MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM..........................................................................................2
1.1. Khái quát sự ra đời và cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình
thành Đảng cộng sản Việt Nam...........................................................2
1.1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình thành Đảng cộng sản
Việt Nam...............................................................................................2
1.1.2. Quá trình hình thành Đảng cộng sản Việt Nam..........................5
1.2. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 8
1.2.1. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản:............................................8
1.2.2. Vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản...........................................9
1.3. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân......................................................................................................10
1.3.1. Đảng là đại diện cho lợi ích, lý tưởng của giai cấp cơng nhân và
lợi ích của quốc gia - dân tộc..............................................................10
1.3.2. Đảng là kết tinh của giai cấp công nhân và gắn bó với quần
chúng...................................................................................................11
1.3.3. Đảng ln tiên phong trong hoạt động thực tiễn và lý luận......12
CHƯƠNG II: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HƯỚNG ĐẾN LỢI
ÍCH CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN, NHÂN DÂN LAO ĐỘNG VÀ
CẢ DÂN TỘC............................................................................................14
2.1. Những yêu cầu mới từ bối cảnh hiện nay..................................14
i
2.2. Thực trạng về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm
đảm bảo lợi ích giai cấp hiện nay.......................................................16
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong công tác đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và dân tộc..............................................................................20
2.3.1. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói
chung vẫn cịn nhiều hạn chế cần khắc phục......................................20
2.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng và
hệ thống chính trị nói chung cịn nhiều bất cập, chậm được đổi mới. 21
2.2.3. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật đảng còn những hạn chế...............................................................23
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO LỢI ÍCH CỦA
GIAI CẤP CƠNG NHÂN, NHÂN DÂN LAO ĐỘNG VÀ CẢ DÂN
TỘC ĐỐI VỚI ĐẢNG..............................................................................23
3.1. Tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của
Đảng......................................................................................................23
3.2. Môt số giải pháp khác..................................................................26
3.2.1. Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả.......................................................................26
3.2.2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với Nhà nước trong điều kiện
mới.......................................................................................................26
3.2.3. Đẩy mạnh thực hành dân chủ trong Đảng, xây dựng văn hóa
Đảng là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh...........................................................................................27
ii
3.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan của
Đảng, Nhà nước, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. .28
3.2.5. Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng với thanh tra...................................................................28
3.2.6. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. 29
KẾT LUẬN....................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................31
iii
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Là người sáng lập, Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục và rèn luyện
Đảng ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng cơng tác xây dựng Đảng cả
về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức. Bắt nguồn từ học thuyết của Mác về
Đảng cộng sản và trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân đã được Lê nin đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ XX, Nguyễn Ái
Quốc đã tiếp thu có chọn lọc và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
về Đảng cộng sản, đồng thời chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho sự ra đời của Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản Việt Nam. Những luận
điểm của Người về Đảng cộng sản và xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều
kiện Đảng cầm quyền là một phần rất quan trọng, vì theo Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu, để đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi.
Thể hiện tư tưởng này, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng “trước hết
phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi
thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Hồ Chí
Minh giải thích: “cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo,
Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải
dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ
mục đích gì mà đấu tranh, chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng...". Vì
theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của “cả dân chúng chứ không phải của
một hai người”, nhưng sức mạnh của dân chúng chỉ trở thành vơ địch và
“khơng một qn lính, súng ống nào thắng nổi” khi được giác ngộ, được tổ
chức, được lãnh đạo. Nắm bắt được điều đó, tác giả đã chọn đề tài “ Đảng
cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả
dân tộc” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.
1
2
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Khái quát sự ra đời và cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình thành
Đảng cộng sản Việt Nam
1.1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hình thành Đảng cộng sản Việt Nam
Cơ sở lý luận
Trong quá trình xây dựng học thuyết về cách mạng vô sản, c. Mác và
Ph. Ăngghen chú ý tới việc thành lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư
bản chủ nghĩa để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động lật đổ chế
độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được
đặt ra như một vấn đề bức thiết, Lênin phát triển nhiều luận điểm của c. Mác
về cách mạng trong điều kiện các nước thuộc dịa. Luận điểm về Đảng kiểu
mới của Lênin không chỉ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng
giai cấp vơ sản rồi giải phóng quần chúng lao động, giải phóng con người mà
cịn nhằm trước hết giải phóng dân tộc rồi giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Lênin nhấn mạnh vai trị của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa
trong việc giải quyết quyền lợi giai cấp gắn liền với quyền lợi dân tộc: giải
quyết vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ trên lập trường cách mạng triệt để của
giai cấp vô sản.
