Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Nhận thức về xây dựng, phát triển nền văn hóa của đảng cộng sản việt nam thời kỳ đổi mới( đại hội VI đến đại hội XIII)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.26 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, CHỨC NĂNG CỦA XÂY DỰNG
PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA.................................................................2
1.1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng.................................................................................................2
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa.................................................................2
1.1.2. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới............................2
1.1.3. Vai trị của Văn hóa trong phát triển...........................................3
1.2. Đặc trưng, chức năng của xây dựng phát triển nền văn hóa.....5
1.2.1. Đặc trưng của văn hóa.................................................................5
1.2.2. Chức năng của văn hóa:..............................................................6
II. NỘI DUNG NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN
VĂN HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI......................................................................................................8
2.1. Nhận thức về xây dựng, phát triển nền văn hóa của Đảng Cộng
sản Việt Nam từ Đại hội VI-VIII.........................................................8
2.1.1. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội VI..........8
2.1.2. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội VII.........9
2.1.3. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội VIII........9
2.1.4. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội IX........10
2.1.5. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội X..........10
2.1.6. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội XI........11
2.1.7. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội XII.......11
i


2.1.8. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội XIII......12
2.2. Thực trạng xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay.......13
2.2.1. Một số thành tựu đạt được.........................................................13


2.2.2. Một số hạn chế trong quá trình phát triển văn hóa....................15
III. ĐÁNH GIÁ Q TRÌNH XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN NỀN VĂN
HÓA, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT
NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.......................................................17
3.1. Cơ hội và thách thức đặt ra với sự phát triển văn hóa Việt Nam
những năm sắp tới...............................................................................17
3.1.1. Cơ hội đặt ra với sự phát triển văn hóa Việt Nam.....................17
3.1.2. Thách thức đặt ra với sự phát triển văn hóa Việt Nam.............19
3.2. Giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam...............21
3.2.1. Giải pháp phát triển nhận thức của sinh viên về văn hóa..........21
3.2.2. Giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa văn nghệ của nước ta
trong xu thế hội nhập...........................................................................22
KẾT LUẬN....................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................26

ii


MỞ ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln dành sự quan tâm đến sự nghiệp
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Người chỉ rõ: Văn hóa là toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương
thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích
của cuộc sống lồi người. Đây là ngọn lửa soi đường, dẫn lối cho dân tộc đi
đến thắng lợi.
Trải qua gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã định
hướng phát triển đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây
dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm của
Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa có những bước vận động rất quan
trọng. Văn hóa được coi là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, trong đó

con người được nhìn nhận là trung tâm trong chiến lược phát triển bền vững.
Việc nhấn mạnh đến vấn đề con người thể hiện sự phù hợp với quan điểm tiến
bộ về văn hóa trên thế giới hiện nay. Do đó qua q trình học tập và tìm hiểu,
tác giả đã chọn đề tài “ Nhận thức về xây dựng, phát triển nền văn hóa của
Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới( Đại hội VI đến Đại hội XIII)”

1


NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, CHỨC NĂNG CỦA XÂY DỰNG
PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HĨA.
1.1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng
1.1.1. Định nghĩa về văn hóa
Năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu lên định nghĩa về văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn
giáo, văn hố, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hố. Văn hố là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và địi hỏi của sự sinh tồn.”(tập 3, tr.431)
1.1.2. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh đã đưa ra 5 điểm lớn
định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
 Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
 Xây dựng lý luận: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
 Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có lien quan đến phúc lợi của
nhân dân trong xã hội

 Xây dựng chính trị: dân quyền
 Xây dựng kinh tế
Có thể thấy: từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm tới văn hóa trong
đời sống xã hội. Ta hiểu vì sao ngay sau khi giành được độc lập, Người đã
đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
2


