Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vai trò của nguyễn ái quốc trong việc thành lập đảng cộng sản việt nam giải pháp xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.53 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN MÔN ……
ĐỀ TÀI:
S

HỌ VÀ TÊN:
MSSV:
LỚP TC:
GV HƯỚNG DẪN:.

HÀ NỘI , THÁNG 12 NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VỀ TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ VÀ TỔ CHỨC
CHO SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG..................................................................2
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam....................2
1.1.1. Quan điểm chung của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam.......................................................................................................2
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam....3
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình thành Đảng cộng sản Việt
Nam...........................................................................................................6
1.2.1. Cơ sở lý luận...............................................................................6
1.2.2. Cơ sở thực tiễn............................................................................7
1.3. Sự chuẩn bị về mặt tổ chức cho quá trình thành lập Đảng..........9
1.3.1. Sự thành lập An nam cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản
đảng.....................................................................................................10


1.3.2. Từ Tân Việt cách mạng Đảng đến Đông Dương cộng sản liên
Đồn....................................................................................................10
II. VAI TRỊ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ VẬN DỤNG NHẰM XÂY
DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH......................................11
2.1. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng
.................................................................................................................11
2.1.1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc ta.......................................................................11
i


2.1.2. Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng........12
2.1.3. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản........................................................................................................12
2.2. Một số hạn chế trong công tác xây dựng Đảng trong sạch và
vững mạnh.............................................................................................13
2.2.1. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói
chung vẫn cịn nhiều hạn chế cần khắc phục......................................13
2.2.2 Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng và
hệ thống chính trị nói chung cịn nhiều bất cập, chậm được đổi mới. 14
2.2.3. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên..........................................15
2.2.4. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật đảng còn những hạn chế...............................................................16
2.3. Một số giải pháp đối với sinh viên nhằm xây dựng Đảng vững
mạnh và trong sạch...............................................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20


ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Đảng ta ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đảng ra
đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng lãnh đạo cách mạng nước ta kéo dài hàng
mấy chục năm trời. Cách mạng Việt Nam đã có một chính đảng chân chính
duy nhất lãnh đạo - chính đảng của giai cấp cơng nhân. Đó là nhân tố quyết
định đầu tiên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Và ngày nay, nước ta
đang tiến hành đổi mới, cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước, hồ nhập
với các nước trên thế giớidưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam cùng những thắng lợi của cách
mạng gắn liền với tên tuổi của Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện Đảng. Qua tiến trình lịch sử, sự chuẩn bị về tư tưởng, đường lối và công
tác tổ chức của Hồ chủ tịch là những bằng chứng lịch sử hùng hồn nói lên vai
trị khơng thể thiếu của Hồ chủ tịch trong q trình thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam. Có thể nói Người là ngọn đuốc sói sáng cho con đường độc lập, tự
do của dân tộc, là người tiên phong trên con đường độc lập, thống nhất đất
nước. Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh đã, sẽ và vẫn mãi
là đường lối cách mạng khoa học sáng tạo, mang tầm lịch sử và trường tồn
cùng sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam.
Với đề tài: “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
trong giai đoạn hiện nay”, tác giả muốn tìm hiểu kĩ hơn về vai trò lịch sử
của Người trong sự nghiệp cách mạng của đất nước.

1



PHẦN II: NỘI DUNG
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VỀ TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ VÀ TỔ
CHỨC CHO SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam
1.1.1. Quan điểm chung của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
Thể hiện tư tưởng này, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng “trước hết
phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi
thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi”. Hồ Chí
Minh giải thích: “cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo,
Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải
dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ
mục đích gì mà đấu tranh, chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng...". Vì
theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của “cả dân chúng chứ không phải của
một hai người”, nhưng sức mạnh của dân chúng chỉ trở thành vô địch và
“không một quân lính, súng ống nào thắng nổi” khi được giác ngộ, được tổ
chức, được lãnh đạo.
Đảng cách mạng là Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Trong Đường cách mệnh, Nguyễn Ái
Quốc đã mở đầu bằng một câu theo ý của Lê nin: “Khơng có lý luận cách
mệnh, thì khơng có cách mệnh vận động... chỉ có lý luận cách mệnh tiền
phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.
Người đã chỉ rõ: “ Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có
chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” và
Người cho rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê nin”.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ rằng: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm
cốt” khơng có nghĩa là giáo điều theo từng câu từng chữ của Mác, của Lê nin,
2



