Tải bản đầy đủ (.pdf) (246 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ CHẾ ĐỘ CÔNG CHỨC, CÔNG VỤ (Tài liệu phục vụ kỳ thi nâng ngạch từ chuyên viên lên chuyên viên chính)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 246 trang )

BỘ NỘI VỤ

VIỆN KHOA HỌC TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC VÀ CHẾ ĐỘ CÔNG CHỨC, CÔNG VỤ
(Tài liệu phục vụ kỳ thi nâng ngạch
từ chuyên viên lên chuyên viên chính)

HÀ NỘI, NĂM 2012


2

LỜI NÓI ĐẦU

Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức nhà nước là một nhiệm vụ quan
trọng, nhằm mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia. Luật Cán bộ,
cơng chức năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện
nhiệm vụ này. Trong đó việc quy định thi nâng ngạch là một nội dung trong công tác xây
dựng và quản lý đội ngũ công chức, là biện pháp quan trọng để lựa chọn những người đủ năng
lực bố trí vào các vị trí u cầu trình độ, năng lực cao hơn trong các cơ quan, đơn vị của Nhà
nước. Đối với cá nhân công chức, việc dự thi nâng ngạch là cơ hội để khẳng định mình trong
q trình hoạt động cơng vụ.
Nội dung tài liệu này được sử dụng phục vụ cho công chức ôn tập thi nâng ngạch từ
chuyên viên lên chuyên viên chính. Trên cơ sở kế thừa nội dụng của các tài liệu phụ vụ thi
nâng ngạch chuyên viên lên chuyên viên chính từ năm 2010 trở về trước và cập nhật, bổ sung
các nội dung mới phù hợp với điều kiện hiện nay, tài liệu giới thiệu cơ đọng và có tính hệ
thống về hệ thống chính trị, Nhà nước, quản lý hành chính nhà nước và chế độ công chức,
công vụ, bao gồm 6 chuyên đề và phần phụ lục giới thiệu Luật Cán bộ, công chức năm 2008,
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Ngồi ra, bộ tài liệu cịn giới thiệu các tài


liệu cần nghiên cứu để phục vụ môn thi hành chính trong kỳ thi nâng ngạch từ chuyên viên
lên chuyên viên chính.
Tài liệu này do Tiến sĩ Trần Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Nội vụ - Chủ tịch Hội đồng
thi nâng ngạch từ chuyên viên lên chuyên viên chính năm 2012 chỉ đạo biên soạn và trực
tiếp làm chủ biên cùng tập thể biên soạn là các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, các cơng chức,
viên chức của Bộ Nội vụ, Văn phịng Chính phủ và Học viện Hành chính thuộc Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, biên tập và thẩm định.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn Những vấn đề cơ bản về quản lý hành chính
nhà nước và vấn đề công chức, công vụ với bạn đọc. Rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của bạn đọc để cuốn tài liệu này ngày một tốt hơn.

BAN BIÊN SOẠN


3
Chuyên đề 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị
1.1. Khái niệm hệ thống chính trị
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định, đó là hệ
thống chính trị. Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị
trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác
động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển
chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Hệ
thống chính trị xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà nước, biểu
hiện và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp, đảng phái cầm quyền, do
đó nó mang bản chất, lý tưởng chính trị và phản ánh lợi ích của giai cấp cầm
quyền. Trong các sách báo, các cơng trình nghiên cứu khoa học hiện nay,
khái niệm “hệ thống chính trị” thường được hiểu theo hai nghĩa:

Theo nghĩa rộng, khái niệm “hệ thống chính trị” được sử dụng để chỉ
tồn bộ lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống
hoàn chỉnh bao gồm các tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan
hệ chính trị, hệ tư tưởng và các chuẩn mực chính trị.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm “hệ thống chính trị” được sử dụng để chỉ
hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động mang tính
chính trị trong xã hội gồm nhân dân, các tổ chức chính trị, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với
quyền lực chính trị. Trong đó, nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị và
là nền tảng của hệ thống chính trị.
Trong các xã hội chiếm hữu nơ lệ, phong kiến, tư bản, hệ thống chính
trị hình thành và phát triển với quá trình vận động của mâu thuẫn đối kháng
giữa các giai cấp gắn với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các lực
lượng tiến bộ chống lại chế độ xã hội đó, làm thay đổi các hệ thống chính trị
theo hướng tiến bộ, hoặc thủ tiêu và thay thế nó bằng một hệ thống chính trị
dân chủ, tiến bộ hơn.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là chủ thể thực sự của quyền lực chính trị, tự mình định đoạt quyền
chính trị của mình. Điều căn bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ


4
nghĩa là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.
1.2. Bản chất của hệ thống chính trị ở nước ta
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng,
giành lấy quyền lực và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Như đã nêu
trên, hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà
nước, biểu hiện và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do

