Tải bản đầy đủ (.docx) (141 trang)

ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI từ năm 1991 đến năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.95 KB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

PHAN THỊ THANH LOAN

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2013
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số : 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Xanh

HÀ NỘI, 2014

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

2


LỜI CẢM ƠN



Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Xanh - người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong bộ
môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Phan Thị Thanh Loan

3


ASEAN
BCHTW
CEDAW
CNH-HĐH
ĐH
GDP
HĐND
HLHPNVN
LHQ
NXB
TW
UBND
UNDP


4

: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
: Ban chấp hành Trung ương
: Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ
: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
: Đại hội
: Tổng sản phẩm quốc nội
: Hội đồng nhân dân
: Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
: Liên Hợp quốc
: Nhà xuất bản
: Trung ương
: Ủy ban nhân dân
: Chương trình phát triển Liên Hợp quốc
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Bình đẳng không chỉ được coi là hòn đá tảng của hòa bình, ổn định, dân chủ,

tiến bộ xã hội mà còn là yếu tố cơ sở của các quyền con người. Bình đẳng giới vừa
là vấn đề cơ bản về quyền con người, vừa là yêu cầu về sự phát triển xã hội một
cách công bằng, hiệu quả và bền vững. Chính vì thế, trong lịch sử nhân loại, đấu
tranh cho sự bình đẳng giữa nam và nữ luôn diễn ra. Tiến tới sự bình đẳng nam – nữ
là cả một quá trình phấn đấu của mỗi quốc gia và toàn thế giới, mà thực chất là giải
phóng phụ nữ, đảm bảo cho phụ nữ quyền bình đẳng và khẳng định vị trí xã hội của
phụ nữ trong phát triển cộng đồng. Trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, vị trí và vai trò của phụ nữ là rất to lớn.
Phụ nữ Việt Nam đã có cống hiến lớn lao được ghi tạc trong dòng chảy của lịch sử
dân tộc. Họ xứng đáng được hưởng đầy đủ quyền bình đẳng với nam giới. Trong
giai đoạn hiện nay, tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế của phụ nữ là
một trong những mục tiêu Thiên niên kỷ mà Liên Hợp quốc và các quốc gia thành
viên đang cố gắng phấn đấu thực hiện.
Đối với Việt Nam, ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nước ta đã coi sự
nghiệp giải phóng phụ nữ là một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng
Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài tới sự phát triển của đất nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng
phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là
xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”. Ngay sau khi đất nước giành được độc lập,
cùng với quyền bình đẳng giữa các dân tộc và các tầng lớp, quyền bình đẳng nam
nữ đã được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước, thể hiện quyết tâm
và bản chất ưu việt của Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh xóa bỏ những áp bức, bất
công trong xã hội.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, phụ nữ có nhiều đóng góp
tích cực, mang lại lợi ích cho gia đình và toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, phụ nữ
còn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng so với nam giới; do vậy, họ chưa phát huy
hết vai trò của mình trong xây dựng gia đình, đồng thời hạn chế sự đóng góp của họ
6



cho toàn xã hội. Họ cần tiếp tục được giải phóng. Phụ nữ cần được chia sẻ về công
việc gia đình, được tạo điều kiện để nâng cao trình độ, phát triển cá nhân, đóng góp
cho xã hội. Vì vậy, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề bình đẳng
giới càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Việt Nam là một trong những nước tích cực tham gia vào tất cả các chương
trình hành động về phụ nữ của LHQ. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều nỗ lực cụ thể hóa vấn đề bình đẳng giới trong các bộ luật quốc gia, các
chương trình hành động cũng như áp dụng vào trong các hoạt động thực tiễn nhằm
mang lại quyền và lợi ích xứng đáng cho phụ nữ.
Với mục đích góp phần tìm hiểu những chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề bình đẳng giới, tôi đã chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 1991 đến năm 2013” để làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua tìm hiểu những chủ
trương và sự chỉ đạo của Đảng nhằm đảm bảo quyền và phát huy vai trò của phụ nữ
trong thời kỳ đổi mới chúng ta càng nhận thức rõ hơn những nỗ lực của Việt Nam
phấn đấu vì mục tiêu chung của nhân loại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Bình đẳng giới trên thế giới và ở Việt Nam không phải là một vấn đề mới.
Nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố.
Cuốn sách “Những vấn đề giới: Từ lịch sử đến hiện đại” do NXB Lý luận
chính trị xuất bản năm 2007 đã cho độc giả cái nhìn khái quát về vấn đề giới và
bình đẳng giới trong lịch sử nhân loại và Việt Nam. Đáng chú ý, trong đó có những
bài viết liên quan đến quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng về vấn đề
bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ. Đây là một nguồn tài liệu rất quý định hướng
tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Cuốn “Giáo trình giới và phát triển” do tác giả Nguyễn Thị Thuận và Trần
Xuân Kỳ chủ biên (NXB Lao động – Xã hội, 2012), đã cung cấp những vấn đề lý
luận như những khái niệm liên quan đến vấn đề bình đẳng giới, lồng ghép giới,
phân tích giới, bình đẳng giới trong lao động và các vấn đề xã hội… Bên cạnh đó,