1.1.3. Vai trị của Văn hóa trong phát triển
Để xác định vai trị của văn hóa trong phát triển, cần hiểu rõ nội dung
văn hóa mang tính bản chất trong hoạt động của mỗi chủ thể và trong toàn xã
hội, gắn với vai trò và chức năng của từng chủ thể, như trên đã nói. Để hiểu rõ
vai trị của văn hóa đối với sự phát triển thì cần tránh cách hiểu văn hóa thiên
về giác độ cách ứng xử, quan hệ…; mà phải hiểu văn hóa là những giá trị cốt
lõi định hướng, chi phối hoạt động của các chủ thể và toàn xã hội trong mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, mơi trường sinh thái. Nhìn nhận một cách
khái qt văn hóa có những vai trị chủ yếu sau :
i). Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mơ hình - con đường - thể
chế phát triển của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế
chính trị thực sự “của dân, do dân và vì dân”. Xác lập mục tiêu bao trùm của
sự phát triển là vì con người; con người vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của sự
phát triển. Các giá trị này thường được xác định, chế định trong cương lĩnh
của các Đảng cầm quyền, trong hiến pháp, pháp luật, chiến lược phát triển của
quốc gia…
ii). Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế kinh tế, triết lý và
đạo đức kinh doanh thúc đẩy phát triển năng động, hiệu quả, hài hòa và bền
vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển bao trùm, “khơng để ai tụt
lại phía sau”. Xác lập hệ giá trị phát triển chung của quốc gia trong định
hướng phát triển dài hạn và trong những giai đoạn cụ thể. Hệ giá trị phát triển
đó được cụ thể hóa thành các giá trị phát triển trong các lĩnh vực con người,

chính trị, kinh tế, xã hội, mơi trường sinh thái.
iii). Là cơ sở để xác lập các giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức
xã hội thượng tôn pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng quyền con người,
quyền công dân. Là cơ sở để tạo nên “sức mạnh mềm” trong phát triển.

3


iv). Là cơ sở để xác lập hệ giá trị phát triển cùng với cơ chế hoạt động
tương ứng của từng chủ thể trong xã hội (thể hiện những giá trị mà chủ thể đó
tuân theo và hướng tới); tạo động lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của
từng chủ thể cũng như toàn xã hội với tư cách là một hệ thống mở trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
v). Là cơ sở để xác lập hệ giá trị hợp tác và hội nhập quốc tế trên cơ sở
nguyên tắc đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên trên hết, đồng thời tơn trọng
các lợi ích chính đáng của các quốc gia - dân tộc khác, hợp tác bình đẳng
cùng phát triển và cùng có lợi, cùng bảo vệ các giá trị chung của nhân loại.
vi). Là cơ sở để xây dựng cơ chế liên kết - điều tiết sự phát triển thông
qua liên kết các giá trị giữa các chủ thể và trong toàn xã hội; hạn chế những
tác động tiêu cực trong quá trình phát triển.
Xét trên bình diện quốc gia - dân tộc, để văn hóa trở thành sức mạnh
nội sinh của sự phát triển bền vững, thì các giá trị con người - văn hóa phải
trở thành nền tảng cốt lõi trong mọi hoạt động của tất cả các chủ thể trong xã
hội, nhưng trong đó trọng trách hàng đầu được đặt vào vai trò giá trị văn hóa
của Đảng cầm quyền và Nhà nước. Có lẽ chính vì vậy, tại lễ kỷ niệm 30 năm
ngày thành lập Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh nói :
“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình,
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hịa bình ấm no...”.