đó nó mang bản chất, lý tưởng chính trị và phản ánh lợi ích của giai cấp cầm
quyền. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau:
Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp
công nhân, nghĩa là các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững
trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công
nhân quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của tồn bộ
hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện ở
chỗ: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân với
thiểu số bóc lột.
Ba là, bản chất thống nhất khơng đối kháng của hệ thống chính trị ở
nước ta. Bản chất đó dựa trên cơ sở chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, về sự thống nhất giữa những lợi ích căn bản của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và tồn thể dân tộc.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xét về mặt cơ cấu bao
gồm: Đảng Cộng sản, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động
theo một cơ chế nhất định dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý
của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân, để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu: “dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.3. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ



5
nam cho hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị
ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của từng tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức trong hệ thống
chính trị nhưng có vai trị lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do những phẩm chất của mình - Đảng
Cộng sản Việt Nam là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của các dân
tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những thành tựu rất to lớn đạt
được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập
hợp quần chúng lao động đơng đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng, nhân
dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực
tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở nước ta quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động là nhân tố cơ bản
đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành
động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi
tổ chức trong hệ thống chính trị.
Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai
cấp cơng nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi. Đây là đặc điểm
khác biệt căn bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta với hệ
thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
2. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Hệ thống chính trị Việt Nam được hình thành trong tiến trình cách
mạng và thực sự ra đời từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau khi lật đổ
nền thống trị của thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước Cộng hồ dân
chủ đầu tiên ở khu vực Đơng Nam Á. Đó là hệ thống chính trị mang tính
chất dân chủ nhân dân (xét về nhiệm vụ, kết cấu, hoạt động). Hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị, chính trị xã hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức


6
xã hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế đó dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
để thực hiện quyền lực chính trị, gồm có:
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp cơng
nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, vừa là bộ phận hợp thành, vừa là lực lượng lãnh đạo hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với hệ
thống chính trị là điều kiện cần thiết và tất yếu để đảm bảo cho hệ thống
chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân, đảm bảo mọi quyền lực
thuộc về nhân dân. Bài học kinh nghiệm của cải tổ, cải cách ở Liên xô
(trước đây) và các nước XHCN ở Đông Âu cho thấy, khi Đảng Cộng sản
không giữ được vai trị lãnh đạo hệ thống chính trị, sẽ dẫn đến hậu quả làm
rối loạn hệ thống chính trị và xã hội, quyền lực chính trị sẽ khơng cịn trong
tay nhân dân và chế độ xã hội sẽ thay đổi. Đảng là một bộ phận của hệ thống
chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai
trị lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những
quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội để nhà nước thể chế háo

thành pháp luật; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện
Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Hai là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội chủ yếu thơng qua
Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm
của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hố cụ thể bằng pháp luật và
những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng
ln quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng
thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Ba là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội thơng qua hệ thống
tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo
công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn,
bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà
nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội. Phương
pháp lãnh đạo của Đảng chủ yếu phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế
dân chủ...


7
Để thực hiện vai trị lãnh đạo của mình, một mặt Đảng phải phát huy
vai trò chủ động sáng tạo của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức chính trị xã hội, khắc phục tệ quan liêu độc đoán, chuyên quyền,
bao biện làm thay v.v... Mặt khác, Đảng, tổ chức Đảng không được buông
trôi lãnh đạo, mất cảnh giác trước những luận điệu cơ hội mị dân đòi Đảng
phải trả mọi quyền lực cho Nhà nước và nhân dân. Thực chất của những địi
hỏi đó chỉ nhằm chia rẽ Đảng với nhân dân, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng và làm thay đổi chế độ. Ở một vài nước xã hội chủ nghĩa, trong những
điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, đã hình thành hệ thống chính trị đa
đảng. Đó là các đảng liên minh với Đảng Cộng sản, thừa nhận sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản chứ không phải là đảng đối lập. Kinh nghiệm lịch sử

cho thấy thành lập đảng đối lập là nguy cơ trực tiếp để mất chính quyền vào
tay các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch, phẩn
động hiện nay đang lợi dụng chiêu bài đa đảng, đa nguyên chính trị, dân chủ
nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa bằng “diễn biến hồ bình”.
2.2. Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức
quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của
đời sống xã hội. Mặt khác, Nhà nước CHXH Việt nam chịu sự lãnh đạo
chính trị của giai cấp cơng nhân, thực hiện đường lối chính trị của giai cấp
cơng nhân, thơng qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là cơng cụ tổ
chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã
hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt
khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường
lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy
đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là
cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản
lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng trong hệ
thống chính trị được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ
thống chính trị, trong đời sống xã hội và được thể hiện trong mối quan hệ
giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hiến