Năm 1919. V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản bộ
tham mưu của giai cấp vô sản thê giới. Từ đây, cùng với lý luận của Lênin,
Quốc tế Cộng sản đóng vai trị quan trọng thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ tìm thấy ở đây
con đường cứu nước đúng đắn, mà còn nhận thức được sự cần thiết phải có
3
một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vơ sản. Cuối tháng 12-1920, Người đã tán thành Quốc
tế III và là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp. Đây là sự phát triển lơgích tất yếu của tư duy Nguyễn Ái Quốc từ khi ra
đi tìm đường cứu nước và đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Cơ sở thực tiễn
Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước
thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất
nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ
máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của
giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự
cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ
thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết
quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã
man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn
cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đơng Dương vì lợi ích của giai cấp
tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm
hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân
ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế
Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
4
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích
văn hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vịng tăm tối,
dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã
hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ
thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến
tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp.
Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân
tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ
chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai
không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu
tranh địi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam
đặt ra, cần được giải quyết.
Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân
tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh
anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta
liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng
trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh
hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân,
phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy
Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn
Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng
anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
5
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được
con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu
tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta
lúc bấy giờ.
1.1.2. Quá trình hình thành Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp cơng nhân. Nó là đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng nhân, đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Đảng Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy
nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của mình.
Như vậy, Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không
tách rời với giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngồi, bắt đầu đi tìm con
đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học
tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình
(Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn
đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó,
kính phục V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách
mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách
6
mạng phong phú đó đã giúp Người từng bước rút ra những bài học quý báu và
bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương
đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây,
Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản1; xác định những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là
con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xãhội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc,
gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một
chiến sĩ cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường
thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ViệtNam. Nguyễn Ái Quốc là
người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào nước ta, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt
động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng
thuộc địa; nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua
các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong
Quốc tế Cộng sản, tháng 1l-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung
Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại
đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách
7
mệnh (1927)... nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước.
Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái
Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Nó lơi cuốn
những người u nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm
dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp
cơng nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng và phong trào công nhân,
làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
phát triển mạnh mẽ, địi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy,
các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc
Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam
Kỳ.
- Ngày l-l-1930, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn được thành lập ở
Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức
cộng sản tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào
đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản
hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu
cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để
lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt
Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc - cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ
8
cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy nhất có đủ năng lực và
uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản
họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất,
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch
sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là
kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong
những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa
chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về
chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là
đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt
Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng
để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội, giải phóng con người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ
sức lãnh đạo cách mạng.
9
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta.
1.2. Tính tất yếu và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản:
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào cơng nhân dẫn đến sự
hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng
Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công
nhân.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được
thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và
thời gian. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời là
kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.
Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào
công nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới
hạn của chủ nghĩa tư bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm
lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
1.2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được địa vị thống trị, giữ vai
trò lãnh đạo xã hội mà không tạo ra được trong hàng ngũ của mình một đảng
chính trị, lực lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh. Trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chừng nào và chỉ khi nào giai cấp công
nhân tự tổ chức ra chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thì mới
10
đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của
mình. Nếu khơng có chính đảng lãnh đạo, giai cấp cơng nhân chỉ có thể đấu
tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, chứ không phải là cuộc đấu tranh
tự giác, đấu tranh vì mục đích chính trị. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản là nhân
tố quyết định hàng đầu đảm bảo cho giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh
lịch sử của mình.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng
Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp cơng nhân
và tồn thể dân tộc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Để làm
trịn vai trị đó, Đảng Cộng sản phải là một đảng kiểu mới, một đảng mácxít –
lêninnít.
1.3. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Về lý luận, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản thể hiện tập trung ở
3 phương diện:
1.3.1. Đảng là đại diện cho lợi ích, lý tưởng của giai cấp cơng nhân và lợi ích
của quốc gia - dân tộc
Lợi ích của đảng gắn bó thống nhất với lợi ích giai cấp, được C. Mác
và Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: “Họ tuyệt nhiên khơng có một lợi ích nào tách khỏi
lợi ích của tồn thể giai cấp vơ sản”; và, “trong các giai đoạn khác nhau của
cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của
tồn bộ phong trào”. Lợi ích đó bao gồm cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài
của giai cấp: “Những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và
những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong
trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào”.
11
Với đảng cộng sản cầm quyền, lợi ích đó bao gồm cả lợi ích của quốc
gia - dân tộc và của giai cấp; vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Ngồi
lợi ích của nhân dân và của giai cấp cơng nhân, Đảng ta khơng có lợi ích nào
khác. Đảng Cộng sản đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
góp phần tích cực vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh
và tiến bộ xã hội. Lãnh đạo giai cấp và dân tộc xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng chính trị cao nhất của đảng
cộng sản. Và, những người cộng sản luôn tuyên bố cơng khai về mục đích
phản ánh bản chất giai cấp đó.