Trong các câu thơ trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về những “giá trị”
văn hóa thể hiện bản chất của Đảng ta cần phải đấu tranh, phấn đấu gìn giữ và
phát triển. Đảng có những giá trị đó, phát triển các giá trị đó trở thành giá trị
đặc trưng bản chất tiêu biểu của Quốc gia - Dân tộc thì mới tạo thành sức
4


mạnh nội sinh phát triển của cả dân tộc (trong đấu tranh cách mạng cũng như
trong xây dựng đất nước).
1.2. Đặc trưng, chức năng của xây dựng phát triển nền văn hóa
1.2.1. Đặc trưng của văn hóa
Văn hóa có tính hệ thống
Cần phải phân biệt rạch rịi giữa tính hệ thống với tính tập hợp. Tính hệ
thống của văn hóa có “xương sống” là mối liên hệ mật thiết giữa các thành tố
với nhau, các thành tố có thể bao gồm hàng loạt các sự kiện, nó kết nối những
hiện tượng, quy luật lại với nhau trong quá trình phát triển.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện được các chức năng
của xã hội. Lý do là bởi văn hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh
vực. Từ đó có thể làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp và trang bị cho xã
hội những phương tiện cần thiết để ứng biến với mơi trường tự nhiên.
Nói cách khác, văn hóa xây lên nền tảng vững chắc cho sự phát triển
tiến bộ của xã hội. Có lẽ chính vì thế mà người ta thường gắn văn hóa với loại
từ “nền” để tạo thành cụm từ thơng dụng “nền văn hóa”.
Văn hóa có tính giá trị
Văn hóa khi được hiểu theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa là
tốt đẹp, là có giá trị. Người có văn hóa cũng chính là một người có giá trị. Do
đó mà văn hóa trở thành thước đo chuẩn mực cho con người và xã hội.
Văn hóa tự chính bản thân nó cũng mang trong mình những giá trị
riêng bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Xét về mặt ý nghĩa thì văn
hóa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức. Đứng

trên góc độ thời gian lại có thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu và giá trị
nhất thời.

5


Với mỗi góc độ khác nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác
nhau ta lại có thể có cái nhìn khác nhau. Từ những cái nhìn này, ta có thể
đánh giá văn hóa dưới những góc độ khách quan quan khác nhau.
Văn hóa có tính nhân sinh
Tính nhân sinh của văn hóa có nghĩa rằng văn hóa được coi như một
hiện tượng xã hội. Hiện tượng xã hội được hiểu là những hiện tượng do con
người sáng tạo ra hay còn gọi là nhân tạo, khác với các giá trị tự nhiên hay
còn gọi là thiên tạo. Chính vì là một thực thể có tính nhân sinh nên văn hóa
chịu tác động của cả vật chất lẫn tinh thần của con người.
Đồng thời, vì có tính nhân sinh nên văn hóa vơ tình trở thành sợi dây
liên kết giữa người với người, vật với vật và cả vật với người. Đó chính là ý
nghĩa nhân sinh sâu sắc nhất mà văn hóa hàm chứa.
Văn hóa có tính lịch sử
Văn hóa phản ánh q trình sáng tạo của con người trong một không
gian và thời gian nhất định. Chính vì thế mà văn hóa cũng gắn liền với chiều
dài lịch sử, thậm chí là văn hóa hàm chứa lịch sử. Tính lịch sử khiến cho văn
hóa mang đặc trưng có bề dày, có chiều sâu, có hệ giá trị. Nhờ có tính lịch sử
mà văn hóa cũng cần được duy trì, nói một cách khác đó là biến văn hóa trở
thành truyền thống văn hóa.
Văn hóa có tính lịch sử cao cần phải được tích lũy, được gìn giữ và
không ngừng tái tạo, chắt lọc những tinh hoa, khơng ngừng sản sinh và phát
triển để hồn thiện dưới dạng ngơn ngữ, phong tục,…
1.2.2. Chức năng của văn hóa:
Nhìn nhận một cách khái quát văn hóa có những vai trò chủ yếu sau:

i). Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mơ hình – con đường – thể
chế phát triển của một quốc gia – dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi của thể
chế chính trị thực sự “của dân, do dân và vì dân”. Xác lập mục tiêu bao trùm
6