8
pháp, pháp luật và chính sách làm cơng cụ quản lý nhà nước đối với mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là trụ cột, là cơng cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực
của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý
toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta
có các đặc trưng cơ bản sau:
1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân;
2. Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên
cơ sở có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp;
3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận vị trí
tối thượng của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội; tổ chức và hoạt
động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật;
4. Trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ
đạo trong xã hội, thể hiện vai trò của một nhà nước “phục vụ”, đồng thời thể
hiện trách nhiệm của công dân trước nhà nước và xã hội;
5. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn với một xã hội dân sự
định hướng xã hội chủ nghĩa;
6. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm thực hiện nghiêm
chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế;
7. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Những đặc trưng của Nhà nước tạo nên những nét khác biệt nhất định
về tổ chức và phương thức hoạt động giữa Nhà nước với Đảng và các tổ
chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Việc xác
định đúng vị trí, vai trị và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị

có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong q trình đổi mới hệ thống chính trị,
khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính trị,
nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở nước ta trong điều kiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước


9
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách
cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý nghĩa đó, Quốc hội được
gọi là cơ quan lập pháp.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống
nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội,
an ninh, quốc phịng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội. Theo ý nghĩa đó,
Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và
các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ
chức nhà nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm
bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Tồ án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý

chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự,
khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc
xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ
thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối
với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát
các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, ở nước ta, các tổ chức Toà
án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân được gọi là cơ quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.


10
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là tổ chức
trung tâm thực hiện quyền lực chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là
bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các hoạt động kinh tế,
văn hoá, xã hội trên cơ sở pháp luật; thay mặt nhân dân thực hiện chức
năng đối nội và đối ngoại. Để Nhà nước hoàn thành nhiệm vụ quản lý xã
hội bằng pháp luật, thực hiện quyền lực nhân dân giao phó, phải ln ln
chăm lo kiện tồn các cơ quan nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả ; xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có
phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực chuyên môn giỏi; thường xuyên
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật; có cơ chế và biện pháp ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lộng
quyền, vô trách nhiệm...; nghiêm trị những hành động gây rối, thù địch;
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, của các tổ chức xã hội, xây dựng và

tham gia quản lý nhà nước...
Nhận thức về vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã
hội chủ nghĩa, cần thấy rằng:
- Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh
đạo của Đảng cũng phải trong khuôn khổ pháp luật, chống mọi hành động
lộng quyền, lạm quyền, coi thường và vi phạm pháp luật;
- Hai là, duy trì mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước
và nhân dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, quản lý đất nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì lợi ích
của quốc gia, dân tộc chứ khơng phải vì quyền lợi hoặc lợi ích của một
nhóm nhỏ thiếu số,.
- Ba là, khơng có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
với tăng cường hiệu lực, hiệu quả nhiệm vụ quản lý của Nhà nước. phải luôn
luôn bảo đảm sự thống nhất để tăng sức mạnh của Nhà nước. Tính hiệu lực
và sức mạnh của Nhà nước chính là thể hiện hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.
2.3. Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích của các cộng
đồng dân cư khác nhau, tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
theo các tơn chỉ, mục đích, tính chất nhất định và tuân thủ pháp luật. Ở các
nước xã hội chủ nghĩa khác nhau, các tổ chức này rất phong phú và hồn
tồn khơng giống nhau; nội dung, hình thức và phương thức hoạt động cũng
rất đa dạng và sinh động. Các tổ chức đó có nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức. . . động viên, phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp
nhân dân, góp phần tích cực thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội; chăm lo
lợi ích chính đáng của các thành viên; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã


11
hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Trong thực tế hiện nay, cần phải tránh xu hướng biến các tổ chức
này thành tổ chức hành chính, quan liêu, dựa vào sự bao cấp của Nhà nước,

khơng thể hiện được tính tích cực, đa dạng, đặc thù của mình trong tổ chức
và hoạt động.
Ở nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức chính trị xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo
nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia
vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tơn chỉ, mục đích của mình nhằm
bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết
toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao
trách nhiệm cơng dân của các hội viên, đồn viên, giữ gìn kỷ cương phép
nước, thúc đẩy cơng cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện
vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân;
tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải
quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục
chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng
lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích
chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy q trình dân
chủ hố và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức thành một một hệ thống từ
Trung ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm:
tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng nhân dân cấp xã; Uỷ ban nhân dân cấp xã;
Mặt trận Tổ quốc cấp xã và các tổ chức chính trị - xã hội khác như Đồn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh cấp xã … Tất cả các tổ chức trên
đều có vị trí, vai trị và nhiệm vụ trong hệ thống chính trị ở nước ta. Hệ
thống chính trị ở cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức và vận


12
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.