7


cuốn “Giáo trình xã hội học giới” của NXB Giáo dục Việt Nam cũng cung cấp một
hệ thống lý thuyết về giới và bình đẳng giới.
Cuốn sách “Quan điểm của Đảng, Nhà nước và chủ tịch Hồ Chí Minh về
phụ nữ và công tác phụ nữ” (NXB Phụ nữ, 2012) đã tập hợp khá đầy đủ những văn
bản, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước về phụ nữ và công tác phụ nữ
cũng như những bài viết, bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ. Với
việc trích dẫn hoặc cung cấp toàn bộ văn bản, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về
phụ nữ, công tác phụ nữ đã giúp người đọc có cái nhìn chân thật nhất, chính xác
nhất về những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề này.
Năm 2005, lần đầu tiên, Bộ ngoại giao Việt Nam công bố những thành tựu
về nhân quyền trong cuốn “Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt
Nam”. Cuốn sách được coi là “sách trắng về vấn đề nhân quyền” ở Việt Nam đã
công bố rộng rãi quan điểm, chính sách của Việt Nam về quyền con người cũng như
những thành tựu đạt được trong việc bảo đảm quyền con người trên các lĩnh vực,
trong đó có thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ, xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu chung, vấn đề bình đẳng giới còn
được nghiên cứu trên một số lĩnh vực cụ thể. Trong đó phải kể đến các cuốn sách
tiêu biểu như: cuốn “Quyền bình đẳng nam nữ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
nhà nước ở Việt Nam qua tiến trình phát triển của lịch sử” của TS. Trần Thị Rồi
(NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010) đã khái quát lại tình hình
bình đẳng nam nữ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý nhà nước ở Việt Nam từ thời
Hùng Vương đến trước Cách mạng tháng Tám 1945 và từ sau năm 1945 đến nay từ
đó đề ra một số giải pháp để thực hiện bình đẳng trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Cuốn “Phụ nữ Việt Nam trong kỷ nguyên biến đổi
xã hội nhanh” của tác giả Bùi Thế Cường (NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội) đã

tập hợp những bài viết, nghiên cứu nói về việc vận dụng tiếp cận giới vào nghiên
cứu ở Việt Nam trong những năm 2000, giới trong giáo dục đào tạo, phụ nữ và gia
đình, phụ nữ vươn lên vượt khó và phụ nữ trong các nhóm xã hội. Cuốn: “ Bình
đẳng giới trong lao động và việc làm với tiến trình hội nhập ở Việt Nam: cơ hội và
8


thách thức” của tác giả Nguyễn Nam Phương (NXB Lao động – Xã hội, 2006) đã
trình bày hệ thống lí luận và thực trạng về bình đẳng giới trong lao động và việc làm
ở Việt Nam giai đoạn hiện nay; đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
bình đẳng giới trong việc làm ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề bình đẳng giới còn là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học và được lựa chọn làm đề tài luận văn, luận án của các chuyên
ngành Luật học, Xã hội học, Quản lý giáo dục… Luận án “Thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới ở Việt Nam” của Trần Thị Quốc Khánh (Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2012) đã trình bày những nghiên cứu về cơ sở lý luận
và thực tiễn về thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam, phân tích những
yếu tố ảnh hưởng và đưa ra những quan điểm, giải pháp để thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Luận án “Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam” của tác giả
Phạm Minh Anh (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2011) đã
trình bày những nghiên cứu về thực trạng, vai trò và các yếu tố tác động đến vai trò
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện mục tiêu bình
đẳng giới ở nước ta hiện nay, đề xuất kiến nghị phục vụ cho công tác này trước mắt
cũng như lâu dài. Luận văn Luật học: “Quyền bình đẳng của phụ nữ theo Công ước
về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và luật Bình đẳng giới ở Việt
Nam. Một số kinh nghiệm nước ngoài” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Bích đã làm
rõ những lý luận cơ bản về quyền bình đẳng của phụ nữ theo Công ước CEDAW,
phân tích làm rõ những vấn đề pháp lý về quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam
hiện nay, đánh giá thực trạng về bình đẳng giới hiện nay và đề xuất những giải pháp

thúc đẩy quyền bình đẳng của phụ nữ trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài
khoa học: “Thực trạng vấn đề giới và định hướng các giải pháp vì sự tiến bộ của
phụ nữ Hà Nội giai đoạn 2001 – 2005” đã được Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ Hà
Nội thực hiện. Đề tài đã cho chúng ta cái nhìn vừa khái quát, vừa cụ thể về thực
trạng bình đẳng giới ở thủ đô, đưa ra những giải pháp tích cực nhằm thực hiện mục
tiêu chung của đất nước.

9


Bên cạnh những công trình đã công bố kể trên, vấn đề nhân quyền được sự
quan tâm nghiên cứu của rất nhiều các tác giả khác và có nhiều bài viết đăng trên
các số báo, các tạp chí như tạp chí Lý luận chính trị, tạp chí Cộng sản, Nhà nước và
pháp Luật, Tạp chí Luật học, Khoa học về phụ nữ (sau đổi thành Tạp chí Nghiên
cứu gia đình và giới)… Trong đó đáng chú ý có các bài viết: Quyền con người và
quyền của phụ nữ của tác giả Trần Thị Vân Anh đăng trên tạp chí Nghiên cứu gia
đình và giới, số 1 năm 2006; tác giả cũng có bài viết “Bình đẳng giới – Một số vấn
đề lý luận” đăng trên Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 3 năm 2003 đã cho độc giả
cái nhìn khái quát về những quan điểm về bình đẳng giới, những vấn đề lý luận về
giới và bình đẳng giới. Tác giả Vũ Công Giao với bài viết: Bình đẳng giới – cuộc
đấu tranh lâu dài của nhân loại”, đăng trên tạp chí Cộng sản, số 5 năm 2004; Bài
viết “Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ qua các bản Hiến pháp Việt Nam”,
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3 năm 2006 của tác giả Nguyễn Văn
Huê đã khái quát lại những bước tiến của Việt Nam trên con đường thực hiện bình
đẳng giới thông qua các bản Hiến pháp và thể hiện rõ những nỗ lực của Đảng và
Nhà nước trong việc thực hiện mục tiêu này. Các bài viết: “Việt Nam với vấn đề
bình đẳng giới” của tác giả Trịnh Thị Hồng đăng trên Tạp chí Toàn cảnh sự kiện –
dư luận, số 183 năm 2005; bài viết “Bình đẳng nam nữ và thực hiện quyền bình
đẳng nam nữ ở nước ta” của hai tác giả Võ Thị Hồng Loan, Đặng Ánh Tuyết đăng
trên Tạp chí Cộng sản, số 5 năm 2005 đã cho chúng ta cái nhìn khái quát về vấn đề

bình đẳng giới ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu trên đây cho thấy sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước ta và các nhà nghiên cứu đối với vấn đề bình đẳng giới nói chung
và bình đẳng giới ở Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên chưa có công trình nào tìm hiểu
một cách có hệ thống những chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới của
Đảng ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ năm 1991 đến năm 2013.
Nhưng cũng cần khẳng định những công trình đã công bố là những gợi ý và nguồn
tài liệu quan trọng để tác giả luận văn định hướng và hoàn thành công trình nghiên
cứu của mình.
10