của sự phát triển là vì con người; con người vừa là chủ thể vừa là mục tiêu
của sự phát triển. Các giá trị này thường được xác định, chế định trong cương
lĩnh của các Đảng cầm quyền, trong hiến pháp, pháp luật, chiến lược phát
triển của quốc gia…
ii). Là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của thể chế kinh tế, triết lý và
đạo đức kinh doanh thúc đẩy phát triển năng động, hiệu quả, hài hòa và bền
vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển bao trùm, “không để ai tụt
lại phía sau”. Xác lập hệ giá trị phát triển chung của quốc gia trong định
hướng phát triển dài hạn và trong những giai đoạn cụ thể. Hệ giá trị phát triển
đó được cụ thể hóa thành các giá trị phát triển trong các lĩnh vực con người,
chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái.
iii). Là cơ sở để xác lập các giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức
xã hội thượng tôn pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng quyền con người,
quyền công dân. Là cơ sở để tạo nên “sức mạnh mềm” trong phát triển.
iv). Là cơ sở để xác lập hệ giá trị phát triển cùng với cơ chế hoạt động
tương ứng của từng chủ thể trong xã hội (thể hiện những giá trị mà chủ thể đó
tuân theo và hướng tới); tạo động lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của
từng chủ thể cũng như toàn xã hội với tư cách là một hệ thống mở trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
v). Là cơ sở để xác lập hệ giá trị hợp tác và hội nhập quốc tế trên cơ sở
nguyên tắc đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên trên hết, đồng thời tơn trọng
các lợi ích chính đáng của các quốc gia – dân tộc khác, hợp tác bình đẳng
cùng phát triển và cùng có lợi, cùng bảo vệ các giá trị chung của nhân loại.
vi). Là cơ sở để xây dựng cơ chế liên kết – điều tiết sự phát triển thông

qua liên kết các giá trị giữa các chủ thể và trong toàn xã hội; hạn chế những
tác động tiêu cực trong quá trình phát triển.

7


II. NỘI DUNG NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
NỀN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Nhận thức về xây dựng, phát triển nền văn hóa của Đảng Cộng sản
Việt Nam từ Đại hội VI-VIII
2.1.1. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội VI
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã khẳng
định: “Quan hệ giữa vǎn hóa và kinh tế, chính trị...vǎn hóa là một trong ba
mặt trận (kinh tế, chính trị, vǎn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”.
Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động
khác, khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”.
Kế thừa những quan điểm đó, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập quốc tế, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng văn hóa trong chính trị và
kinh tế ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đánh dấu sự đổi mới toàn diện
tư duy lý luận của Đảng, trong đó có vấn đề phát triển văn hóa, xây dựng con
người. Vấn đề văn hóa biểu hiện cụ thể, gồm: sự nghiệp giáo dục, hoạt động
văn hóa, văn nghệ. Mặc dù chưa thể hiện rõ quan điểm xây dựng văn hóa
trong chính trị và kinh tế, nhưng Đại hội đã đặt vấn đề hiệu quả của hoạt động
văn hóa trong mọi hoạt động xã hội, trong đó có chính trị và kinh tế. Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội chỉ rõ: “Mỗi hoạt
động văn hố, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư

tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình
độ thẩm mỹ của nhân dân”.

8


2.1.2. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội VII
Tư tưởng đổi mới tư duy lý luận về phát triển văn hóa của Đảng đề ra
đúng vào lúc UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 1997) với định hướng lớn là văn hóa vì sự phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa
và đa dạng văn hóa. Sự thay đổi cách nhìn về vai trị của văn hóa là cực kỳ
quan trọng, thể hiện tầm nhìn, tầm tư duy bắt nhịp với xu thế thời đại. Tại Hội
Trung ương 4 khóa VII (năm 1993), Đảng đã nhìn nhận vai trị quan trọng của
văn hóa, coi “Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”
2.1.3. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội VIII
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ
động đổi mới tư duy, lãnh đạo tồn dân thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước, trong đó có văn hóa. Nghị quyết này thể hiện bước chuyển
quan trọng về tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi
mới; chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học. Các quan điểm
chỉ đạo nêu trong Nghị quyết thực sự đổi mới, có giá trị về cả lý luận và thực
tiễn. Trong đó, quan điểm văn hóa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ, khẳng định mối quan hệ
giữa văn hóa với chính trị và kinh tế. Nghị quyết khẳng định: “Xây dựng và
phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng, văn minh,
con người phát triển tồn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là
động lực của phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với
đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội,
luật pháp, kỷ cương…”. Có thể khẳng định rằng, Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển, hồn