2.4. Vai trò của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực chính trị
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định trong
quá trình cải biến xã hội. Vai trò quyết định của nhân dân thể hiện trên các
mặt chủ yếu sau:
- Nhân dân là lực lượng cơ bản sản xuất ra của cải vật chất, của cải
tinh thần, góp phần quyết định vào sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Nhân dân là chủ thể của mọi quá trình cải biến xã hội.
- Lợi ích của nhân dân là động lực cơ bản của cách mạng xã hội, của
những quá trình cải biến xã hội.
Trên phương diện quyền lực chính trị, nhân dân vừa là chủ thể, vừa
là khách thể của quyền lực chính trị. Tương quan chủ thể, khách thể
quyền lực chính trị của nhân dân trong các xã hội cũng rất khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, nhân dân (chủ yếu là
người lao động) chỉ là khách thể của quyền lực chính trị - quyền lực nhà
nước. Trong xã hội hiện đại, do sự phát triển dân chủ, vai trị chính trị của
nhân dân tăng lên. Nhân dân khơng chỉ là khách thể mà cịn là chủ thể của
quyền lực chính trị.
Sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị vừa với tư cách từng

cá nhân, vừa có tính nhóm cộng đồng, vừa thơng qua những tổ chức, cơ
quan mà họ là những thành viên; với nhiều phương thức khác nhau, trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động vào cơ cấu chính trị và cơ cấu quyền lực chính trị
của xã hội. Nhân dân tham gia vào các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội... và thông qua hoạt động
của các tổ chức này chi phối quyền lực nhà nước ở các mức độ khác nhau,
thực hiện lợi ích cho tổ chức, cộng đồng và bản thân. Nhân dân tham gia vào
đời sống chính trị với nhiều hình thức như: thơng qua hoạt động bầu cử các
đại biểu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động trưng cầu ý kiến cử
tri vào những chính sách, quyết định của nhà nước, hoạt động kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước và cán bộ, công
chức, viên chức...


13
Nhân dân ở nước ta hiện nay, chủ yếu là giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức. Tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân
dân thực hiện quyền lực của mình chủ yếu thông qua Nhà nước, Nhà nước
quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Ngoài Nhà nước, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị thơng
qua tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và thơng qua tư cách cá
nhân công dân, cử tri tham gia vào việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vào việc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vì
lợi ích xã hội, lợi ích tổ chức và lợi ích cá nhân. Qua đó phấn đấu thực hiện
một mục đích: Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Có thể khái quát quan hệ giữa các cơ cấu quyền lực chính trị trong hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay qua sơ đồ sau:

Đảng Cộng
sản Việt Nam


Nhà nước
Cộng hoà
XHCN VN

Tổ chức
CT- xã hội,
Xã hội...

Nhân dân

Với q trình hoạt động của mình, hệ thống chính trị Việt Nam đã
góp phần quyết định vào việc hồn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân, thống nhất Tổ quốc và xây dựng được những cơ sở vật chất kỹ thuật
ban đầu của chủ nghĩa xã hội, bước đầu xây dựng nền dân chủ XHCN. Bên
cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, hệ thống chính trị cũng bộc lộ
những yếu kém, khiếm khuyết. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối đổi mới và dân chủ hố đời sống xã hội. Từ đó đến nay, chúng ta đã
làm được nhiều việc trong lĩnh vực đổi mới kinh tế và kiện tồn hệ thống
chính trị; bước đầu tiến hành đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của
Đảng, cải cách bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cải cách
nền hành chính nhà nước, cải cách chế độ công vụ, công chức; đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội; cho phép
thành lập và quản lý tốt các hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp;
tổ chức xã hội.
3. Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
Hệ thống chính trị chỉ phát huy tác dụng khi sự vận hành các yếu tố
của nó phù hợp với những quy luật khách quan. Từ khi thực hiện đường lối



14
của Đảng đến nay, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng
kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo
của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do
dân và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội từng bước
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực;
quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn
hố, tư tưởng được phát huy...
Tuy nhiên bên cạnh những thành cơng quan trọng đó, hệ thống chính
trị ở nước ta cũng còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực và hiệu quả lãnh
đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt
động của các đoàn thể chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với địi hỏi của
tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp
xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu,
vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Cơng tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay
thế, trẻ hố, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và
phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với
yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng
cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức
cơ sở Đảng chưa cao.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay cịn nhiều mặt yếu kém, bất cập
trong cơng tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng.
Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đồn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền
làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều
nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận
trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, tránh nhiệm không
rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện
của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào
tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở cịn chắp vá.

Tổng kết giai đoạn vừa qua và nhìn lại sự phát triển của các yếu tố
trong hệ thống chính trị, Đảng ta nhận định rằng ngoài những thành tựu đã
đạt được vẫn tồn tại những thực trạng cần phải đổi mới :
- Thứ nhất, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu về tổ chức của Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền và lãnh đạo xã hội.
- Thứ hai, vai trò và năng lực của đảng viên, nhất là những đảng viên
đang giữ những vị trí trọng trách nhất định cần được phát huy hơn nữa trong
điều kiện đổi mới. Bởi vì cơ chế quản lý mới, nhất là trong đời sống kinh tế,
đã vượt ra ngoài những phương thức điều hành, quản lý của cơ chế cũ.