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-

3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và làm rõ những chủ trương, sự chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới của Đảng

-

ở Việt Nam và gắn với những thành tựu cụ thể trong giai đoạn 1991 – 2013.
Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm lịch sử rút ra từ những chủ trương và

-

sự chỉ đạo thực hiện của Đảng về vấn đề bình đẳng giới trong giai đoạn trên.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập hợp đầy đủ các tư liệu có liên quan đến đề tài
Khái quát về thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam trước 1991
Chỉnh lý, hệ thống hóa các tư liệu để trình bày những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng


-

về thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2013.
Phân tích những ưu điểm, hạn chế trong quá trình lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới

3.2.

của Đảng cùng với nguyên nhân từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Các chủ trương, chính sách của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về
thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam, hoạt động của Đảng, các tổ chức, cơ quan dưới
sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam từ năm 1991 đến
4.2.
-

năm 2013.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Những chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề bình đẳng giới và chỉ
đạo thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam trên một số lĩnh vực tiêu biểu: chính trị; kinh

-

tế, việc làm; văn hóa – xã hội và gia đình.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1991 đến năm 2013. Với mốc khởi đầu là năm 1991 –
ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VII lần đầu tiên đưa ra yều cầu: thực hiện bình đẳng nam
nữ về mọi mặt và mốc kết thúc là năm 2013 – Việt Nam trúng cử vào Uỷ ban Nhân
quyền của LHQ khẳng định thành tựu của Việt Nam về bảo đảm quyền con người nói

chung và quyền của phụ nữ nói riêng.

5.
5.1.
-

Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước, chủ yếu là các văn kiện ĐH, hội nghị

-

BCHTW từ ĐH VI đến ĐH XI.
Các sách, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có đề cập đến vấn đề
bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới ở Việt Nam nói riêng.
11


-

Các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí khoa học.
Các báo cáo tổng kết của các cơ quan Đảng, Nhà nước, HLHPNVN, Ủy ban Quốc
gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, kết quả khảo sát, điều tra của các đề tài khoa

-

học…
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử: trình bày đúng quan điểm, chính sách, sự chỉ đạo của Đảng về


-

thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2013.
Phương pháp logic nhằm phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm của Việt Nam

6.
-

trong hoạch định các chính sách, chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới.
Phương pháp khác: thống kê, tổng hợp dữ liệu, so sánh và đưa ra nhận định.
Đóng góp của luận văn
Tập hợp những tư liệu, bước đầu khái quát những chủ trương, chính sách, sự chỉ đạo

5.2.

thực hiện bình đẳng giới của Đảng ở Việt Nam từ đó rút ra một số kinh nghiệm, bài
7.

học có giá trị về thực hiện bình đẳng giới, phục vụ hiện tại.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về
vấn đề nhân quyền, vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam.
Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2000.
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ
năm 2001 đến năm 2013.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.


NỘI DUNG
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000
1.1.
1.1.1.

Khái lược về thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam trước năm 1991
Khái niệm “Bình đẳng giới”
Trước khi tìm hiểu về khái niệm “bình đẳng giới” ta cần phân biệt khái niệm
“giới tính” và khái niệm “giới”. “Giới tính” là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ
12


môn Sinh vật học dùng để chỉ sự khác biệt về sinh học giữa nam và nữ. Đó là sự khác
biệt phổ thông và không thay đổi được. Ví dụ: Sự khác biệt về giới tính giữa phụ nữ
và nam giới thể hiện ở các bộ phận trên cơ thể, ở chức năng tái sản xuất nòi giống. Về
cơ bản, giới tính không thay đổi theo thời gian và không gian. Có thể định nghĩa ngắn
gọn: “Giới tính là sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ”[55, tr. 31].
Trong khi đó, “giới” là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn Nhân loại
học nghiên cứu về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và
nữ, bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia các nguồn và lợi ích.
“Giới” đề cập đến các quy tắc, tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ không theo thực tế
cá nhân. Vai trò giới được xác định theo văn hóa, theo xã hội và các vùng địa lý
khác nhau. Khi mới sinh ra chúng ta không có sẵn đặc tính giới. Những đặc tính
giới mà chúng ta có được là do chúng ta học được từ gia đình, xã hội và nền văn
hóa của chúng ta. Có thể định nghĩa: “Giới là quan hệ xã hội giữa nam và nữ và
cách thức mối quan hệ đó được xây dựng nên trong xã hội”[55, tr. 34]. Các quan
niệm, khuôn mẫu về giới như vậy được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quan
niệm về giới do xã hội tạo ra chứ không phải do tự nhiên sinh ra. Chính vì thế, quan

hệ giới vận động không ngừng, biến đổi cùng xã hội theo tác động của các yếu tố xã
hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo… Sự thay đổi về
quan hệ giới, đặc trưng giới theo những hướng tích cực luôn vấp phải những rào
cản, định kiến và các quan niệm lỗi thời. Vì vậy, quá trình biến đổi quan hệ giới
thường diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn.
“Bình đẳng giới” là thuật ngữ mới trong xã hội hiện đại. Thực chất, vấn đề
bình đẳng giới là vấn đề bình đẳng nam – nữ và giải phóng phụ nữ. Xung quanh vấn
đề này có nhiều quan điểm khác nhau. Ít nhất đã và đang tồn tại ba quan điểm khác
nhau về bình đẳng giới:
Thứ nhất, quan điểm về bình đẳng giới hình thức, theo đó, đàn ông hay đàn
bà đều là những chủ thể bình đẳng trong các quan hệ pháp luật, có các quyền và
nghĩ vụ pháp lý ngang nhau. Mặc dù quan điểm này chứa đựng tư tưởng tiến bộ
nhưng trên thực tế nó vẫn dẫn đến sự bất bình đẳng nam – nữ, nhất là sự bóc lột về
kinh tế đối với phụ nữ.
13