thiện lý luận về văn hóa của Đảng, định hướng phát triển văn hóa trong trong
điều kiện đất nước hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa..
9


2.1.4. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội IX
Với tinh thần đổi mới tư duy lý luận, Đại hội IX của Đảng tiếp tục
khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,..” và “…
văn hóa… vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội”. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống lành mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu
quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam. Nghị quyết đã chỉ ra điều kiện
tiên quyết bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước là
dựa trên cơ sở phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.
Kết luận của Hội nghị chỉ rõ: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng
nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng
bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát
triển toàn diện và bền vững của đất nước”
2.1.5. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội X
Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển
sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Tinh thần cơ bản
của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục được khẳng định trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI của Đảng, đặc biệt, được
nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): Xây dựng nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng
định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân
10


văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển.
2.1.6. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội XI
Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, coi
“con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền
và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Đại hội đề
ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển tồn
diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ
pháp luật.
2.1.7. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội XII
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn
diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa và mục tiêu “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát

triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”(3). Việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng con người có bước chuyển biến quan trọng: Gắn nhiệm vụ xây dựng
văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây
dựng mơi trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình thành
những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý
11


thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên. Mục tiêu
được đề ra là: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học, trong đó, “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện”phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.
2.1.8. Nhận thức về xây dựng, phát triển văn hóa từ Đại hội XIII
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nhấn mạnh đến phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Quan
điểm này tiếp tục được khẳng địnhtrong các giai đoạn tiếp theo và các chương
trình hành động tương ứng được triển khai nhằm đạt mục tiêu đặt ra... Trong
đó, phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”được khởi
xướng và phát động từ năm 2000 với mục đích tạo dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh, giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống. Cùng với việc
phát động phong trào là việc thành lập ban chỉ đạo xuyên suốt từ Trung ương
đến địa phương để triển khai thực hiện.
Mặc dù phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã
góp phần ổn định an ninh chính trị, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành
mạnh, tiến bộ và giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được, phong trào vẫn còn những hạn chế. Đại hội
X của Đảng đã đánh giá: “Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi
trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia
tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà

nước về văn hóa cịn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa
phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất cập”;
phong trào triển khai chưa đồng đều; hoạt động của ban chỉ đạo ở một số địa
phương cịn nặng tính hành chính; cách thức triển khai phong trào cịn có
những điểmchưa phù hợp với thực tiễn, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra.

12


2.2. Thực trạng xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay
2.2.1. Một số thành tựu đạt được
Trước tiên, có thể thấy văn hóa Việt Nam có bề dày truyền thống mấy
nghìn năm lịch sử, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến cố thăng trầm
nên kết tinh và lắng đọng được nhiều giá trị tích cực, như truyền thống u
nước và lịng dũng cảm, khả năng thích ứng cao với sự thay đổi của hoàn
cảnh, sự khoan dung, tinh thần cộng đồng, sự nhân ái, lạc quan và hồn hậu,
trọng nghĩa tình, sự cần cù, siêng năng. Hiện nay, Việt Nam được bạn bè quốc
tế biết đến như một đất nước thanh bình, hiện đại, trẻ trung và năng động, một
thành viên tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế cho hịa bình và phồn
vinh chung trên tồn cầu.
Thứ hai, Việt Nam có nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc, được hình
thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dồi
dào, đa dạng về loại hình và có giá trị cao trên nhiều phương diện, được công
nhận cả ở tầm khu vực và quốc tế là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế, văn hóa và xã hội. Hệ thống di sản văn hóa phong phú, cảnh quan kỳ vĩ và
thơ mộng là những tài sản vô giá, có tiềm năng chuyển hóa thành những sản
phẩm, dịch vụ độc đáo, đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại
cũng như tạo dựng thương hiệu, vị thế của văn hóa Việt Nam.
Thứ ba, các văn bản pháp lý về quản lý văn hóa của nước ta từng bước
được hoàn thiện. Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật

được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt
động văn hóa phù hợp với tình hình mới. Nhiều luật quan trọng liên quan đến
văn hóa và các văn bản quy phạm pháp luật khác góp phần hồn thiện thể chế
văn hóa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Nhiều chiến lược ngành đã được
phê duyệt, làm căn cứ để triển khai các hoạt động văn hóa trong thực tiễn.
Thứ tư, chủ trương “xã hội hóa” hoạt động văn hóa đã thu được những
kết quả thiết thực, bước đầu huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Xã
13


hội hóa được coi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thu hút các
nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động sáng tạo,
cung cấp và phổ biến sản phẩm văn hóa, xây dựng cộng đồng trách nhiệm của
toàn xã hội vào sự nghiệp phát triển văn hóa, tạo điều kiện cho các hoạt động
văn hóa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa
của nhân dân.
Thứ năm, sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú,
đa dạng; có sự thể nghiệm nhiều phương thức, hình thức biểu đạt mới làm
phong phú thể loại, phong cách sáng tác và sản phẩm nghệ thuật với các đề
tài, chủ đề được mở rộng bên cạnh những nỗ lực bảo tồn và phát huy các loại
hình nghệ thuật truyền thống. Một số tác phẩm mỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh
đã nhận được giải thưởng cao trong nước và quốc tế; việc ứng dụng kỹ thuật
và công nghệ hiện đại vào việc sản xuất sản phẩm văn hóa từng bước được
thực hiện, nhiều dự án văn hóa nghệ thuật đã khuyến khích được những sáng
tạo mới của các cá nhân nghệ sĩ, thu hút sự quan tâm của giới trẻ và đưa ra
những cách nhìn mới về những vấn đề của cuộc sống đương đại.
Thứ sáu, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện là tiền đề
góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường tiêu dùng văn hóa với nhu cầu
ngày càng lớn. Văn hóa, từ một lĩnh vực bị xem là chủ yếu mang nặng yếu tố
tuyên truyền đang dần trở thành một lĩnh vực có giá trị kinh tế, mang lại lợi

nhuận cho xã hội. Đặc biệt, hoạt động du lịch được đẩy mạnh, trong đó tiềm
năng văn hóa được khai thác và tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch Việt Nam,
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân
địa phương.
Thứ bảy, hợp tác quốc tế về văn hóa được đẩy mạnh, góp phần tăng
cường quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam ra thế
giới, tạo nên “sức mạnh mềm” cho đất nước. Giao lưu văn hóa với nước ngồi
ngày càng được mở rộng cùng với q trình đa phương hóa, đa dạng hóa các
14


mối quan hệ quốc tế của Nhà nước ta, góp phần tăng cường tình hữu nghị, sự
hiểu biết lẫn nhau, quảng bá cho hình ảnh đất nước, con người, văn hóa nghệ thuật Việt Nam đến với bạn bè thế giới.
Thứ tám, công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát
triển mạnh. Hạ tầng mạng lưới viễn thông, In-tơ-nét tiếp tục được đầu tư phát
triển mạnh mẽ. Hoạt động của các cơ quan thông tấn báo chí cũng có nhiều
đổi mới, tích cực hội nhập, học hỏi kinh nghiệm truyền thơng của thế giới, có
những bước phát triển vượt bậc, thông tin đa chiều, nội dung phong phú, góp
phần nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ, giúp người dân tiếp cận nhanh với
những tri thức mới của nhân loại, nâng cao năng suất lao động và chất lượng
cuộc sống.