mà như Hồ Chí Minh nói, là nắm vững tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm
vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh
nghiệm các nước, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để
đưa ra đường lối chính sách đúng đắn cho cách mạng. Với tinh thần độc lập,
tự chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chuẩn mực cho mọi người
cách mạng về sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết
thành công vấn đề cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng thế giới đặt ra.
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cùng với việc làm sáng tỏ vị trí, vai trị quyết định của Đảng cộng sản
với cách mạng Việt Nam và bản chất giai cấp công nhân của Đảng, để xây
dựng được Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh, lãnh đạo thắng lợi sự
nghiệp cách mạng, Người cũng chỉ rõ những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ: đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây
dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức
mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức mạnh của tất cả ai đã tự nguyện gắn
bó với nhau trong một tổ chức. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai
mặt có mối quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân
chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải dân chủ theo
kiểu phân tán, vô tổ chức. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, chứ không phải
tập trung quan liêu, theo kiểu độc đốn chun quyền. Cịn về dân chủ, Người
phân tích, đó là cái q báu nhất của nhân dân, là thành quả của cách mạng.
Người viết “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do
theo Người, đó là đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là nghĩa vụ của
mọi người.

3



Bên cạch đó, Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh phải chú ý thực hành dân
chủ rộng rãi trong Đảng, Người khơng đối lập hai mặt đó của một ngun tắc
và chỉ rõ: Tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập
trung.
- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: đây là nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm sửa đổi lề lối làm việc, Người đã phân
tích rất rõ về nguyên tắc này: một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thấy
hết mọi mặt của vấn đề, càng không thể thấy hết mọi việc, hiểu hết được mọi
chuyện. Vì vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người
thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó họ hiểu
được mọi mặt, mọi vấn đề. Cá nhân phụ trách việc gì đã được tập thể bàn bạc
kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, như
thế cơng việc mới chạy, mới tránh được thói dựa dẫm, ỷ vào người khác, ỷ
vào tập thể, không xác định rõ cá nhân phụ trách thì giống như “nhiều sãi
khơng ai đóng cửa chùa”. Theo Người, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách
cần phải luôn đi đôi với nhau, liên hệ với vấn đề dân chủ tập trung; lãnh đạo
khơng tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đốn, chủ quan; phụ trách
khơng do cá nhân thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn xộn vơ chính phủ. Kết quả là
hỏng việc.
- Ngun tắc tự phê bình và phê bình: đây là nguyên tắc sinh hoạt
Đảng, là quy luật phát triển Đảng, vì Người cho rằng mỗi đảng viên trước hết
phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, cũng giống
như phải tự soi gương rửa mặt hàng ngày.
Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống
nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”.
Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm
làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn, và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn.
Người đã thẳng thắn vạch rõ: “Một Đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình

4


là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch
rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra
khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một
Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Tự phê bình và phê bình không những là vấn đề của khoa học cách
mạng, mà cịn là nghệ thụật cách mạng, vì vậy, Người lưu ý cán bộ, đảng viên
và các cấp bộ Đảng trừ trên xuống dưới khơng những phải “ln ln dùng”
mà cịn “khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”; cán bộ càng cao, trách
nhiệm càng lớn phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Muốn thực hiện tốt
nguyên tắc này đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân
mình cũng như với người khác, “phải có tính đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Người cũng phê phán những thái độ lệch lạc trong tự phê bình và phê bình,
như: thiếu trung thực, che dấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, khơng
dám phê bình, nể nang né tránh, dĩ hòa vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê
bình để nói xấu, bơi nhọ, vùi dập, đả kích người khác...
- Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác: sức mạnh vô địch của
Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ
đảng viên. Từ việc phải tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương
vị nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật
của Nhà nước, tuyệt đối khơng được ai cho phép mình coi thường, thậm chí
đứng trên tất cả. Ý thức kỷ luật đó là ý thức của giai cấp công nhân, ý thức
của Đảng của giai cấp công nhân. Việc đề cao ý thức kỷ luật đó đối với mọi
cán bộ, đảng viên từ trên xuống dưới chỉ làm tăng thêm uy tín của Đảng;
ngược lại, nếu ý thức kỷ luật đó thấp, nếu cán bộ, đảng viên càng nhiều vi
phạm kỷ cương phép nước, tự cho mình là người lãnh đạo, coi thường kỷ luật
thì uy tín của Đảng ngày càng thấp, đưa đến những nguy cơ cho Đảng.
- Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng: Hồ Chí Minh đặc biệt

quan tâm đến việc xây dựng mối đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như
5


xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Để xây dựng đoàn kết thống nhất trong
Đảng, Người thường nêu những yêu cầu, như: phải thực hành và mở rộng dân
chủ trong nội bộ để mọi bộ cán bộ, đảng viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi
đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng; phải thường xuyên tu dưỡng đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ
nghĩa cá nhân mà ra, như: tham ơ, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá,
chạy theo chức, quyền, danh, lợi...
Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam và xây dựng Đảng cầm quyền, là đường hướng, phương châm
khoa học, cách mạng, để Đảng và Nhân dân ta xây dựng Đảng của mình trở
thành Đảng cách mạng chân chính, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu cao, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trong
xu thế mới của đất nước và thời đại đặt ra cho vai trị lãnh đạo của Đảng
những nhiệm vụ mới. Đó là lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN.
Đây vừa là điều kiện thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn thách thức đối với
sự lãnh đạo của Đảng. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải vận dụng sáng tạo và
giữ vững những nguyên tắc trong tư tưởng của Người về xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình thành Đảng cộng sản Việt
Nam
1.2.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình xây dựng học thuyết về cách mạng vô sản, c. Mác và
Ph. Ăngghen chú ý tới việc thành lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư
bản chủ nghĩa để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động lật đổ chế
độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được
đặt ra như một vấn đề bức thiết, Lênin phát triển nhiều luận điểm của c. Mác
6


về cách mạng trong điều kiện các nước thuộc dịa. Luận điểm về Đảng kiểu
mới của Lênin không chỉ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng
giai cấp vơ sản rồi giải phóng quần chúng lao động, giải phóng con người mà
cịn nhằm trước hết giải phóng dân tộc rồi giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Lênin nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa
trong việc giải quyết quyền lợi giai cấp gắn liền với quyền lợi dân tộc: giải
quyết vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ trên lập trường cách mạng triệt để của
giai cấp vô sản.
Năm 1919. V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản bộ
tham mưu của giai cấp vô sản thê giới. Từ đây, cùng với lý luận của Lênin,
Quốc tế Cộng sản đóng vai trị quan trọng thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ tìm thấy ở đây
con đường cứu nước đúng đắn, mà còn nhận thức được sự cần thiết phải có
một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vơ sản. Cuối tháng 12-1920, Người đã tán thành Quốc
tế III và là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp. Đây là sự phát triển lơgích tất yếu của tư duy Nguyễn Ái Quốc từ khi ra
đi tìm đường cứu nước và đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác
- Lênin.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước
thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất
nước ta.

Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ
máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của
giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự
7


cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ
thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết
quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã
man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn
cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đơng Dương vì lợi ích của giai cấp
tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm
hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân
ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế
Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích
văn hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối,
dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã
hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ
thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến
tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp.
Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân
tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ
chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai

không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam
đặt ra, cần được giải quyết.
8


Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân
tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh
anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta
liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng
trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh
hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân,
phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy
Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn
Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng
anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được
con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu
tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta
lúc bấy giờ.
1.3. Sự chuẩn bị về mặt tổ chức cho quá trình thành lập Đảng
Tháng 6-1925, Hồ Chí Minh thành lập ra Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí hội ở Quảng Châu Trung Quốc, xuất bản tuần báo Thanh niên
làm cơ quan tuyên truyền của Hội, lấy tổ chức đoàn làm nòng cốt. Từ năm
1926, các tổ chức cơ sở trong nước của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội phát triển, đến năm 1929 khắp cả nước đều có cơ sở này. Việc ra đời

tổ chức thanh niên này đã có tác dụng hết sức to lớn trong việc lãnh đạo Cách
mạng Việt Nam. Thông qua hoạt động của hội, chủ nghĩa Mác- Lênin đã
được tiếp tục truyền bá trong nước một cách sâu rộng, phong trào Cách mạng
nước ta phát triển sôi nổi, một đội ngũ những người cách mạng kiểu mới do
9


Nguyễn ái Quốc đào tạo đã trưởng thành và ngay càng vững mạnh. Dưới sự
tác động của tổ chức thanh niên, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã có những chuyển biến sâu sắc. Phong trào cơng nhân đã chuyển dần
từ tự phát sang mang tính chất tự giác. Nhưng trước sự lớn mạnh của phong
trào Cách mạng, tổ chức thanh niên khơng cịn đủ sức lãnh đạo và bị phân hố
một cách sâu sắc bởi những hồn cảnh hiện tại. Đây chỉ là những bước chuẩn
bị cho thành lập một chính đảng của giai cấp vơ sản sau này.
1.3.1. Sự thành lập An nam cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản đảng.
Tại Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội đầu tháng 5- 1929 đã xảy ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh
vấn đề thành lập đảng cộng sản. Đồn đại biểu Bắc kì đã rút khỏi đại hội.
Ngày 17- 6- 1929, tại số nhà 312 Khâm Thiên, Hà Nội, các cơ sở cộng sản ở
miền Bắc đã họp và ra quyết định lập Đông Dương cộng sản đảng, thông qua
tuyên ngôn điều lệ đảng và cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời của
Đảng. Tiếp đó, ngày 25- 7- 1929 An Nam cộng sản đảng được thành lập, với
một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc và nhiều chi bộ hoạt động ở Nam Kỳ.
Tuy sự ra đời của hai tổ chức cộng sản này là riêng rẽ, chưa có sự thống
nhất, thậm chí đơi khi cịn cơng kích lẫn nhau, song nó cũng đã thể hiện sự
phát triển vượt bậc trong phong trào công nhân trên con đường tiến tới tự
giác, sự lớn mạnh trong phong trào cách mạng, một xu thế tất yếu khách quan
và phù hợp với xu thế của thời đại.
1.3.2. Từ Tân Việt cách mạng Đảng đến Đông Dương cộng sản liên Đoàn
Tân Việt cách mạng đảng ra đời do sự phân hố trong nội bộ các nhóm

tiểu tư sản yêu nước trong cuộc đấu tranh trên đường lối cách mạng vô sản và
tư sản. Trong khoảng thời gian từ 1926 tới 1929, nhiều lần Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội bàn tới việc hợp nhất với Việt Nam cách mạng
đảng nhưng không thành công. Bởi vậy, 14- 7 1928 Việt Nam cách mạng
đảng họp ở Huế và quyết định thành lập đảng tự lập tên là Tân Việt cách
10