Quan điểm thứ hai cho rằng, do phụ nữ yếu hơn đàn ông về thể chất nên để
thực hiện bình đẳng giới, cần “miễn” cho phụ nữ tham gia vào một số lĩnh vực được
coi là không thích hợp với đặc trưng của nữ giới. Về bản chất, quan điểm này là sự
hạn chế trá hình các quyền và cơ hội phát triển của phụ nữ. Trên thực tế, nó thừa
nhận sự bất bình đẳng với phụ nữ là “hợp lý”, xuất phát từ đặc thù giới tính của họ.
Quan điểm thứ ba là quan điểm bình đẳng giới thực chất. Quan điểm này cũng
thừa nhận sự yếu thế của phụ nữ nhưng lại không coi đó là cơ sở để đặt phụ nữ vào
địa vị phụ thuộc nam giới mà ngược lại, là để đưa phụ nữ thoát khỏi tình trạng phụ
thuộc. Do đó, theo quan điểm này, bên cạnh việc quy định những quyền và nghĩa vụ
chung, bình đẳng cho cả nam và nữ, pháp luật còn xác định những đặc quyền chỉ áp
dụng cho phụ nữ nhằm bù đắp cho phụ nữ những thiệt thòi, đặt họ vào vị trí xuất phát
ngang bằng với đàn ông trong các quan hệ xã hội, bảo đảm cho họ có thể tiếp nhận
các cơ hội và hưởng thụ các quyền một cách bình đẳng như nam giới.

Từ bình đẳng giới hình thức tới bình đẳng giới thực chất là quá trình phát
triển trong nhận thức của nhân loại về vấn đề bình đẳng giới. Phải mất một thời gian
dài nhân loại mới đi tới nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Đến khi LHQ thông qua
Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công ước
CEDAW) vào năm 1979 thì cách tiếp cận bình đẳng giới thực chất mới trở thành
phổ biến trên thế giới. Theo cách tiếp cận của CEDAW, bình đẳng giới (hay bình
đẳng nam nữ) không có nghĩa là đối xử với phụ nữ giống như nam giới trong mọi
trường hợp, bởi điều này trên thực tế chỉ làm tăng thêm sự phụ thuộc của phụ nữ
với nam giới, do phụ nữ là nhóm yếu thế hơn nam giới. CEDAW cũng không áp
dụng mô hình bình đẳng giới mang tính chất bảo hộ phụ nữ, mà theo đó, sự bảo vệ
phụ nữ được dựa trên sự chấp nhận địa vị phụ thuộc của phụ nữ với đàn ông. Thay
vào đó, CEDAW sử dụng mô hình bình đẳng thực chất. Theo mô hình này, bình
đẳng giới không mang ý nghĩa đơn giản là cào bằng sự tham gia, đóng góp của nam
giới và phụ nữ trong mọi hoạt động, mà có nghĩa là phụ nữ và nam giới được công
nhận vị thế như nhau trong xã hội và cùng có các điều kiện và cơ hội như nhau để
phát huy khả năng, tham gia đóng góp và hưởng thụ thành quả phát triển của quốc
gia trên mọi lĩnh vực. Với những điểm tiến bộ này, tính đến tháng 8 năm 2011,
14


Công ước đã có 187 quốc gia thành viên, là một trong hai điều ước quốc tế về
quyền con người có số lượng quốc gia thành viên cao nhất. Việt Nam là một trong
những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước vào ngày 29/7/1980,
phê chuẩn vào ngày 27/11/1981.
Dựa trên quan điểm của CEDAW, Việt Nam cũng thừa nhận và đưa ra khái
niệm về “bình đẳng giới”, được chính thức đưa vào Luật Bình đẳng giới năm 2006 với
nội dung như sau: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được
tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,
của gia đình và hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển đó”[44, tr. 6].
Bình đẳng giới không có nghĩa là thay đổi vai trò giới một cách máy móc,

theo kiểu những gì phụ nữ phải làm thì đổi cho nam giới làm và ngược lại hoặc đi
đến chủ nghĩa bình quân giữa nam và nữ để chia nhau những cơ hội, lợi ích, trách
nhiệm... Bình đẳng giới thể hiện ở nhiều mặt: Nữ và nam có điều kiện ngang nhau
để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; Nữ và nam có cơ
hội ngang nhau để tham gia, đóng góp và hưởng thụ các nguồn lực của xã hội trong
quá trình phát triển; Nữ và nam có các quyền lợi ngang nhau trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Như vậy, bình đẳng giới không chỉ đơn giản là số lượng phụ nữ và
nam giới, hay trẻ em trai và trẻ em gái tham gia trong tất cả các hoạt động như
nhau, cũng không có nghĩa là nam giới và phụ nữ giống nhau, mà bình đẳng giới
nghĩa là nam giới và phụ nữ được công nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong
xã hội, đồng thời, sự tương đồng và khác biệt giữa nam và nữ được công nhận. Đây
là cơ sở để nam và nữ có cơ hội và điều kiện bình đẳng để phát huy đầy đủ các tiềm
năng của họ, có cơ hội tham gia, đóng góp và hưởng lợi bình đẳng từ công cuộc
phát triển của quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
1.1.2.

