình, trong

hoạt động kinh tế,.. những hình thức giao tiếp đó rất cần sự xuất hiện của nhà


14

nước. ông coi con người về bản chất thuộc về nhà nước. Nếu vượt ra ngồi khn
khổ nhà nước, con người không phải con người phát triển về đạo đức - hoặc đó là
động vật hoặc đó là thượng đế.
Theo Arixtot, sứ mệnh của nhà nước là phải đảm bảo cho mọi người (trừ nô lệ)
sống hạnh phúc không chỉ về mặt của cải vật chất mà còn về mặt đảm bảo công
lý. ông coi mức độ phúc lợi mà xã hội đem lại cho con người là một tiêu chuẩn để
đánh giá nhà nước. Arixtot đứng trên lập trường của giai cấp chủ nô khinh miệt
người nô lệ.
3. Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại
3.1. Ưu điểm
-Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan. Nhằm đi
đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
-Triết học cổ hy lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời của
người dân Hy Lạp. Tách ly vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con
người.
-Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
-Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
-Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
-Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không?
3.2. Hạn chế
-Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
-Triết học cổ Hy Lạp cịn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
-Tuy có đặt vai trị của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần
linh.
4. Kết luận

Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến cho nhân loại vẫn cịn
ngun giá trị đó. Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên tồn bộ
ngơi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy cả bề mặt và bề trái của
Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại.



×