15
- Thứ ba, vai trị của các đồn thể, các tổ chức quần chúng trong cơ
cấu của hệ thống chính trị, mặc dù đã có những bước phát triển nhưng cũng
còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Thứ tư, chậm tổng kết thực tiễn và nghiên cứu khoa học về tổ chức,
việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các nghị quyết về tổ chức, bộ máy không nhất
quán, thiếu kiên quyết và triệt để.
Thứ năm, cịn tình trạng trì trệ, yếu kém trong tổ chức thực hiện nghị
quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Theo đó, trước mắt chúng ta cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ
bản và bức xúc sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ
thống chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa
các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân
tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ
thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy

quyền làm chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám
sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế người không đủ tín nhiệm.
Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương
theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công
tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng,
không ức hiếp dân; trẻ hố đội ngũ, chăm lo cơng tác đào tạo, bồi dưỡng,
giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
3.2. Quan điểm đổi mới hệ thống chính trị
- Thứ nhất, khẳng định bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng trong
q trình xây dựng, tổ chức và lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở đó củng cố và
hồn thiện tổ chức của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng thời,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Đảng, nhất là chất lượng về
chính trị, trách nhiệm phục vụ nhân dân của đảng viên.
- Thứ hai, hoàn thiện bộ máy nhà nước nhằm quản lý và tạo điều kiện
cho quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN; xây
dựng Nhà nước ta từng bước trở thành Nhà nước pháp quyền của dân, do


16
dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng (*). Hồn thiện hệ thống chính trị sao
cho các chủ thể có thể phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân như là nhiệm vụ chiến lược, nhằm tạo ra nguồn sức mạnh và động lực
to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội, các đồn thể nhân dân được
đổi mới về tổ chức và hoạt động, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, trở
thành cầu nối quan trọng giữa nhân dân với Đảng và giữa nhân dân với Nhà
nước.
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong

giai đoạn hiện nay
Hồn thiện hệ thống chính trị, trước hết là hồn thiện các tổ chức (chủ
thể) của hệ thống chính trị. Từ đó, tạo tiền đề đổi mới các hoạt động nhằm
bảo đảm sự ổn định, tạo đà cho phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội.
a) Những giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Tổng kết từ thực tiễn đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng, một số nội dung phát triển và chỉnh đốn Đảng được đặc biệt
chú ý nhằm phát huy vai trò lãnh đạo, vai trò lực lượng xây dựng, định
hướng chiến lược phát triển của xã hội; đồng thời củng cố vị thế của Nhà
nước trên phương diện quốc tế.
Thứ nhất, đối với các hoạt động đổi mới tổ chức, trước hết cần tăng
cường cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức
đảng viên. Sức mạnh của Đảng, với tư cách là một tổ chức bắt nguồn từ
năng lực, phẩm chất của từng đảng viên. Sự củng cố vị thế của Đảng ở mọi
giai đoạn được chú ý hàng đầu là sức mạnh về tư tưởng và tổ chức. Tư
tưởng và tổ chức đó được bắt nguồn từ năng lực, ý thức và kỹ năng tổ chức
của đảng viên. Theo đó, cần tập trung vào một số hoạt động sau:
+ Nhận thức và quán triệt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lênin trên tinh thần vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh
tế, xã hội nước ta;
+ Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tấm gương của Người
về nhận thức lý luận và lòng yêu nước, về rèn luyện phẩm chất của người
cách mạng, về lối sống cần kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư; về ý thức tổ
chức và đoàn kết nội bộ; về tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc và mở
rộng quan hệ quốc tế...

(*)

Xem Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức X của Đảng – Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2006