Thực hiện bình đẳng giới từ năm 1945 đến năm 1975
Việt Nam mặc dù là một nước chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo
nhưng vấn đề bình đẳng nam nữ đã được đề cập từ rất sớm. Về khía cạnh văn hóa,
lịch sử đã ghi nhận công lao của những phụ nữ có công lớn trong sản xuất, chiến
đấu và quản lý xã hội như Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Chân, Bùi Thị Xuân, Nguyên Phi
Ỷ Lan, Thái hậu Dương Vân Nga…. Về khía cạnh pháp lý, quyền của phụ nữ đã
15


được đề cập đến trong Bộ luật Hồng Đức thời Lê sơ cách đây nhiều thế kỷ với một
tinh thần khoan dung và nhân đạo sâu sắc như: bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ
trong hôn nhân gia đình, nghiêm khắc xử phạt những hành vi xâm hại phụ nữ, quan
tâm đến những phụ nữ bất hạnh…
Kế thừa những truyền thống quý báu đó, sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh coi

việc giải phóng phụ nữ là một trong những mục tiêu cơ bản của sự nghiệp cách
mạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lợi của phụ nữ chính là quyền được
hưởng tự do, dân chủ, được bình đẳng với nam giới, được tôn trọng, được hạnh
phúc, được học hành, được phát huy tài năng và sức lực của mình, đóng góp vào sự
phát triển của đất nước và của chính bản thân mình. Với tư tưởng đó, ngay sau khi
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng “nam nữ bình quyền” đã được Đảng
và Bác đề cao, coi đó là một trong những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản
dân quyền. Trong những ngày cách mạng sôi sục, Đảng đã tích cực vận động phụ
nữ tham gia Hội Phụ nữ Cứu quốc, trở thành một lực lượng to lớn trong Mặt trận
Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ đã góp phần quan trọng đưa cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa. Từ đây, địa vị của phụ nữ đã bắt đầu thay đổi. Phụ nữ được quyền tham
gia bầu cử, ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội) như nam
giới. Quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của
nước ta năm 1946 với nội dung: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương
diện” (Điều 9) và “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt
gái trai đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công
quyền” (Điều 18). Chủ trương này dần được hoàn thiện trong các bản Hiến pháp
tiếp theo cũng như từng bước được thực hiện trong đời sống kinh tế - xã hội và gia
đình. Đến Hiến pháp năm 1959, quyền bình đẳng nam nữ được ghi nhận cụ thể hơn
ở các Điều 22, 23, 24. Trong đó điều 24 ghi nhận rõ: “Phụ nữ nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội và gia đình”.
Nhận thức rõ được vai trò của phụ nữ, trong những năm kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng tới
16


công tác vận động phụ nữ và công tác bảo vệ bà mẹ, trẻ em. Trong “Nghị quyết về
phụ nữ vận động” ngày 28/3/1935 Đảng chỉ rõ: “Phụ nữ là một lực lượng cách mạng

rất lớn. Đảng ta phải hết sức chú ý đem phụ nữ vào trường đấu tranh, phải kéo họ
tham gia các hình thức công tác cách mạng tranh đấu”[24, tr.68]. Đảng ta cũng rất
coi trọng vấn đề đào tạo, đề bạt cán bộ nữ và được thể hiện rõ trong Nghị quyết của
Ban Bí thư ngày 6/12/1957 “Về một số vấn đề công tác vận động phụ nữ”: “Nghiên
cứu kế hoạch toàn diện đào tạo, đề bạt cán bộ nữ, mạnh dạn đưa cán bộ nữ tham gia
các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền và các ngành khác, nhất là công tác giáo dục,
y tế và xã hội”[25, tr.742]. Đảng cũng dành sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề sức khỏe
của phụ nữ, trong đó có thiên chức làm mẹ. Trong Chỉ thị của Ban Bí thư số 43CT/TW ngày 25/4/1962 “Về công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em”, Đảng nhấn mạnh:
“Công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em là một công tác rất quan trọng… Công tác bảo vệ
bà mẹ và trẻ em là một bộ phận công tác cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhằm dần dần xóa bỏ những tập quán thiếu vệ sinh, thiếu khoa học, tạo
điều kiện giải phóng sức sản xuất của phụ nữ, phát triển sản xuất, đào tạo thế hệ
tương lai khỏe mạnh và có nhiều đức tính tốt”[26, tr.417-419]. Luật Hôn nhân và gia
đình đầu tiên ở Việt Nam đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa
thứ nhất, kỳ họp thứ 11 thông qua trong phiên họp ngày 29/12/1959 đánh dấu một
bước tiến trong quá trình thực hiện bình đẳng nam nữ ở Việt Nam. Trong nguyên tắc
chung của Luật quy định rõ: “Nhà nước đảm bảo việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn
nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận,
trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ” (Điều 1) và
“Xóa bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam
khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái” (Điều 2).
Vai trò to lớn, quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới ngày càng được thể
hiện rõ nét qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Phụ nữ Việt Nam đã hăng hái tham gia phong trào “phụ nữ ba đảm đang”, vừa giết
giặc nơi tiền tuyến vừa bảo vệ hậu phương, tích cực tăng gia sản xuất, bảo đảm cho
quân đội ta ăn no đánh thắng quân xâm lược. Nhiều bà mẹ với tinh thần yêu nước
17



cao cả đã động viên chồng con tòng quân giết giặc không sợ gian khổ, hi sinh.
Nhiều phụ nữ đã tham gia lực lượng dân quân, tự vệ, bắn rơi máy bay Mỹ đánh phá
hậu phương lớn miền Bắc. Ở tiền tuyến lớn miền Nam, phụ nữ tích cực tham gia
đánh địch bằng ba mũi giáp công (chính trị, quân sự, binh vận). Đặc biệt, “đội quân
tóc dài” nổi tiếng kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong cuộc đấu tranh
chính trị trực diện với Mỹ - ngụy làm cho chúng khiếp sợ. Để đánh giá công lao của
phụ nữ, ngày 2/11/1974, Ban Bí thư ra Nghị quyết số 238-NQ/TW “Về việc tổng
kết phong trào phụ nữ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng” nhằm đánh giá công
lao to lớn của phụ nữ đóng góp vào sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, cách
mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong Nghị quyết cũng khẳng
định những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trên con đường tiến tới bình đẳng
giới: “Cùng với những thắng lợi của cách mạng, phụ nữ Việt Nam đã giành được
quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt và quyền ấy đã được ghi trong Hiến pháp
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[27, tr. 322].
Như vậy, trong những năm tháng cách mạng và kháng chiến ác liệt giành độc
lập của dân tộc, Đảng ta vẫn luôn quan tâm tới phụ nữ, chăm lo tới công tác của phụ
nữ và đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới.
1.1.3.