2.2.2. Một số hạn chế trong quá trình phát triển văn hóa
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì văn hóa nước ta
thời gian qua còn tồn tại một số hạn chế.
Một là, tư duy quản lý văn hóa chưa theo kịp sự phát triển của xã hội.
Dấu ấn của tư duy bao cấp, “xin cho”, tư duy hành chính - mệnh lệnh, tác
nghiệp vẫn còn nặng nề. Hiện nay các cơ quan quản lý vẫn cịn ơm đồm nhiều
cơng việc “làm văn hóa” hoặc bị sa đà vào các hoạt động văn hóa cụ thể, các
công việc sự vụ, phong trào mà chưa thực sự phát huy được đầy đủ trách

nhiệm, vai trò của xã hội, của cộng đồng, doanh nghiệp và các hiệp hội nghề
nghiệp. Cơ chế quản lý vẫn chủ yếu mang tính tập quyền; tính chất phân
quyền, phi tập trung hóa chưa cao. Các chủ trương, đường lối, kế hoạch phát
triển văn hóa phần lớn được xác định và xây dựng từ cấp vĩ mô tỏa xuống các
cấp vi mô, không được đề xuất và xây dựng từ dưới lên, từ thực tiễn cơ sở.
Pháp luật chưa trở thành công cụ tối thượng để điều tiết, kiểm soát, điều chỉnh
đời sống văn hóa.
15


Hai là, Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi tiếp diễn, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn đang trong q trình hồn
thiện, điều kiện khoa học, kỹ thuật của đất nước, nguồn nhân lực... còn nhiều
hạn chế. Kinh tế phát triển chưa bền vững, có những ảnh hưởng đến sự phát
triển các mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Thể chế văn
hóa cịn chậm đổi mới, thiếu đồng bộ. Việc ban hành luật vẫn còn những yếu
kém. Một số văn bản quản lý vừa được ban hành đã có những bất cập, địi hỏi
phải điều chỉnh, bổ sung. Việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về văn hóa cịn yếu nên nhiều quy phạm pháp luật chưa thực sự đi vào
cuộc sống. Việc thực thi nhiều quy định của pháp luật liên quan đến văn hóa
cịn lúng túng.
Ba là, nguồn nhân lực cho sự phát triển văn hóa cịn yếu và thiếu các kỹ
năng chuyên môn và quản lý, đặc biệt là năng lực đổi mới sáng tạo, các kỹ
năng quản trị kinh doanh. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý về văn hóa ở các
cấp khơng theo kịp sự phát triển phong phú, đa dạng, và phức tạp của hoạt
động văn hóa, dẫn tới lúng túng trong hoạch định chính sách, trong hướng dẫn
tổ chức thực hiện, trong xử lý các vụ, việc vi phạm pháp luật và các chính
sách về văn hóa.
Bốn là, đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trị, vị trí của văn
hóa trong phát triển. Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân

sách tương đối thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với thực tiễn,
chưa đồng đều. Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn
hóa nhìn chung cịn kém phát triển và trong tình trạng xuống cấp, chắp vá,
thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng cịn thấp. Cơng tác quy hoạch, đầu tư phát
triển thiết chế văn hóa trọng điểm cịn chậm. Hệ thống thiết chế văn hóa vùng
nơng thơn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự
phù hợp với đặc điểm vùng, miền, với nhu cầu và nguyện vọng của người
dân; nội dung hoạt động còn nghèo nàn, chưa thiết thực.
16