Cùng với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, bản chất giai cấp cơng nhân của
đảng cộng sản cịn thể hiện ra cách thức tổ chức một chính đảng kiểu mới
theo những nguyên tắc do V.I. Lê-nin chỉ ra, đó là: Đảng lấy chủ nghĩa Mác
là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vơ sản làm nền tảng tư
tưởng; đảng chỉ bao gồm những người ưu tú nhất của giai cấp cơng nhân, “đủ
sức nắm chính quyền và dắt dẫn toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức
lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường,
làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”; đảng lấy tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản; đảng là một khối thống nhất về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
đảng; đảng luôn trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân...
1.3.2. Đảng là kết tinh của giai cấp cơng nhân và gắn bó với quần chúng
Trước hết, đảng cộng sản gồm những người cách mạng nhất, kiên trung
nhất, gương mẫu nhất và là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Là một bộ
phận của giai cấp, xuất thân từ phong trào cơng nhân, gắn bó với giai cấp
nhưng đảng khơng phải là tồn thể giai cấp. V.I. Lê-nin yêu cầu: Không được
lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân với tồn bộ giai
cấp, vì Đảng - đội tiền phong của giai cấp, chỉ được lựa chọn từ những người
12
giác ngộ nhất, ưu tú nhất, ln đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc lên hàng
đầu.
Mối quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng cũng là một biểu hiện của
bản chất giai cấp công nhân của đảng. Theo V.I. Lê-nin, chỉ có thể cơng nhận
một đảng là đảng công nhân, khi nào và chỉ khi nào đảng đó thực sự liên hệ
với quần chúng. Sự gắn bó đó cịn được diễn đạt một cách hình ảnh là “quan
hệ máu thịt”. Phẩm chất này là một yếu tố định tính giai cấp của đảng cộng
sản, vì “đảng này sẽ khơng xứng với danh hiệu đó, chừng nào nó còn chưa
biết làm cho lãnh tụ, giai cấp và quần chúng kết hợp với nhau thành một
chỉnh thể không thể chia cắt được”; chính vì quan hệ mật thiết đó mà “tác
dụng của giai cấp vô sản lại vô cùng cao hơn số lượng của nó trong dân cư”.
Duy trì mối quan hệ gắn bó của một đảng cộng sản cầm quyền với nhân
dân là quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: Đảng ta là
một đảng cầm quyền, nhưng “Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền không phải
làm quan cách mạng, ăn trên ngồi trốc. Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính
quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đày tớ của nhân dân, phải hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính. Muốn thế phải
gần gũi nhân dân, khuyến khích nhân dân, lãnh đạo nhân dân”(5). Sau này,
Người căn dặn trong Di chúc: Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại
Đảng, làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm trịn
nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân.
1.3.3. Đảng ln tiên phong trong hoạt động thực tiễn và lý luận
Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, đảng tiên phong trong hoạt động thực
tiễn thể hiện ở phẩm chất kiên quyết nhất, cách mạng nhất và là động lực của
phong trào công nhân: Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận
kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên.
13
Những phẩm chất đó được hình thành thơng qua sự rèn luyện của
phương thức sản xuất công nghiệp, của thực tiễn đấu tranh giai cấp và kỷ luật
của tổ chức đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Đặc tính cách mạng của
giai cấp cơng nhân là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Cũng
theo Người, tính tiên phong trong hoạt động thực tiễn cịn vì “Đảng ta là con
nịi” của giai cấp dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln ln gan góc đương
đầu với bọn đế quốc thực dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung một phẩm chất thể hiện bản chất giai
cấp cơng nhân, đó là gương mẫu về đạo đức. “Đảng ta là đạo đức, là văn
minh”, cho nên “... vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải
đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá
nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích
của Đảng”.
Đảng tiên phong về lý luận, theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen thể hiện ở
phương diện: “về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở
chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào
vơ sản”. Tính chất trí tuệ, bản lĩnh kiên định trong khi đảng cộng sản lãnh đạo
cách mạng bắt nguồn từ phẩm chất lý luận này. Tiên phong về lý luận cũng là
điều kiện cần để một đảng lãnh đạo giai cấp và dân tộc, bởi theo V.I. Lê-nin:
“chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm trịn vai trị chiến sĩ tiền phong”. Lý luận đó, theo Ph. Ăng-ghen, là “chủ
nghĩa xã hội khoa học, sự thể hiện về mặt lý luận của phong trào vô sản”.