Thực hiện bình đẳng giới từ năm 1975 đến năm 1991
Năm 1975, với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách
mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn cả nước độc lập, thống
nhất, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ
nghĩa. Trong lúc đất nước gặp vô vàn khó khăn khi vừa bước ra khỏi cuộc chiến
tranh tàn khốc, hơn lúc nào hết, sức mạnh, tinh thần và ý chí của con người Việt
Nam được phát huy, cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống
mới tốt đẹp hơn. Trong những năm tháng đó, vai trò của phụ nữ lại một lần nữa
được khẳng định. Đảng và Nhà nước ta cũng ghi nhận công lao đóng góp của phụ
nữ và có nhiều nỗ lực trong việc tiến tới thực hiện bình đẳng giới. Sau khi LHQ
thông qua Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

(Công ước CEDAW) vào năm 1979, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu
tiên trên thế giới ký tham gia Công ước vào ngày 29/7/1980, phê chuẩn vào ngày
18


27/11/1981 khẳng định mong muốn và nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện
những mục tiêu chung của toàn nhân loại, nhằm bảo vệ quyền con người và quyền
của phụ nữ. Bản Hiến pháp 1980 ra đời đã khẳng định quyền của phụ nữ trên tinh
thần đó. Điều 63 của Hiến pháp năm 1980 khẳng định: “Phụ nữ và nam giới có
quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. So
với 2 bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 1980 có những điều quy định cụ thể
hơn về quyền của phụ nữ và trách nhiệm của Nhà nước cũng như toàn xã hội đối
với việc đảm bảo bình đẳng nam nữ, chăm lo cho phụ nữ.
Đảng ta luôn khẳng định phụ nữ là một lực lượng to lớn, có vai trò quan
trọng trong sản xuất và hoạt động xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự
phát triển của đất nước. Trong thời gian này, Đảng đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị,
chuyên đề hoạt động về giới nữ nhằm phát huy vai trò của lao động nữ và cán bộ
nữ. Chỉ thị 44-CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư TW Đảng “Về một số vấn đề
cấp bách trong công tác cán bộ nữ” đã khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn
của phụ nữ trong ba cuộc cách mạng, trong đó sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ
nữ đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nam nữ bình đẳng. Trên
cơ sở đó, Đảng ta đã đề ra một số chủ trương lớn để thực hiện mục tiêu bình đẳng
nam nữ. Trước hết, Đảng khẳng định phải tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về quan
điểm, nhận thức đối với vấn đề cán bộ nữ: “Đảng ta luôn luôn đặt sự nghiệp giải
phóng phụ nữ gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc và giai cấp. Trong thời kỳ mới,
vấn đề giải phóng phụ nữ gắn liền với hai nhiệm vụ chiến lược, với ba cuộc cách
mạng… Tiếp tục thực hiện nam nữ bình đẳng, nâng cao vai trò cán bộ nữ trong
quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước là một nội dung quan trọng để thật sự phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng với
quần chúng, tăng cường Nhà nước chuyên chính vô sản… Những quan điểm, chính

sách của Đảng đối với phụ nữ và cán bộ nữ cần phải được quán triệt đến từng chi
bộ, từng đảng viên”[28, tr.156 -157]. Đây là chủ trương lớn thể hiện sự quan tâm,
tạo điều kiện của Đảng ta đối với phong trào phụ nữ nói chung và đối với cán bộ nữ
nói riêng nhằm xóa bỏ tàn dư tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ”, khắc phục

19


những biểu hiện lệch lạc coi thường phụ nữ, không tôn trọng và phát huy vai trò,
năng lực của cán bộ nữ.
Chỉ thị 44 cũng đề ra hướng tăng cường công tác cán bộ nữ, coi đây là biện
pháp quan trọng để thực hiện bình đẳng nam nữ: “Vấn đề cán bộ nữ phải đặt trong
việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước…
Tăng cường cán bộ nữ không phải chỉ để làm công tác vận động mà chính là để phát
huy khả năng, trí tuệ của chị em đóng góp vào sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và
công cuộc quản lý của Nhà nước”[28, tr.157]. Điều quan trọng, Chỉ thị nhấn mạnh:
Sau khi đề bạt phải tiếp tục bồi dưỡng, tạo điều kiện giúp chị em hoàn thành nhiệm vụ.
Việc tạo điều kiện để giới nữ tham gia vào lĩnh vực quản lý, lãnh đạo trong
các cơ quan nhà nước từ TW tới địa phương, trước hết là nhằm đảm bảo cho nữ giới
có người đại diện, bảo vệ quyền lợi của giới mình trong đề xuất chính sách và thực
hiện chính sách, sau đó sẽ tiến tới thực hiện bình đẳng nam nữ. Đảng nhận thức rõ
rằng: để phấn đấu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước hết nữ
giới phải được bình đẳng trong lĩnh vực tham gia quản lý, lãnh đạo. Đảng coi đây là
dấu hiệu cao nhất mức độ bình đẳng nam nữ.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, các vấn đề xã hội cũng
được Đảng và Nhà nước quan tâm, trong đó có vấn đề bình đẳng giới. Theo đó, vị
trí, vai trò của phụ nữ càng được khẳng định và đề cao. ĐH đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng mở đầu cho công cuộc đổi mới của đất nước đã nhấn mạnh vai trò
to lớn của giới nữ so với nam giới trong sự nghiệp cách mạng và chỉ rõ: vấn đề giải
phóng phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ là nhiệm vụ của toàn Đảng, của Nhà