Năm là, chất lượng dịch vụ, sản phẩm văn hóa chưa cao; cịn thiếu các
thương hiệu văn hóa ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế, thiếu những sản
phẩm văn hóa có chất lượng cao, góp phần bồi bổ tâm hồn, xây dựng nhân
cách, giáo dục đạo đức. Tình trạng nhập khẩu, nhập siêu sản phẩm văn hóa
nước ngoài vào Việt Nam vượt trội so với xuất khẩu văn hóa, việc tiếp thu sản
phẩm văn hóa nước ngồi cịn thiếu chọn lọc. Các sản phẩm văn hóa Việt
Nam vẫn chưa thực sự sáng tạo, phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của
công chúng, năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế
còn thấp.
III. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN NỀN
VĂN HÓA, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1. Cơ hội và thách thức đặt ra với sự phát triển văn hóa Việt Nam
những năm sắp tới
3.1.1. Cơ hội đặt ra với sự phát triển văn hóa Việt Nam
Q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp văn hóa Việt Nam có
được cơ hội quảng bá rộng rãi trên thế giới. Văn hóa Việt Nam phát triển
trong bối cảnh cơng nghệ thơng tin có những bước phát triển như vũ bão, tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng mở ra khả năng giao lưu, hợp tác và phát

triển toàn diện về văn hóa, nâng cao cơ hội quảng bá văn hóa Việt Nam ra
tồn thế giới. Khoa học - cơng nghệ, truyền thông đại chúng phát triển mang
đến cho người dân khả năng sáng tạo và thụ hưởng các sản phẩm văn hóa mới
nhanh chóng, hiệu quả và có tính tương tác cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế số tạo ra những
thuận lợi cho sự phát triển văn hóa Việt Nam, giúp chúng ta khai thác tiềm
năng kinh tế của văn hóa trên mơi trường số. Công nghệ số, in-tơ-nét phát
triển kéo theo khả năng tiếp cận các nội dung văn hóa trở nên dễ dàng và
không bị giới hạn bởi các đường biên giới quốc gia, điều này cũng đòi hỏi sự
17


khác biệt, độc đáo trong nội dung, ý tưởng của các sản phẩm văn hóa như là
một ưu thế cạnh tranh quan trọng. Các nước phát triển trên thế giới đang
chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, cơng nghệ số hóa và
sự số hóa các nội dung văn hóa. Những thay đổi này đã đem lại những cơ hội
lớn về khả năng giảm thiểu chi phí sản xuất, góp phần tạo ra các kênh phân
phối, quảng bá sản phẩm mới, đòi hỏi những hành động nhạy bén và sự thích
ứng liên tục với sự thay đổi của môi trường.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và
đang tạo ra sự tích cực xã hội và tích cực văn hóa cho người dân, là cơ hội
thúc đẩy tinh thần tự quản, năng lực làm chủ của nhân dân trong việc tổ chức
các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Người dân ngày càng được khuyến khích
tham gia vào các hoạt động xã hội và hoạt động văn hóa với tư cách như
những nhân tố chủ động, từ hoạch định đến đánh giá các vấn đề xã hội và văn
hóa, thậm chí là người đồng kiến tạo xã hội và văn hóa cùng với bộ máy nhà
nước. Yếu tố nội sinh của sự phát triển xã hội và văn hóa được tăng lên cao,
phần nào đó thể hiện vai trị tăng lên của người dân so với Nhà nước trong
nhiều vấn đề xã hội và văn hóa.
Chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tích cực, tồn diện của Đảng và

Nhà nước tạo điều kiện cho văn hóa Việt Nam hội nhập và phát triển. Trong
bối cảnh tồn cầu hóa, với đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, văn hóa Việt Nam có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức, các nguồn
lực và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và
sáng tạo những giá trị văn hóa mới. Đặc biệt, cơng nghiệp văn hóa đang được
định hướng là một trong những ngành trụ cột của kinh tế. Kinh tế đang trên đà
phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện đã hình thành nên một thị trường
tiêu dùng/hưởng thụ văn hóa với nhu cầu ngày càng lớn, là cơ sở quan trọng
thúc đẩy văn hóa phát triển.

18



×