17
+ Từ những kết quả của hoạt động xây dựng chỉnh đốn Đảng, cần tiếp
tục đẩy mạnh đấu tranh, phê phán chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, cơ
hội, nhất là lệ quan liêu, tham nhũng. Đây là những vấn đề nổi cộm vì: Đảng
ta là Đảng cầm quyền, hầu hết các chức vụ, trong đó có cả các chức vụ liên
quan đến tổ chức, nhân sự, kinh tế. . . đều do đảng viên đảm nhiệm. Đó là kết
quả của sự rèn luyện của mỗi đảng viên và sự tín nhiệm của quần chúng.
Nhưng thực tế, có một bộ phận đảng viên đã không rèn luyện, phai mờ phẩm
chất nên đã phạm những sai lầm trên.
Thứ hai, đổi mới công tác cán bộ của Đảng. Công tác cán bộ là một
chiến lược lớn của Đảng gồm nhiều hoạt động: quy hoạch, đào tạo, rèn
luyện, giao nhiệm vụ, đánh giá... Tuy nhiên, những tiêu chuẩn ở mỗi giai
đoạn có những u cầu mới cần phải thích ứng. Cơng tác cán bộ nhằm vào
các hoạt động:
+ Xây dựng cơ chế, quy chế, phát hiện, tuyển chọn, từ đó tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng những kiến thức về chính trị, tư tưởng, chuyên môn và tổ
chức. Đồng thời rèn luyện phẩm chất đạo đức.
+ Thực hiện có hiệu quả nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và rèn luyện cán bộ trong hệ
thống chính trị.
+ Bảo đảm sự thống nhất giữa lựa chọn cán bộ và tiêu chuẩn hoá trên
cơ sở hiệu quả cơng việc và uy tín của cán bộ trước quần chúng, nhân dân.
Thứ ba, củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Bài học kinh nghiệm cho thấy,
Đảng mạnh dựa vào đảng viên và tổ chức cơ sở vững. Nguyên tắc tổ chức của
Đảng cho thấy, sự lựa chọn cán bộ cho bộ máy của Đảng ở Trung ương hay
cấp trên là lựa chọn từ cơ sở. Nếu khơng có đảng viên ở cơ sở đủ các u cầu
về năng lực, phẩm chất thì khơng thể có nguồn cho bộ máy ở các cấp.
Thứ tư, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo là chức
năng sống còn của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng nhằm vào các mặt:
+ Bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo tập thể, theo đó, các quyết định của
Đảng là sản phẩm trí tuệ tập thể. Chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa bè
phái. Đây là một trong những nguyên nhân làm suy yếu vai trò lãnh đạo của
Đảng ở một số nơi.
+ Định rõ vai trò và trách nhiệm cá nhân đảng viên trong tổ chức.
Đảng hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Nhưng trong tổ chức, mỗi
đảng viên có vị trí và vị thế riêng, từ đó có chế độ trách nhiệm riêng. Về vấn
đề này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: cấp


18
uỷ, nhất là cán bộ chủ chốt phải có chương trình cơng tác để tiếp xúc với
nhân dân, trả lời các ý kiến chất vấn của đảng viên và nhân dân.
Thứ năm, đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra của Đảng. Kiểm
tra là một trong những hoạt động thuộc chức năng của Đảng. Kiểm tra nhằm
vào các lĩnh vực:
+ Kiểm tra việc thực hiện và quán triệt nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
+ Kiểm tra nhằm phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý các vi phạm, sai
phạm của cá nhân hoặc tổ chức một cách kịp thời, có hiệu quả.
+ Kiểm tra cũng là biện pháp củng cố tổ chức, đồn kết trong Đảng.
Đối với cơng tác xây dựng Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
xác định: Để đảm đương được vai trị lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng,
tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự
phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội,

tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng
lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quan tâm
bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc...
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời
gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI đã nhấn mạnh, ngoài việc cần tiếp tục thực hiện tốt 8 nhiệm vụ trong
công tác xây dựng Đảng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
đã đề ra, coi đó là những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài và phải thực
hiện thường xuyên, có hiệu quả, đồng thời tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau đây:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và
của nhân dân đối với Đảng.


19
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là
cấp trung ương, đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp
bách nhất.
b) Những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Nhà nước đã được khẳng định là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền

làm chủ của nhân dân. Nói rộng ra, để thực hiện sứ mệnh đó Nhà nước cịn
thể hiện là một bộ máy chuyên chính của nhân dân nhằm ngăn chặn những
vi phạm về chủ quyền, về chế độ chính trị và trật tự xã hội; Nhà nước còn
phải là một bộ máy phục vụ nhằm thoả mãn các nhu cầu cơ bản, thiết yếu
ngày càng cao của nhân dân; Nhà nước còn phải là đại diện của nhân dân,
của quốc gia trong các diễn đàn quốc tế nhằm bảo vệ chủ quyền, mở rộng
đối ngoại, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài v.v. . .
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trước hết nhằm vào các
lĩnh vực:
- Hoàn thiện về tổ chức nhằm tăng cường vai trò lập pháp của cơ quan
lập pháp, cải cách hành pháp và tư pháp, phát huy vai trò, năng lực của các
cấp chính quyền địa phương.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đáp ứng cải cách
nền hành chính nhà nước; phục vụ tốt cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tiếp tục cải cách khu vực dịch vụ công, đặc biệt là các lĩnh vực sự
nghiệp công lập như giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa,
thể thao, lao động- xã hội, mơi trường, ...
- Tăng cường trang thiết bị để nâng cao năng suất trong công vụ và
hiệu quả phục vụ đối với xã hội nhằm hiện đại hoá tổ chức và hoạt động
Nhà nước.
c) Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và
các tổ chức quần chúng