mạng đảng. Trong Tân Việt xuất hiện hai khuynh hướng là tư tưởng cách
mạng và cải lương, cuối cùng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế.
Thành phần bao gồm một số ngả sang Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội, một số lập thành một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa MácLênin.
Tháng 9 năm 1929, bộ phận tiên tiến của Tân Việt cách mạng đảng tự
cải tổ thành Đơng Dương cộng sản liên đồn. Với tư cách là một chính đảng
cách mạng vơ sản, mục tiêu cơ bản của Đơng Dương cộng sản liên đồn là
giành độc lập hồn tồn cho xứ Đơng Dương, xây dựng chế độ cơng nơng
chun chính và tiến lên cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy là trong vịng khơng đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 9 năm
1929, đã có ba tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập.
Sự ra đời nhanh chóng của các tổ chức đảng lúc bấy giờ phản ánh xu thế tất
yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam. Song sự tồn tại ba đảng hoạt động
biệt lập này có nguy cơ dẫn đến một sợ chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của
cách mạng Việt Nam là phải có một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước.
Và khơng ai khác, chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người thực hiện sứ mệnh
lịch sử này.

II. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH
LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ VẬN DỤNG NHẰM
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
2.1. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng

Vai trò to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam được thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau:

11


2.1.1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước đã diễn ra
tuy nhiên các phong trào yêu nước này lại thất bại, song nguyên nhân chính là
thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng khoa học dẫn đường, chưa
có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và nhất là chưa có một
tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bằng lịng u nước mãnh liệt và tầm nhìn sáng suốt của mình, Nguyễn
Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước, sau gần 10 năm nghiên cứu, khảo
nghiệm, học tập, tìm tịi, hoạt động không ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu
khắp các châu lục. Tháng 7/1920, lần đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng
trên báo Nhân Đạo số ra ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự
chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng
đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con
đường cách mạng vô sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc
để tiến tới giải phóng con người.
2.1.2. Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong
nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước.
Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước
đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng
của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong

các lớp huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh.
Cùng với đó, Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức
cho sự ra đời của chính đảng vơ sản của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Đó là
huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở
12


Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75
đồng chí.
Trong những năm 1928 – 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa
Mác – Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá
về trong nước, cùng với phong trào “vơ sản hố” đã làm chuyển biến phong
trào công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự
giác.
2.1.3. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người
sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày
07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã
được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Với sự nhất trí cao, Hội
nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương
vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các
văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
2.2. Một số hạn chế trong công tác xây dựng Đảng trong sạch và vững
mạnh
2.2.1. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung

vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế,
khuyết điểm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị:
Việc tổ chức thực hiện một số nghị quyết của Đảng vẫn là khâu yếu. Cơng tác
tư tưởng cịn có mặt hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Một
13


bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, thiếu gương mẫu. Tự phê bình và
phê bình ở nhiều nơi cịn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là
của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng. Việc hồn thiện mơ
hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình thực
tiễn cịn chậm, chưa đáp ứng u cầu.
Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động
ở một số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra; cá biệt có nơi
cịn nóng vội, chưa có bước đi vững chắc. Tinh giản biên chế mới tập trung
giảm số lượng, chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng vị trí việc làm cịn nhiều lúng
túng, tiến độ triển khai còn chậm so với mục tiêu đề ra. Năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp
thời. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ tồn tâm, tồn ý
với cơng việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ,
dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử
thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
2.2.2 Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng và hệ
thống chính trị nói chung cịn nhiều bất cập, chậm được đổi mới
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương
pháp, cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lối… mà Đảng
sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi cương
lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã
thẳng thắn nhìn nhận: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền
lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa
cao. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng
thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thởi. Việc ban hành nghị
14


quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi;
việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu
quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc bng
lỏng vai trị lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”.
Có thể thấy, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền trách
nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước chưa thực sự
rõ ràng. Chưa có sự phân định thật rõ quyền hạn, trách nhiệm giữa Bộ Chính
trị, Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội và Ban Cán sự Đảng Chính phủ, cũng
như giữa ban thường vụ, thường trực cấp ủy với ban cán sự đảng ủy ban nhân
dân, đảng đoàn hội đồng nhân dân ở địa phương. Các quy chế phối hợp đã có,
nhưng vẫn cịn tình trạng chung chung, khó triển khai trong thực tiễn. Cùng
với đó, việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu cơ quan nhà nước còn
chưa thật rạch ròi và còn thiếu thống nhất, gây nên những chồng chéo, lúng
túng nhất định trong chỉ đạo, điều hành ở các địa phương, cơ quan, đơn vị.
2.2.3. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
Đảng ta là đảng cầm quyền, đội ngũ đảng viên nắm giữ hầu hết các vị
trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, có quyền lực rất lớn và đi liền với đó là
nguy cơ tha hóa quyền lực, quan liêu, tham nhũng, biến chất, rơi vào chủ
nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm” cũng rất cao. Trên thực tế, những biểu hiện suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên, kể cả ở cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao còn nhiều diễn biến tinh vi,
phức tạp, khó lường.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay đã “làm tổn thương tình
cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng”, nếu không bị ngăn
chặn, đẩy lùi, thì đây sẽ “là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của
15


Đảng và chế độ”. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của
Đảng đã xác định đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ là một nhiệm vụ trọng tâm của
công tác xây dựng Đảng.
Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận
cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu, trước hết là do bản thân
những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá
nhân, không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ. Do vậy, muốn ngăn
chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
thì phải bắt đầu từ việc cán bộ, đảng viên “tự soi, tự sửa”. “Tự soi, tự sửa” là
việc mỗi người phải nghiêm túc tự kiểm điểm, tự nhìn lại mình; cái gì tốt thì
phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự
sửa chữa.
2.2.4. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
đảng còn những hạn chế
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, kết quả đã đạt được, cơng tác
kiểm tra, giám sát của Đảng hiện vẫn cịn những hạn chế. Khơng ít địa
phương, cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm tra, giám sát cịn chiếu lệ, hình thức,
chưa quyết liệt, nên hiệu quả chưa cao, chưa đủ sức răn đe; đấu tranh với vi
phạm vẫn cịn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy, không nghiêm túc. Một

số tổ chức đảng còn tỏ ra bị động trong phát hiện tiêu cực; công tác kiểm tra,
giám sát chỉ được thực hiện khi có đơn tố cáo, thiếu kiểm tra chấp hành và
giám sát thường xuyên, đã làm cho vai trị, uy tín của cấp ủy và tổ chức chính
quyền bị giảm sút; nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, vi phạm kỷ luật, nhưng
chỉ được phát hiện bởi báo chí, truyền thơng, chứ khơng phải do tổ chức đảng
hay cơ quan kiểm tra, giám sát... Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng
đầu cấp ủy chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, giám sát; chưa kịp

16


thời lãnh đạo, chỉ đạo; việc xác định nội dung kiểm tra, giám sát còn dàn trải,
chưa đi vào những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm
kỷ luật đảng. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần
được nhận diện và nhanh chóng khắc phục.
2.3. Một số giải pháp đối với sinh viên nhằm xây dựng Đảng vững mạnh
và trong sạch
Tính đến cuối năm 2020, số lượng đảng viên trong toàn Đảng là hơn
5,2 triệu đảng viên thì số lượng đảng viên là sinh viên chiếm 0,55% trong
tổng số đảng viên (28.769 đảng viên) - đây là tỷ lệ khơng cao. Vì vậy, phương
hướng phát triển đảng viên trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong
thời gian tới là cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phát triển đảng
viên mạnh cả về “chất lượng” và “số lượng”.

Theo đó, cần quán triệt và nắm vững các quan điểm về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết
Trung ương 4 (khoá XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) và Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các quy định, hướng dẫn

của các tổ chức có liên quan về công tác phát triển đảng viên. Đồng thời, phải
xuất phát từ thực trạng và có tính tốn kỹ lưỡng những yếu tố tác động đến
phát triển đảng viên trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng nên phương
hướng phát triển đảng viên trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong
thời gian tới cần tập trung là:
Một, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng,
đội ngũ đảng viên và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm phát huy sức mạnh
17



×