nước và các cấp, các ngành: “Để phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp
cách mạng, cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thấu suốt trong
cả hệ thống chuyên chính vô sản, được cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật. Các
cơ quan nhà nước với sự phối hợp của các đoàn thể, cần có những biện pháp thiết
thực tạo việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ
em, thực hiện đúng Luật Hôn nhân và gia đình. Tạo điều kiện cho phụ nữ kết hợp
được nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc”[29,
tr. 450]. Đảng nhận thức sâu sắc chức năng “kép” của nữ giới; vừa là một công dân,
20


là người lao động, lại vừa là người vợ, người mẹ; nữ giới có vai trò đặc biệt quan
trọng trong lao động, sản xuất nhất là trong xây dựng gia đình hạnh phúc. Vì vậy,
Đảng yêu cầu các cấp, các ngành phải: Tạo điều kiện cho phụ nữ kết hợp được
nghĩa vụ công dân và chức năng làm mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc. Cũng trong
năm này, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 12 thông qua ngày 29/12/1986 khẳng
định sự bình đẳng nam nữ trong gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích của người phụ nữ,
đề cao vai trò của người phụ nữ với việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong những năm tháng vừa bước ra khỏi hai cuộc chiến tranh tàn
khốc, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, Đảng và Nhà nước chưa có
điều kiện đề ra những biện pháp cụ thể, các chương trình hành động, các chiến lược
quốc gia về bình đẳng giới. Do đó, phụ nữ thực sự chưa có điều kiện để phát triển,
khẳng định vị thế, tài năng của mình trong xã hội. ĐH VI của Đảng là một bước
ngoặt quan trọng đối với sự phát triển đất nước, trong đó có phụ nữ. Trong ĐH này,
Đảng đã nêu lên những quan điểm, khẳng định vai trò của phụ nữ trong gia đình và
xã hội, chỉ đạo các cấp, các ngành tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển. Tuy nhiên,
kể từ sau ĐH VI, Đảng và Nhà nước chưa có văn bản cụ thể hay những chính sách
liên quan trực tiếp đến vấn đề bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
1.2.


Chủ trương bảo đảm bình đẳng giới của Đảng từ năm 1991 đến

năm 2000
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
Từ khi tiến hành đổi mới, Việt Nam đã có bước ngoặt về tăng trưởng kinh tế,
tạo đà phát triển đất nước, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của người
dân. Bên cạnh lĩnh vực kinh tế, các mặt của đời sống xã hội cũng được Đảng và
Nhà nước quan tâm, chăm lo, trong đó có vấn đề bình đẳng giới. Trong chính sách
đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước Việt Nam, con người được đặt ở vị trí
mục tiêu cuối cùng. Công cuộc đổi mới toàn diện đã đáp ứng nguyện vọng của
người dân, nhận được sự hưởng ứng và tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, trong
đó có phụ nữ Việt Nam và thu được những thành tựu đáng khích lệ.

21


Năm 1991, “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2000”
được ĐH Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua, với quan điểm cơ bản là đặt con
người vào trung tâm của sự phát triển, khơi dậy mọi tiềm năng cá nhân và của cả
cộng đồng, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Mục tiêu
tổng quát của Chiến lược là đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, phát triển nhanh.
Đây là chiến lược phát triển vì dân, do dân và lấy ấm no, tự do, hạnh phúc của con
người làm mục tiêu phấn đấu cao nhất. Chiến lược này cũng là điều kiện cơ bản để
Việt Nam thực hiện cam kết của mình với Công ước CEDAW.
Nhờ đường lối đổi mới đúng đắn, kể từ năm 1991 đến năm 2000, Việt Nam
đã thu được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. GDP tăng
bình quân trong thời kỳ 1991 – 1995 là 8,2%, năm 1996 là 9,34% và năm 1997 là
8,8%[66, tr.6]. Bên cạnh phát triển kinh tế, công cuộc đổi mới cũng đạt nhiều thành
tựu về mặt xã hội, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế như: giải quyết việc

làm, xóa đói giảm nghèo, giáo dục được đặt lên vị trí hàng đầu – là quốc sách, sức
khỏe của nhân dân được quan tâm, chăm sóc, công tác dân số và kế hoạch hóa gia
đình, đặc biệt là việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền của phụ nữ cũng
thu được nhiều thành tựu.
Bên cạnh đó, đây cũng là giai đoạn Việt Nam mở cửa, hội nhập với khu vực
và thế giới mà dấu mốc quan trọng là gia nhập tổ chức khu vực ASEAN và bình
thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Mở cửa, hội nhập cũng đồng nghĩa với việc Việt
Nam phải nỗ lực hơn nữa trong việc phấn đấu đạt được những mục tiêu, những giá
trị chung của toàn cầu. Đối với vấn đề bình đẳng giới, Việt Nam có thể tiếp thu, học
hỏi kinh nghiệm của các nước có nhiều thành tựu trong công tác này.
Kinh tế phát triển, chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi để Đảng và Nhà
nước ta quan tâm tới các vấn đề xã hội trong đó có vấn đề bình đẳng giới, nâng
quyền cho phụ nữ.
Cùng với Công ước CEDAW mà Việt Nam tham gia ký kết giai đoạn trước,
trong giai đoạn này, LHQ và các quốc gia trên thế giới dành sự quan tâm đặc biệt
tới vấn đề bình đẳng giới. Vai trò trung tâm của vấn đề bình đẳng giới được thể hiện
rất rõ trong Hội nghị Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ ở Bắc Kinh năm 1995 đã thông
22


qua Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và các hội nghị thế giới quan trọng khác như
Hội nghị Rio về môi trường và phát triển (1992), Hội nghị Viên về quyền con người
(1993), Hội nghị Cairo về dân số và phát triển (1994), Hội nghị Thượng đỉnh Thế
giới tại Copenhagen về phát triển xã hội (1995) và Hội nghị Istanbul về Định cư
(1996). Đặc biệt Cương lĩnh hành động Bắc Kinh năm 1995 đã đề ra 12 lĩnh vực ưu
tiên đều liên quan đến những vấn đề xã hội có tác động đến phụ nữ và bình đẳng
giới mà tiêu biểu là các vấn đề nghèo đói, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, việc làm,
nông thôn, bạo lực và chiến tranh, quyền quyết định, môi trường, trẻ em gái…
Những nội dung về bình đẳng giới trong các hội nghị trên là cơ sở để Việt Nam đề
ra những chính sách phù hợp với các mục tiêu chung của nhân loại và phù hợp với

thực tiễn của Việt Nam.
1.2.2.