20
Nước ta từ khi thành lập chế độ dân chủ Cộng hoà, cùng với sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước cịn có các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn

thể - những đại diện của nhân dân. Có những tổ chức ra đời cùng với tiến
trình cách mạng giải phóng dân tộc như: Mặt trận Việt Minh - tiền thân của
Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc. . . Chế
độ dân chủ ngày càng mở rộng cùng với cơ cấu kinh tế đa dạng, môi trường
pháp lý ổn định là những điều kiện để nhân dân tự tổ chức thành những hội,
những tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình trong khn khổ pháp luật.
Trong bối cảnh hiện nay, đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội nhằm vào một số vấn đề:
- Tổ chức và hoạt động của các tổ chức này phải luôn tuân thủ và phù
hợp với đường lối đổi mới của Đảng và đặt trong khuôn khổ pháp luật của
Nhà nước.
- Phát huy sức mạnh nội lực của mỗi tổ chức trên con đường hoà nhập
trong khối đại đoàn kết toàn dân.
- Mỗi tổ chức là cầu nối trung gian giữa nhân dân (các thành viên) với
Đảng và Nhà nước. Mỗi tổ chức là người đại diện cho tiếng nói, nguyện
vọng và lợi ích chính đáng của tổ chức và của nhân dân.
Hoạt động của các tổ chức phải bảo đảm phương châm:
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và chịu sự quản lý của Nhà nước,
tránh khuynh hướng hành chính hố tổ chức, dẫn đến khuynh hướng dựa
vào Nhà nước nhiều hơn phát huy vai trò của thành viên và của nhân dân.
- Tự chủ trong các hoạt động, các sinh hoạt của tổ chức.
- Mở rộng quan hệ với đối tác nước ngồi trong khn khổ của pháp
luật bằng nhiều hình thức để phát huy vai trị đối ngoại nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể nhân dân, tổ chức
quần chúng chính là nơi tập hợp lực lượng, tạo nên nguồn sức mạnh củng cố
hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay./.
Chuyên đề 2
HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1. Khái quát về cơ quan nhà nước
Các nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước được thực hiện thông qua các

cơ quan nhà nước đã được pháp luật trao cho những nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể. Hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những


21
nguyên tắc chung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các
nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước.
Theo Hiến pháp năm 1992, ở nước ta có các loại cơ quan nhà nước
sau đây:
(1) Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương);
(2) Các cơ quan hành chính nhà nước gồm: Chính phủ, các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh,
cấp huyện;
(3) Các cơ quan xét xử (Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự, các
Toà án nhân dân địa phương, Toà án đặc biệt và các Toà án khác do luật
định);
(4) Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát quân sự, Viện kiểm sát nhân dân địa phương).
Chủ tịch nước là một thiết chế nhà nước, một cơ quan đặc biệt thể
hiện sự thống nhất của quyền lực, có những hoạt động thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, nên tồn tại độc lập tương đối với các cơ quan
nhà nước khác.
Tất cả các cơ quan nhà nước tạo thành bộ máy nhà nước. Nhưng bộ
máy nhà nước không phải là một tập hợp đơn giản các cơ quan nhà nước mà
là một chỉnh thể thống nhất các cơ quan có mối liên hệ qua lại với nhau và
vận hành theo một cơ chế đồng bộ.
Từ giác độ hệ thống cho thấy, mỗi cơ quan nhà nước là một khâu (mắt

xích) khơng thể thiếu của bộ máy nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy
nhà nước tuỳ thuộc vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà
nước. Cơ quan nhà nước có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, cơ quan nhà nước là một tổ chức cơng quyền có tính độc
lập tương đối với cơ quan nhà nước khác, một tổ chức cơ cấu bao gồm
những cán bộ, công chức được giao những quyền hạn nhất định để thực hiện
nhiệm vụ và chức năng nhà nước theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước làm cho nó khác với tổ
chức khác là tính quyền lực nhà nước. Chỉ cơ quan nhà nước mới có quyền
lực nhà nước, được nhân dân giao cho. Các cơ quan nhà nước thực hiện
quyền lực của nhân dân, giải quyết các vấn đề quan hệ với công dân. Mỗi cơ


22
quan nhà nước đều có thẩm quyền do pháp luật quy định - đó là tổng thể
những quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực - pháp lý mà nhà nước trao
cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng nhà nước. Yếu tố cơ bản của thẩm
quyền là quyền ban hành những văn bản pháp luật có tính bắt buộc chung,
văn bản áp dụng pháp luật phải thực hiện đối với các chủ thể có liên quan (có
thể là cơ quan, tổ chức nhà nước khác, công chức, viên chức các tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế và công dân).
- Thứ ba, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có những giới hạn về
khơng gian (lãnh thổ), về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác
động. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước phụ thuộc vào địa vị pháp lý của
nó trong bộ máy nhà nước. Giới hạn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước
là giới hạn mang tính pháp lý vì được pháp luật quy định.
Cơ quan nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình
và trong phạm vi đó, nó hoạt động độc lập, chủ động và chịu trách nhiệm về
hoạt động của minh. Cơ quan nhà nước có quyền, đồng thời có nghĩa vụ phải
thực hiện các quyền của mình. Khi cơ quan nhà nước khơng thực hiện hay từ