Tiên phong về lý luận, trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận Mác Lê-nin được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là yếu tố hàng đầu để Đảng vững
mạnh và thống nhất về chính trị, tư tưởng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy...;
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”. Mặt khác, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phát triển lý luận phù hợp
14
với thực tiễn cũng là một yêu cầu khách quan với sự lãnh đạo của Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Lý luận khơng phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy
tính chất sáng tạo; lý luận ln luôn cần được bổ sung bằng những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Theo đó, cách hiểu, cách thực hiện
bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng cần “đứng
vững trên mảnh đất hiện thực” Việt Nam; với tinh thần nổi bật là, “Đảng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của
dân tộc”; lợi ích của quốc gia - dân tộc là mối quan tâm hàng đầu của Đảng.
Một nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp cơng nhân Việt
Nam, và có thể xem đây là sự khái quát lý luận về bản chất giai cấp công
nhân của Đảng, là giai cấp “dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln ln gan
góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong
và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra
là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt
Nam”.
CHƯƠNG II: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HƯỚNG ĐẾN LỢI
ÍCH CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN, NHÂN DÂN LAO ĐỘNG VÀ
CẢ DÂN TỘC
2.1. Những yêu cầu mới từ bối cảnh hiện nay
Giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một vấn
đề rất lớn, liên quan đến năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến
đấu của Đảng. Đây cũng là cốt lõi lý luận của vấn đề “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” - một trong
những chủ đề được nêu hàng đầu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII tại Đại hội XIII của Đảng. Bối cảnh hiện nay đang đặt
ra mấy yêu cầu cụ thể như sau:
15
Thứ nhất, với tư cách là người lãnh đạo quá trình “đẩy mạnh tồn diện,
đồng bộ cơng cuộc đổi mới”, Đảng cần giữ vững và phát huy bản chất giai
cấp cơng nhân của mình, trước tiên là phải kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã
hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát triển của đất
nước; tiếp đến là trực tiếp giải quyết các quan hệ giữa tuân theo các quy luật
thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế
kết hợp với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ
mơi trường. Nhìn chung, tính chất xã hội chủ nghĩa trong q trình phát triển
của đất nước tùy thuộc trước hết vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản
lý - “quản trị phát triển bền vững” của Nhà nước. Tất cả những trọng trách
này đều liên quan đến việc giữ vững và thể hiện ra một cách thường trực và
căn cốt bản chất giai cấp công nhân của Đảng khi giải quyết các quan hệ trên.
Thứ hai, với tư cách là đảng cầm quyền, trong mối quan hệ với giai cấp
công nhân và nhân dân, Đảng phải tiếp tục giải quyết hài hòa quan hệ giữa
các giai tầng trong một xã hội đa dạng về lợi ích. Ở chặng đầu của thời kỳ đổi
mới, nhận thức mang tính định hướng là: “Lợi ích giai cấp cơng nhân thống
nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”(12).
Hiện nay, để bảo đảm lợi ích và hài hịa lợi ích của các giai tầng trong
bối cảnh đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước tiếp tục
xác định việc thúc đẩy và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động là trọng tâm, trọng điểm. Theo đó, khi hồn thiện đồng bộ thể
chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên coi
việc hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
16
chính đáng và vị thế của người lao động là một hướng ưu tiên. Có như vậy,
mới “Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất
để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con
người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất
của đất nước”(13). Từ đó, Đảng khơi dậy được sức mạnh của khối đại đồn
kết tồn dân tộc mà khơng xa rời lập trường của giai cấp công nhân.
Thứ ba, với tư cách là đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc, bối
cảnh hiện nay đặt ra yêu cầu mới trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cả về
năng lực hoạt động thực tiễn, cũng như năng lực tư duy lý luận. Để Đảng đảm
nhận vai trò tiên phong trong hoạt động thực tiễn, cần tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và bản lĩnh chính trị của Đảng. Điều đó giúp Đảng nâng
cao năng lực lãnh đạo trong sự nghiệp cách mạng; đồng thời, làm cho mỗi tổ
chức đảng và cá nhân người đảng viên trở thành một tấm gương đạo đức có
sức cổ vũ tồn xã hội. u cầu cụ thể là: “Kiên định và không ngừng vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh...
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Kiên định đường lối
đổi mới..., kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”; phương hướng chung
là: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây
dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và
cán bộ”(14).
Về vai trò tiên phong lý luận, việc giữ vững và phát huy bản chất giai
cấp công nhân của Đảng cần được nhìn nhận như một biện pháp để bảo vệ và
xây dựng Đảng từ bên trong, từ “cội rễ”, từ sâu xa... Theo đó, đẩy mạnh việc
nghiên cứu lý luận về giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của
17