Chủ trương thực hiện bình đẳng giới của Đảng
Trong bối cảnh mới, ĐH lần VII của Đảng đã đưa ra yêu cầu: “thực hiện
bình đẳng nam nữ về mọi mặt”[31, tr. 234]. Báo cáo chính trị của BCHTW khóa VI
tại Đại hội khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu
phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con
người”[31, tr. 201]. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nêu rõ: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội…chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của người mẹ và của
thanh thiếu niên”[31, tr. 232]. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức
rõ hơn, đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của nguồn lực con người, đặt con người vào
trung tâm của sự phát triển. Đảng coi chiến lược phát triển nguồn lực con người là
“chiến lược của các chiến lược”. Bởi vậy, vấn đề xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh
phúc và phát huy vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới vì chủ
nghĩa xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, xem đó là một mục tiêu và
nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đồng thời là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể xã hội và
của từng gia đình.

23


Trong bối cảnh chung đổi mới đất nước một cách toàn diện, vấn đề bình
đẳng giới, đề cao vai trò của phụ nữ được Đảng đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số
04/NQ-TW ngày 12/4/1993 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và tăng cường công tác
vận động phụ nữ trong tình hình mới” và Chỉ thị số 37/CT-TW ngày 16/5/1994 của
Ban Bí thư về “Công tác cán bộ trong tình hình mới” được coi là những văn bản

thể hiện rõ khía cạnh giới trong quan điểm của Đảng. Văn bản ghi nhận phụ nữ Việt
Nam vừa có tiềm năng to lớn vừa là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội; đề xuất nhiệm vụ mang tính chiến lược là xây dựng đội
ngũ cán bộ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ phấn đấu, trưởng thành, tăng tỉ lệ nữ trong
các cấp lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, xã
hội. Nghị quyết 04/NQ-TW đã xác định ba điểm lớn hay chính là quan điểm của
Đảng về phụ nữ và công tác phụ nữ:
Một là, phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người, cũng tức là người đặt dấu ấn nền tảng, tạo nhân
cách, tâm hồn, tư duy cho thế hệ sau. Vì vậy: “phải xem giải phóng phụ nữ là một
mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta”[30, tr.18].
Hai là, mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần cho phụ nữ, nâng cao vị thế xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt
nam nữ bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức
khỏe, kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích
xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu.
Ba là, sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình. Đường
lối giải phóng phụ nữ phải được thể chế hóa và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật,
chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết cũng khẳng định vai trò,
trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ trong việc đoàn kết phụ nữ, hướng dẫn và
vận động chị em phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ, vì sự
phát triển và hạnh phúc của phụ nữ, vì sự nghiệp đổi mới, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội văn minh.
24


Để thực hiện những mục tiêu trên, Đảng cũng đề ra một số công tác lớn cần
phải thực hiện: giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã

hội, bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của người phụ nữ; giáo dục, bồi dưỡng phẩm
chất, năng lực, nâng cao trình độ mọi mặt của phụ nữ; xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc; về công tác cán bộ phải coi đây là nhiệm vụ có tính
chiến lược trong toàn bộ công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước, có kế hoạch tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ…bên cạnh đó phải đổi mới nội dung tổ chức
và phương thức hoạt động của HLHPNVN và tăng cường công tác phụ nữ của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội.
Tình hình đất nước và thế giới có nhiều biến chuyển yêu cầu Đảng phải có
sự nhìn nhận toàn diện và khách quan về các giai cấp, tầng lớp và từng bộ phận
nhân dân trong xã hội. Nghị quyết 04/NQ-TW có thể được coi là dấu mốc quan
trọng về bình đẳng giới ở Việt Nam, chỉ rõ vai trò quan trọng của phụ nữ trong thời
kỳ đổi mới của đất nước. Phụ nữ không chỉ là người chăm lo cho gia đình mà còn là
một bộ phận lớn trong lực lượng lao động. Đảng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của phụ
nữ đối với thế hệ tương lai của đất nước: là người thầy đầu tiên của con người, cũng
tức là người đặt dấu ấn nền tảng, tạo nhân cách, tâm hồn, tư duy cho thế hệ sau. Có
thể nói, đây là sự khẳng định và ghi nhận của Đảng, Nhà nước về vai trò đặc biệt
quan trọng của phụ nữ. Người mẹ chính là người chăm lo, chỉ bảo, uốn nắn nhân
cách của trẻ thơ – tương lai của đất nước. Coi “giải phóng phụ nữ là một mục tiêu
và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta” là Đảng đặc biệt coi trọng sự nghiệp giải phóng phụ nữ, nâng quyền
cho phụ nữ; khẳng định mục tiêu tất cả vì con người của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Vai trò của phụ nữ trong xã hội vô cùng quan trọng cũng đồng nghĩa với việc
họ phải có quyền bình đẳng với nam giới trong đời sống xã hội. Giải phóng phụ nữ
là mục tiêu đặt ra trong mọi thời kỳ cách mạng của Việt Nam, thể hiện tính nhân
văn của chế độ xã hội ở Việt Nam.
Nghị quyết 04 cũng đề ra được phương hướng xây dựng người phụ nữ Việt
Nam trong thời kỳ mới vừa phát huy những giá trị nhân cách tốt đẹp của người phụ
nữ Việt Nam truyền thống vừa năng động, sáng tạo để phù hợp với yêu cầu mới của
25



×