chối thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật là vi phạm
pháp luật.
- Thứ tư, mỗi cơ quan nhà nước có hình thức và phương pháp hoạt
động riêng do pháp luật quy định.
Các loại hình bộ máy nhà nước khác nhau có ngun tắc tổ chức và
hoạt động khác nhau. Bộ máy nhà nước tư sản thường được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc phân lập các quyền (phân quyền cứng rắn và cơ chế
“kiềm chế và đối trọng” hoặc phân quyền mềm dẻo), các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp độc lập nhau. Còn bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự
phân cơng chức năng, phân định thẩm quyền rành mạch và có sự phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Đồng thời trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra một
cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm
pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
2. Các cơ quan nhà nước
2.1. Quốc hội
Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước được ghi nhận trong Hiến
pháp. Điều 83 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


23
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội do cử tri cả
nước bầu ra theo chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu
kín. Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Quốc hội có các chức năng sau:
- Lập hiến và lập pháp. Lập hiến là làm ra hiến pháp và sửa đổi hiến
pháp, lập pháp là làm luật và sửa đổi luật;

- Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối
ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội quốc phòng, an ninh của đất nước, những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan
hệ xã hội và hoạt động của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước.
Các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định cụ thể tại Điều
1 Luật Tổ chức Quốc hội ngày 25/12/2001.
Vị trí của Quốc hội thể hiện thơng qua mối quan hệ giữa Quốc hội với
các cơ quan khác của Nhà nước: Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quan hệ đó thể hiện qua một số quyền hạn của Quốc hội: xét báo cáo hoạt
động của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tồ án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quy định tổ chức và hoạt
động của Chủ tịch nước, Chính phủ, Tồ án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân và chính quyền địa phương; bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tồ án nhân
dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội . . .
Quốc hội hoạt động thơng qua hình thức: kỳ họp của Quốc hội, hoạt
động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
Để bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cần phải nâng cao chất lượng các
hình thức hoạt động của Quốc hội. Trước hết là: “Đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác lập pháp, ban hành các luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền
công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, các
luật điều chỉnh các hoạt động văn hố, thơng tin... đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các uỷ ban của Quốc

hội...; phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn trong hoạt


24
động giám sát của Quốc hội... với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát
của các cơ quan và tổ chức khác”(*).
2.2. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Là cơ quan thường trực của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
do Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội gồm có: Chủ tịch Quốc hội; các Phó Chủ tịch Quốc hội và các uỷ
viên do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội làm các
Phó Chủ tịch. Thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không thể đồng thời
là thành viên Chính phủ và làm việc theo chế độ chuyên trách.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có những quyền hạn độc lập do Hiến
pháp và Luật Tổ chức Quốc hội quy định như quyền giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh; ban hành pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính
phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc
thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ
bỏ các văn bản của các cơ quan nói trên trái với pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội
đồng nhân dân; trong thời gian Quốc hội không thể họp được, quyết định
việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi đất nước bị xâm lược và báo cáo
Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội; quyết định
tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả
nước hoặc ở địa phương; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; tổ
chức trưng cầu dân ý theo quyết định của Quốc hội . . .

Trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội cịn có Hội đồng dân tộc và các
Uỷ ban của Quốc hội: Số lượng uỷ ban của Quốc hội là 9; tách Uỷ ban
pháp luật thành Uỷ ban pháp luật và Uỷ ban tư pháp; tách Uỷ ban kinh tế ngân sách thành Uỷ ban kinh tế và Uỷ ban ngân sách; Uỷ ban pháp luật,
Uỷ ban tư pháp, Uỷ ban kinh tế, Uỷ ban ngân sách, Uỷ ban quốc phòng và
an ninh; Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ
ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ
ban đối ngoại.
2.3. Chủ tịch nước

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia.
H.1996.Tr.130.
(*)


25
Trong bộ máy nhà nước, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước,
thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch
nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội. Khi cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp
của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh
được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn khơng nhất trí, thì Chủ tịch nước
trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu miền nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tồ án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ.
Chủ tịch nước công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh. Căn cứ vào Nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ra lệnh tổng động
viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn
cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Nhiệm vụ, quyền hạn về những công việc do Chủ tịch nước tự quyết
định như: Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ
chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; quyết định phong hàm
cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp đại sứ,
những hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng
huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh hiệu vinh dự nhà
nước. Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại
sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết Điều
ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế
đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ
trường hợp cần trình Quốc hội quyết định. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định...


×